Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2016
Andrew J. Nathan - Tập Cận Bình là ai?
Who Is Xi? (New York Review of Books 12-5-16)
Người dịch: Phan Văn SongTác phẩm
điểm trong bài này:
Xi Zhongxun
zhuan (习仲勋传: Tập Trọng
Huân Truyện) [Tiểu sử Tập Trọng Huân] Ban biên tập Tiểu sử Tập Trọng Huân, Bắc
Kinh: Zhongyang Wenxian Chubanshe (Trung ương văn hiến xuất bản xã), 2 tập,
1 283 trang (2013).
Xi Jinping:
Red China, the Next Generation (Tập Cận Bình: Trung Quốc đỏ, thế
hệ kế) Agnès Andresy, American University, 157 tr., $ 60,00
Zoubutong de
“hongse diguo zhilu” [走不通的”红色帝国之路”Tẩu bất
thông đích “hồng sắc đế quốc chi lộ” (Đi không thông chính là “Con đường Đế
quốc đỏ”], một bài viết của Lý Vĩ Đông (Li Weidong 李伟东), có ở www.letscorp.net/archives/56290
China’s
Future (Tương lai của Trung Quốc), David Shambaugh, Polity,
203 trang, $ 59,95.; $ 19,95 (giấy)
Hơn một nửa
nhiệm kỳ 5 năm đã qua với tư cách là chủ tịch Trung Quốc và Tổng bí thư Đảng
Cộng sản Trung Quốc — dự kiến sẽ là nhiệm kỳ đầu trong ít nhất hai nhiệm kỳ—
việc Tập Cận Bình đàn áp lan rộng đối với xã hội dân sự và đề cao tệ sùng bái
cá nhân đã làm thất vọng nhiều nhà quan sát , cả Trung Quốc lẫn nước ngoài, vốn
thấy ông ta do di sản gia đình và kinh nghiệm sống nhất định phải là một nhà
cải cách tự do. Nhiều người nghĩ Tập Cận Bình tất phải hiểu được sự nguy hiểm
của sự độc tài của Đảng qua kinh nghiệm gia đình ông dưới thời cai trị của Mao.
Cha của ông, Tập Trọng Huân (1913-2002), đã gần như bị xử tử trong một cuộc
xung đột bên trong Đảng năm 1935, đã bị thanh trừng trong một cuộc đấu khác vào
năm 1962, bị “lôi ra” và chịu nhục hình trong cuộc Cách mạng Văn hóa, và đã
được nới lỏng cho nghỉ hưu sau một cuộc đối đầu khác trong Đảng năm 1987. Trong
cuộc Cách mạng Văn hóa, một chị cùng cha khác mẹ của Tập Cận Bình đã bị dày vò
đến mức phải tự tử. Ngay chính Tập Cận Bình, con của một “kẻ chạy theo tư bản”
bị “đưa về nông thôn” để lao động cùng với nông dân. Những khó khăn gay gắt đến
mức như được thuật lại rằng ông đã cố để trốn thoát, nhưng bị bắt và đưa trở
lại.
Không ngạc
nhiên là sau đó cả hai cha con đều cho thấy một sự hết lòng vì công cuộc cải
cách trong suốt sự nghiệp của họ. Dưới thời Đặng Tiểu Bình, ông Tập cha đã tiên
phong trong cải cách mở cửa ở tỉnh Quảng Đông phía nam và đóng một vai trò quan
trọng trong việc thành lập đặc khu kinh tế Thẩm Quyến. Năm 1987, chỉ có một
mình ông trong các uỷ viên Bộ Chính trị không bỏ phiếu thanh trừng nhà lãnh đạo
Đảng tự do Hồ Diệu Bang. Chàng Tập con khởi nghiệp như là một nhà quản lý khiêm
tốn, thực dụng, ủng hộ tăng trưởng, lúc đầu ở vùng nông thôn và sau đó ở Phúc
Kiến, Chiết Giang và Thượng Hải, ba tỉnh cởi mở với thế giới bên ngoài nhất của
Trung Quốc. Trong chặng cuối cùng của hành trình leo lên quyền lực, ông đã được
ưu ái chọn hơn đối thủ Bạc Hy Lai, người đã đề cao các chính sách theo kiểu
cách mạng Văn hoá tại siêu đô thị Trùng Khánh.
