Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2016
Hoàng Quân - Cô Giáo, Thầy Giáo
![]() |
(Ảnh mang tính minh họa) |
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục.
Nhưng trường hợp cô
giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của
cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi.
Cô Đỗ Thị Nghiên
dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi
thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói du
dương, trầm bổng. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng mượt mà. Có lần
ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy
Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc mini jupe, mang kính mát, ngồi
một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé
tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng
mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Thuở đó, ở tuổi nhi
đồng, hẳn tôi chưa thể hiểu “kính nhi viễn chi” là gì. Nhưng có lẽ tôi nhìn cô
Nghiên qua lăng kính tương tự như vậy. Vừa ngưỡng mộ, vừa e ngại. Dù vậy, đâu
đó trong xét đoán trẻ thơ của tôi, tôi có ý nghĩ rằng, cô Nghiên dành cảm tình
đặc biệt cho tôi. Cô rất nghiêm trang. Nhiều trò đã nghe cô trách mắng. Nhưng
phần tôi, chưa bao giờ. Hơn nữa, tôi có cảm tưởng, khi nói chuyện với tôi,
dường như giọng cô thật dịu dàng. Tôi luôn là đứa học trò nhỏ ngoan ngoãn trong
suốt thời tiểu học. Một hôm, cô Nghiên bỗng cân nhắc cho tôi làm trưởng ban
trật tự, giữ yên lặng trong lớp 4B. Mỗi khi cô có việc lên văn phòng, hoặc bận
rộn việc gì phải ra khỏi lớp trong thời gian ngắn, tôi có bổn phận giữ trật tự.
Học trò trường Nữ Tiểu Học đa số rất ngoan. Mầm phá phách, nghịch ngợm, có lẽ
khi lên trường trung học, mới trổ hoa, kết trái. Lớp 4B đã lúc nào mất trật tự
đâu! Cho nên, tôi chỉ là “lính kiểng” mà thôi. Tôi xong năm học lớp Bốn với vài
bảng danh dự xanh, vàng, đỏ...
Mùa hè 1972, tôi
thành nữ sinh trường Nữ Trung Học, Quảng Ngãi. Năm lớp chín, thầy Nguyễn Cao
Can- là giáo sư chủ nhiệm của lớp chúng tôi. Thầy dạy hai môn: Toán và Công Dân
Giáo Dục. Tôi nhớ, thầy có chữ viết rất đẹp, nét chữ rất cứng cỏi. Tôi loáng
thoáng nghe thầy có sinh hoạt chính trị và có làm việc bên hội đồng tỉnh.
Trước 1975, năm học
lớp chín, năm cuối của trung học đệ nhất cấp, chương trình học rất quan trọng. Học
trò cần có định hướng mình sẽ theo ban nào khi lên trung học đệ nhị cấp: ban A,
B, hoặc C. Đám học trò lớp chín chúng tôi, kể ra hãy còn con nít rặt. Hiểu lơ
mơ rằng, ai chịu học “gạo”, sẽ chọn ban A, học môn Vạn Vật. Ai “cừ” môn Toán,
chịu khô khan, tất vào ban B. Còn ban C là vùng trời mơ mộng, ướt át cho thi
sĩ, văn sĩ. Tôi ham học từ nhỏ. Môn học nào cũng có thể làm tôi mê mẩn, ngoại
trừ môn nữ công. Lúc ấy, hình như tôi muốn vào luôn cả ba ban A, B, C. Thật
tiếc, biến cố 30.04.1975 đến, tôi không có cơ hội vào trung học đệ nhị cấp theo
như hệ thống giáo dục mà các anh chị tôi may mắn đi qua.
Ngày nay, tôi không
còn nhớ được những bài học trong giờ Công Dân Giáo Dục với thầy Can là gì.
Nhưng chắc chắn một điều, những giờ Công Dân Giáo Dục thời trung học, dù hệ số
điểm thấp (hệ số 1) so với các môn học khác như Việt Văn, Toán, Anh Văn với hệ
số điểm cao (hệ số 3), đã uốn nắn, hun đúc học trò chúng tôi tinh thần tôn sư trọng đạo. Chúng tôi tâm niệm uống nước nhớ nguồn. Chúng tôi biết lá lành đùm lá rách...
Tôi chẳng còn khái
niệm nào về những bài toán đại số, lượng giác, thầy đã giảng cho chúng tôi.