Vì tất cả
những lý do này, khi thăng tiến lên vị trí chóp bu Tập Cận Bình đã được nhiều
người dự kiến sẽ theo đuổi tự do hóa chính trị và cải cách thị trường. Thay vì
vậy, ông đã khôi phục rất nhiều đặc điểm nguy hiểm nhất trong cách cai trị của
Mao: độc tài cá nhân, tuân thủ ý thức hệ cưỡng bức, và bức hại tùy tiện.
Chìa khóa
cho nghịch lý này là việc Tập Cận Bình có vẻ tôn kính một cách phi lý Mao. Quan
điểm của Tập Cận Bình về Mao lộ ra trong tiểu sử chính thức của cha ông do các
học giả của Đảng biên soạn, mà tập một được xuất bản khi Tập Cận Bình gần nắm
được quyền tối thượng và tập hai ra sau khi ông đã trở thành Tổng bí thư đảng
và Chủ tịch nước. Mô tả việc ông Tập cha gần như bị xử tử năm 1935, cuốn sách
nói rằng Mao đã cứu mạng ông ta, ra lệnh thả ông ra với nhận xét rằng đầu không
giống như hành lá: nếu cắt ra nó sẽ không mọc trở lại. Mao sau đó đề cử Tập
Trọng Huân làm một quan chức ở Diên An và sau năm 1949 làm quan chức hàng chóp
bu ở Bắc Kinh.
Đối với việc
thanh trừng Tập Trọng Huân năm 1962, cuốn tiểu sử đổ lỗi cho Khang Sinh (康生/Kang
Sheng), trưởng mật vụ của Mao, chứ không phải là cho chính Mao, và cho rằng Mao
đã bảo vệ Tập Trọng Huân bằng cách đưa ông ta đến làm việc tại một nhà máy ở
tỉnh an toàn cách xa khỏi cơn bão chính trị ở Bắc Kinh. Khi cuộc Cách mạng văn
hóa nổ ra một vài năm sau đó và Hồng vệ binh “lôi” Tập Trọng Huân ra khỏi việc
làm ở nhà máy này để hành hạ thể xác và “đấu tranh”, cuốn tiểu sử nói rằng thủ
tướng Chu Ân Lai đã cho giam họ Tập trong một doanh trại quân đội gần Bắc Kinh
như một cách để bảo vệ ông ta. Không nghi ngờ những câu chuyện này được xoa nắn
lại để trình bày Mao theo cách Tập Cận Bình muốn ông ta được thấy. Nhưng chúng
có căn cứ trong thực tế lịch sử và giúp giải thích sự phức tạp của mối quan hệ
của Tập Cận Bình với di sản của Mao. Như Tập Cận Bình nói mấy năm sau, “Nếu Mao
không cứu cha tôi thì tôi không có mặt ở đây ngày hôm nay.”
Việc Tập Cận
Bình tôn thờ Mao không phải là điều dị thường riêng lẻ. Nó cũng được nhiều
người trong giới quý tộc cộng sản kế thừa chia sẻ mà họ, như Agnès Andresy chỉ
ra trong cuốn sách về Tập Cận Bình, vốn hình thành nên hầu hết lãnh đạo chóp bu
cũng như phần lớn giới chủ chốt doanh nghiệp của Trung Quốc hiện nay. Hồi năm
1981 Đặng Tiểu Bình tuyên bố rằng công của Mao vượt hơn tội (trong một ý kiến
không chính thức) theo“tỉ lệ 7 trên 3.” Nhưng trong thực tiễn Đặng Tiểu Bình từ
bỏ gần như mọi thứ mà Mao cổ vũ. Trái ngược với sự đồng thuận của phương Tây
rằng Đặng Tiểu Bình đã cứu hệ thống sau khi gần như bị Mao làm chìm, Tập
Cận Bình và rất nhiều quý tộc đỏ khác cảm thấy rằng chính Đặng Tiểu Bình đã đi
gần đến chỗ huỷ diệt di sản của Mao.
Việc họ tôn
thờ Mao khác biệt với những hoài niệm đơn giản của cựu các Hồng vệ binh và các
thanh niên được phái xuống vốn nhớ mơ hồ về một giai đoạn của chủ nghĩa lý
tưởng chưa trưởng thành. Thay vì vậy, như nhà tư tưởng ủng hộ dân chủ Lý Vĩ Đông
(李伟东/Li Weidong) viết trong một bài tiểu
luận trên mạng nhiều bàn luận, “Đi không thông là 'Con đường của Đế quốc Đỏ’”,
con cái của các công thần sáng lập tự coi mình là người thừa kế “thiên hạ“, một
thế giới rộng lớn mà cha mẹ họ đã chinh phục dưới sự lãnh đạo của Mao. Cha mẹ
họ có gốc gác ở các vùng nông thôn nghèo nàn và đứng lên cai trị một đế chế.