Nhưng sau này, khi tôi phải trở lại “mài đũng quần” ở ghế nhà trường trung học
Đức, lúc bạn bè trang lứa ở Việt Nam của tôi đã xong đại học và đi dạy, tôi lại
là tay toán “ngầu” trong lớp, làm “lác” mắt đám bạn học của nhiều sắc dân khác
ở Đức. Phải chăng, đó cũng do các giáo sư toán: thầy Nguyễn Ninh, thầy Võ Đình
Sơn, thầy Phạm Luật, thầy Nguyễn Hồng Tuấn, thầy Nguyễn Cao Can, và nhiều thầy
cô khác, đã gò cho tôi từ tấm bé.
Sau 1975, tôi nghe
kể cuộc sống của thầy Can, cô Nghiên rất lao đao. Thầy đi học tập cải tạo. Qua
thư từ, tôi được biết Ba tôi có thời kỳ ở cùng trại với thầy Can. Như Mạ tôi,
như bao người vợ khác, khi chồng đi cải tạo, cô Nghiên phải bươn chải, nhọc
nhằn, để nuôi sống gia đình. Hình ảnh cô Nghiên sang trọng, quý phái, đã thay
thế bằng cô giáo lam lũ, dắt chiếc xe đạp cọc cạch, rổ trước chỏng chơ mấy cọng
rau, yên sau loe ngoe vài que củi.
Mỗi khi kể chuyện
thời kỳ cải tạo, Ba tôi vẫn nhắc những kỷ niệm đầy ắp tình nghĩa với các thầy
Trần Văn Hưng, thầy Nguyễn Cao Can. Lúc ở Hành Thiện (Hành Tín), Ba tôi ở trại
1. Thầy Can ở trại 2, thầy Can chuyên lo phân phối thuốc nam cho các trại viên
khác. Thầy đặc biệt để dành các loại lá thuốc tốt cho Ba. Sau đó, Ba tôi bị
chuyển qua trại Nước Nhóc, nơi rừng sâu nước độc, dễ bị ngã bệnh sốt rét. Biết
tin, thầy Can vận động các trại viên còn lại, xin thuốc ký- ninh, để đưa cho
những người qua Nước Nhóc phòng thân.
Giữa thập niên 80, khi
chị em chúng tôi qua Đức được vài năm, Ba tôi được thả về từ trại cải tạo. Thầy
Can cũng được thả ra khoảng thời gian đó. Tình trạng sức khỏe của Ba tôi và
thầy Can rất tệ. Ba tôi bị liệt sau lần tai biến mạch máu não, đi đứng rất khó
khăn. Thầy Can bị bệnh lao phổi, ốm yếu, quặt quẹo. Do tình trạng tài chánh gia
đình thầy chật vật, không đủ khả năng chữa trị bệnh rốt ráo.
Lúc tôi xong trung
học Đức, đang chờ mùa tựu trường vào đại học, tôi ra bác sĩ xin khám tổng quát.
Cân đo trọng lượng, chiều cao xong, bác sĩ chẩn đoán, tôi bị suy dinh dưỡng
trầm trọng. Bác sĩ ghi toa thuốc dài cho tôi, nào là các loại sinh tố, khoáng
chất, các loại thuốc giúp ăn ngon, ngủ yên... Từ dược phòng, tôi bê về một túi
lủ khủ. Tôi thấy mình mạnh cùi cụi như trâu. Có hề ấm đầu, sổ mũi bao giờ đâu.
Ngẫm nghĩ, số thuốc này gởi về Việt Nam hữu dụng hơn. Tôi chạy ù ra siêu thị,
tìm hộp giấy nho nhỏ, gói các loại thuốc bổ mới lãnh về, kèm ít hộp quẹt ga,
bút nguyên tử, làm một bưu phẩm be bé, gởi về Ba Mạ. Lúc nhận gói quà nhỏ của
con, Ba tôi chống gậy cùng với Mạ tôi tìm thăm thầy Can, cô Nghiên. Ba Mạ san
sẻ chia cho thầy thuốc bổ, nói là của con gái, mà cũng là học trò của thầy cô
gởi về. Sau đó mấy tháng, tôi nhận được thư thầy Can với lời lẽ thật cảm động,
trong nét chữ vẫn rất đẹp và rắn rỏi của thầy.
Năm 1997 khi gia
đình nhỏ của tôi sang San Jose Mỹ, lần đầu, ở lại nhà người em họ. Tôi liên lạc
với thầy Can qua địa chỉ Ba tôi đưa. Thầy Can tìm đến thăm, thầy rủ chúng tôi đến
nhà thầy cô. Thế là vợ chồng tôi và con trai nhỏ đến ở lại nhà thầy cô vài
ngày. Lúc đó, các con của thầy, có em mới đi làm, có em đang đi học. Các em
tiếp đãi vợ, chồng, con tôi thật chân tình, dễ thương. Các em chơi đùa với cu
Bê con trai nhỏ của tôi. Có em dành cả ngày đưa chúng tôi đi chơi 17 dặm đường
tình, gần Monterey, dọc bờ biển California. Gặp lại cô Nghiên, tôi rất vui
mừng. Cô không nhớ ra tôi. Mà cũng phải thôi, mỗi niên khóa cô dạy năm, sáu chục
học trò. Bao nhiêu năm, hàng trăm học trò, làm sao cô nhớ hết được. Tôi được
biết, cô Nghiên có ý muốn đi tu. Cô ít nói. Lắng nghe tôi thưa chuyện với thầy
Can, cô cười hiền hậu.
Năm 2008 chúng tôi
đưa Ba sang Mỹ nhân dịp tết nguyên đán. Chương trình đi qua California
và Texas . Tôi
liên lạc thầy Can.
Thầy tha thiết mời mấy cha con đến ở lại gia đình thầy. Bạn bè chèo kéo quá,
nên chúng tôi thoái thác, chỉ xin “gởi” Ba ở lại đón giao thừa với thầy Can và
gia đình thầy. Thầy rủ bạn bè, tổ chức buổi tiệc tất niên thật ấm cúng. Thầy
còn chuẩn bị áo dài khăn đóng, để các cụ cùng đón xuân trong không khí thân
thiết, đậm đà quê hương, dù đang ở nơi xứ người. Ba tôi vẫn nhắc hoài. Thầy Can gọi Ba tôi là
Anh Cả yêu quý... Thầy vẫn dành ưu ái, tình cảm đặc biệt cho cha con chúng tôi.
Thầy muốn làm quà cho Ba tôi ít thuốc nam để bồi bổ sức khỏe. Thầy tìm mua nồi
sành nấu thuốc bằng điện. Vì điện thế của hàng hóa điện tử bên Mỹ khác với bên
Đức, nên Ba tôi khó xài nồi nấu thuốc. Tuy vậy, tấm chân tình của thầy Can dành
cho Ba tôi đã là những thang thuốc bổ quý giá. Thỉnh thoảng thầy liên lạc với
Ba tôi. Những cuộc điện đàm tuy ngắn, nhưng đầy ắp tình người, luôn là niềm vui
lớn đối với Ba tôi.
Năm 2010, trên đường bay qua Minnesota họp bạn, tôi đến ở nhà thầy Can
một ngày. Buổi trưa, cô Nghiên nấu cơm gạo lức trong nồi hấp, tôi được cùng cô
dùng bữa ăn cơm chay trong phòng ăn nhìn ra vườn của thầy cô. Ngoài vườn, thầy
cô trồng rất nhiều loại cây cỏ xinh xắn, nhiều nhất là hoa quỳnh. Thấy tôi
thích, thầy dẫn tôi đi quanh vườn, kể chuyện, ngắt cho tôi nhiều cành hoa
quỳnh, bảo đem về chỉ cắm vào đất là cây bén rễ.
Như một mối duyên
lành, kể từ lúc tôi bắt đầu “quen biết” cô Nghiên ở tiểu học, rồi sau đó vài
năm làm học trò thầy Can ở trung học, đến nay xấp xỉ gần gần nửa thế kỷ. Đó là
con đường dài tôi đi qua, được thầy cô dẫn dắt: tiên học lễ, hậu học văn. Cùng biết bao thầy cô khác, cô Nghiên,
thầy Can đã đóng góp vào việc dạy dỗ tôi nên người.
Giờ đây, mỗi khi
sang Hoa Kỳ, tôi tìm cách liên lạc thầy Can, cô Nghiên. Cô Nghiên về sau vào ở
trong chùa. Thầy Can ở căn nhà khang trang vùng San Jose, sát nhà con trai, con
gái thầy cô. Tôi đến thăm thầy Can, không những chỉ gặp lại người thầy xưa của
mình, mà tôi còn được gặp lại một người bạn quý của Ba tôi nữa.
Cô Nghiên nay sống
an lành bên tiếng kinh kệ trong chùa. Thầy Can vẫn xốc vác trong các sinh hoạt
cộng đồng. Cầu chúc thầy Can, cô Nghiên luôn được dồi dào sức khỏe. Cầu chúc
thầy cô được những ngày tháng hạnh phúc với cháu, với con. Cầu chúc thầy cô có
được những giờ phút thoải mái, an nhiên, tươi vui, khi gặp gỡ bạn bè, đồng
nghiệp và học trò ngày xưa trong những lần hội ngộ đó đây.
Hoàng Quân