Thế hệ thứ hai hưởng đặc quyền sống trong một đất nước vốn đã “vươn dậy” và
được toàn cầu tôn trọng và nể sợ. Họ không trù định làm thế hệ “đánh mất đế quốc.”
Chính logic
này đã thúc đẩy Lưu Nguyên (刘源/Liu Yuan),
con trai cựu chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, người bị Mao thanh trừng và đưa đến một cái
chết đau khổ, hậu thuẫn Tập Cận Bình trong việc làm sống lại các ý tưởng và các
biểu tượng của Mao; và cũng logic này đã chuyển con cái của nhiều nạn nhân nổi
bật khác của Mao hình thành nên các nhóm tôn vinh di sản của Mao, như Hiệp hội
con cái của Diên An Bắc Kinh và Hiệp hội đề cao văn hóa của những nhà sáng lập
Quốc gia Bắc Kinh.[i]
Các thái tử
đảng dường như đầu tư ý nghĩa sinh học theo nghĩa đen trong “huyết thống luận”
về sự tinh khiết chính trị vốn phổ biến trong giới chủ chốt con cái các Hồng vệ
binh trong cuộc Cách mạng văn hóa: “Nếu cha là anh hùng con sẽ là hảo hán, nếu
cha là phản động con sẽ là trứng thối” (老子英雄儿好汉,老子反动儿混蛋/laozi
yingxiong er haohan, laozi fandong er huaidan: Lão tử anh hùng nhân hảo
hán, lão tử phản động nhân hỗn đản). Họ không thấy có chút mai mỉa khi cổ vũ
Tập Cận Bình tấn công các quan chức tham nhũng dù Mao đã thanh trừng chính cha
mẹ họ như là những “kẻ chạy theo tư bản nắm quyền lực.” Họ bào chữa rằng việc
thanh trừng của Mao là một sai sót. Nhưng họ thấy các quan chức hiện nay đổ vào
phục vụ Đảng là vì đảng đang nắm quyền lực chứ không phải vì họ được thừa hưởng
tinh thần hy sinh cách mạng từ cha ông. Bọn cơ hội đó là sâu mọt đang ăn mòn di
sản cách mạng.
Di sản của
Mao cũng đang bị các thế lực khác đe dọa. Tập Cận Bình nắm quyền vào một thời
điểm mà chế độ phải đối đầu với một loạt các thách thức gay gắt vốn đều đạt đến
giai đoạn nguy cấp cùng một lúc. Chế độ phải quản lý một nền kinh tế chậm lại;
phải xoa dịu hàng triệu công nhân bị sa thải; phải chuyển nhu cầu từ các thị
trường xuất khẩu sang tiêu thụ trong nước; phải xốc các doanh nghiệp nhà nước
khổng lồ hoạt động kém hiệu quả nên hình; phải xua tan một đống các khoản vay
ngân hàng xấu khủng và các khoản đầu tư không hiệu quả đang treo lơ lửng; phải
cải thiện tình trạng biến đổi khí hậu và sự tàn phá môi trường vốn làm lớp
trung lưu mới khó chịu; và phải giảm quy mô và nâng cấp quân đội. Về mặt quốc
tế, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc thấy chính mình bị buộc phải đáp
ứng một cách quả quyết áp lực ngày càng tăng từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, và các chế độ
Đông Nam Á khác nhau đang cố gắng chống lại việc bảo vệ chính đáng của Trung
Quốc đối với các lợi ích ở những nơi như Đài Loan, quần đảo Senkaku, và biển
Đông.
Lãnh đạo nào
đối mặt với rất nhiều vấn đề lớn phải cần rất nhiều quyền lực, và Mao cung cấp
một mô hình về cách mà quyền lực như thế có thể được nắm giữ. Tập Cận Bình lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, và hệ thống thứ bậc quân sự qua vị trí chủ tịch ở mỗi tổ
chức này. Nhưng hai người tiền nhiệm liền trước của ông, Giang Trạch Dân và Hồ
Cẩm Đào, thực hiện các vai trò này trong hệ thống lãnh đạo tập thể, trong đó
mỗi uỷ viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị phụ trách một chính sách hay tổ chức cụ
thể và hướng dẫn nó mà không có sự can thiệp nhiều từ các quan chức cấp cao
khác.
Mô hình này
không tạo ra quyền lãnh đạo đủ quyết định để đáp ứng Tập Cận Bình và những kẻ
ủng hộ ông. Vì vậy, Tập Cận Bình đã phải cho các uỷ viên khác của Ban Thường vụ
Bộ Chính trị, đứng bên lề ngoại trừ trưởng ban tuyên truyền Lưu Vân Sơn (刘云山/Liu
Yunshan) và Trưởng ban giám sát chống tham nhũng Vương Kỳ Sơn (王岐山/Wang
Qishan). Ông đã nắm vị trí chủ tịch của 7 tổ quan trọng nhất trong 22 “tổ lãnh
đạo” chỉ đạo chính sách trong các lĩnh vực cụ thể, bao gồm Tổ lãnh đạo đào sâu
cải cách toàn diện trung ương mới thành lập, tổ này đã loại Thủ tướng Lý Khắc
Cường ra khỏi việc quản lý kinh tế. Và Tập Cận Bình đã lập ra Hội đồng An ninh
Quốc gia để điều phối các vấn đề an ninh nội bộ.
Tập Cận Bình
mô phỏng Mao trong việc thực hiện quyền lực thông qua một nhóm thân cận các trợ
lý mà ông có thể tin cậy do họ đã chứng tỏ lòng trung thành cá nhân của họ
trong những giai đoạn đầu tiên trong sự nghiệp của ông, chẳng hạn như Lật Chiến
Thư (Li Zhanshu), chủ nhiệm tổng văn phòng của Ủy ban Trung ương ĐCSTQ đầy
quyền lực. Như học giả Lý Thành (Cheng Li) nêu trong China Leadership
Monitor, Lật Chiến Thư công bố một bài báo hồi tháng 9 năm 2014, nói rằng
làm việc như một trợ lý trong việc xây dựng chính sách đòi hỏi “sự trung thành
tuyệt đối” và rằng nhân viên trong tổng văn phòng “nên hành động và suy nghĩ
theo cách phù hợp cao nhất... với các đơn đặt hàng từ Uỷ ban Trung ương do Tổng
Bí thư Tập Cận Bình lãnh đạo.”[ii] Những người
được Tập Cận Bình bảo trợ chiếm các vị trí trọng yếu trong bộ máy phụ trách về
an ninh, giám sát công việc các quan chức, và tuyên truyền. Không giống như các
nhân viên nhiều quyền lực trong chính quyền trước đây, các trợ lý của ông tránh
tiếp xúc với người nước ngoài và thậm chí với các quan chức bên ngoài nhóm
riêng của Tập Cận Bình.
Tập Cận Bình
cũng đi theo mô hình của Mao trong việc bảo vệ quyền cai trị của mình chống lại
đảo chính. Chiến dịch chống tham nhũng đã làm cho ông có rất nhiều kẻ thù, và
đã có nhiều tin đồn về các âm mưu ám sát. Tuy nhiên, như James Mulvenon và
Cheng Li đã chỉ ra, tương ứng, Tập Cận Bình đã thắt chặt kiểm soát trực tiếp
quân đội qua cái gọi là “Chủ tịch Phụ trách chế [Quân ủy Trung ương]”, và ông
kiểm soát quân đoàn bảo vệ trung ương – chịu trách nhiệm theo dõi sự an toàn
của tất cả các lãnh đạo — thông qua vệ sĩ trưởng lâu năm, Vương Thiếu Quân
(Wang Shaojun).[iii] Theo những
cách này Tập Cận Bình kiểm soát môi trường thực tế của các lãnh đạo khác, cũng
giống như Mao đã làm thông qua thuộc hạ trung thành Uông Đông Hưng.
Tập Cận Bình
truyền sự tự tin kiểu Napoleon vào tầm quan trọng của nhiệm vụ của ông và sự
thành công tất yếu của nó. Trong giao tiếp cá nhân ông được cho là niềm nở và
thoải mái. Nhưng tính cách công cộng được chăm chút cẩn thận của ông lại đi
theo Mao trong việc thể hiện sự có mặt dửng dưng và vẻ mặt bất động mà việc đó
dường như để truyền dẫn sự chịu đựng hoặc sự khó xiêu lòng, tùy thuộc vào việc
ông đang ngồi nghe một phát biểu nhàm chán hoặc đang đưa ra một phát biểu. Các
cơ quan tuyên truyền cố sức để tạo ra một hình ảnh “Bố Tập” thấy muốn ôm ghì
vào, và Tập Cận Bình có vẻ thực sự được công chúng ngưỡng mộ, mặc dù điều này
đã thay đổi khi nền kinh tế chậm lại.[iv] Nhưng chiến
dịch chống tham nhũng ảnh hưởng đến rất nhiều người của ông còn đang tiếp tục,
giới chủ chốt trong quan chức và trí thức hàng đầu đọc biểu hiện của ông như là
bí hiểm và đáng sợ.
Trên hết,
Tập Cận Bình đã theo Mao trong đòi hỏi tuân thủ về ý thức hệ. Ông đã viện dẫn
“Bài nói tại Diễn đàn Diên An về Văn học và Nghệ thuật” của Mao trong việc giải
thích lý do tại sao văn hóa và nhân viên truyền thông phải thể hiện “tính Đảng”
và phục vụ như là “miệng lưỡi” của Đảng và đã sử dụng nghị quyết mà Mao đã viết
cho của Hội nghị Đảng ở Cổ Điền (古田/Gutian) năm
1929 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc Đảng kiểm soát của quân đội. Ông đã cảnh
báo các đảng viên chống lại việc “bàn luận vô trách nhiệm” (枉议/wangyi:
uổng nghị) và các học giả chống lại các “giá trị phổ quát.” Như David Shambaugh
báo cáo trong cuốn sách gần đây của ông China’s Future (Tương lai của Trung
Quốc):
Hiện đã có
một chiến dịch đàn áp không ngừng đối với tất cả các dạng bất đồng chính kiến
và các nhà hoạt động xã hội; Internet và các phương tiện truyền thông xã hội đã
phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn; thánh giá và nhà thờ bị phá hủy; người Duy
Ngô Nhĩ và người Tây Tạng bị bức hại ngày càng lớn hơn; hàng trăm luật sư nhân
quyền đã bị bắt giữ và đưa ra xét xử; tụ họp công cộng bị hạn chế; nhiều loại
ấn phẩm bị kiểm duyệt; sách giáo khoa nước ngoài bị chính thức bị cấm ở các lớp
học đại học; trí thức bị đặt dưới sự giám sát chặt chẽ; các tổ chức phi
chính phủ (NGO) nước ngoài và trong nước đã chịu áp lực điều tiết của chính phủ
chưa từng có và nhiều tổ chức đã bị buộc phải rời khỏi Trung Quốc; các cuộc tấn
công vào các “thế lực thù địch nước ngoài” diễn ra đều đặn; và bộ máy an ninh
“duy trì sự ổn định” đã che kín toàn đất nước .... Trung Quốc hiện nay hà khắc
hơn bất cứ lúc nào kể từ thời kỳ sau Thiên An Môn 1989-1992.
Nhưng Tập
Cận Bình khác với Mao theo những cách quan trọng. Ông có thông tin chính xác
hơn Mao, nhờ hệ thống tình báo và phân tích mở rộng, có tổ chức, và chuyên
nghiệp, và nhờ vào những gì ông đã thu thập được trong chuyến đi trong nước và
ra nước ngoài. Ông dùng kiểu toà án nội bộ Đảng và kết tội tham nhũng hơn là hò
hét Hồng vệ binh và cáo buộc xét lại để thanh trừng đối thủ, và dùng công an
chính trị hơn là phong trào quần chúng để đàn áp bất đồng chính kiến. Mao là
một nhà tư tưởng và tác giả văn học; Tập Cận Bình có những ý tưởng tầm thường
nhưng có chủ ý và phù hợp hơn trong việc ra quyết định. Thói quen cá nhân của
ông có vẻ có trật tự so với cung cách hỗn loạn của Mao trong việc tiêu dùng
thời gian. Sau cuộc hôn nhân thất bại ngắn ngủi đầu, Tập Cận Bình lập gia đình
ổn định với Bành Lệ Viên (彭丽媛/Peng
Liyuan), một ca sĩ nổi tiếng khởi nghiệp trong quân đội. Quan hệ của họ có vẻ
theo ước lệ nhàm chán; thậm chí ở thành phố Bắc Kinh đầy tin đồn không có gì
nổi lên cho thấy rằng ông là một kẻ ham thích sắc dục như Mao. (Cũng không có
những tin đồn tạo ra những cáo buộc rằng cá nhân Tập Cận Bình là tham nhũng,
mặc dù Bloomberg News cho thấy chị và anh rể của ông đã làm ra rất nhiều tiền.[v])
Và Tập Cận
Bình không là nhà cách mạng. Ông không hề tìm cách đảo lộn Trung Quốc cũng
không quay ngược đồng hồ trở lại thời công xã nông thôn và nền kinh tế kế
hoạch. Thay vào đó, ông tuyên bố, không được phép phủ nhận “hai thời kỳ ba mươi
năm” ”— tức là kỷ nguyên của Mao và thời kỳ cải cách hậu Mao sau đó. Trung Quốc
phải kết hợp sự vững chắc của chủ nghĩa Mao với cải cách hiện đại hóa.
Tuy nhiên,
cải cách mà ông có trong đầu khác với những gì nhiều nhà quan sát, cả Trung
Quốc lẫn phương Tây, mong muốn. Sau khi tiến lên vị trí quyền lực, tuyên ngôn
chính sách đầu tiên do chế độ của ông đưa ra nêu rằng “thị trường nên đóng vai
trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực,” nhưng đã trở nên rõ ràng rằng
các lực lượng thị trường được dùng có chủ ý như là một công cụ để thêm sinh lực
chứ hơn là để huỷ diệt, các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tài chính nhà
nước “vô địch quốc gia” tiếp tục được hưởng sự bảo trợ của nhà nước và chiếm
phần lớn trong nền kinh tế. Tập Cận Bình hiểu những tổ chức này là trụ cột của
quyền lực nhà nước và sẽ không bao giờ giao quyền kiểm soát nền kinh tế cho các
doanh nghiệp mà Đảng không kiểm soát.
Tập Cận Bình
muốn “cai trị bằng pháp luật”, nhưng điều này có nghĩa là sử dụng các tòa án
một cách tích cực để thực hiện việc đàn áp chính trị và thay đổi phong cách làm
việc của bộ máy quan chức. Ông muốn cải tổ các trường đại học, không phải để
tạo sự tự do học thuật kiểu phương Tây nhưng để đưa các học giả và sinh viên
vào vòng kiểm soát (kể cả những người nghiên cứu ở nước ngoài). Ông đã phát
động tổ chức lại toàn diện của quân đội, điều này một phần có ý định là để làm
cho nó hiệu quả hơn trong chiến đấu, nhưng cũng để tái khẳng định lòng trung
thành của quân đội với Đảng và cá nhân ông. Mục đích tổng thể của cải cách là
để giữ cho Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn nắm quyền lực.
Mục tiêu mà
Tập Cận Bình nêu ra cho Trung Quốc là đạt được “một xã hội khá giả vừa” (小康社会/xiaokang
shehui: tiểu khang xã hội) vào dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày thành lập Đảng
vào năm 2021, và “một xã hội hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa” (社会主义现代化社会/shehuizhuyi
xiandaihua shehui: xã hội chủ nghĩa hiện đại hoá xã hội) vào dịp kỷ niệm
lần thứ 100 thành lập ngày thành lập nước CHNDTH Quốc vào năm 2049.
Những mục
tiêu này nghe có vẻ khiêm tốn nhưng táo bạo. Mục tiêu cho năm 2049 được nói là
bao hàm một mức GDP bình quân đầu người là US$ 30,000, và các nhà hoạch định
Trung Quốc ước tính rằng nếu đạt được mục tiêu đó thì Trung Quốc sẽ tạo ra hơn
30 % GDP của thế giới trong năm đó, vào khoảng một lần rưởi hơn so với tỷ lệ do
Hoa Kỳ tạo ra hiện nay. Điều đó sẽ tạo ra một quyền lực toàn cầu rất lớn. Tuy
nhiên, năm 2049 vẫn là một chặng đường dài. Còn bây giờ, Tập Cận Bình sẽ không
ngần ngại phản công nếu ông tin rằng “lợi ích cốt lõi” của nước này xung quanh
ngoại vi của nó đang bị đe dọa, nhưng ưu tiên của ông về cơ bản vẫn là trong
nước.
Tập Cận Bình
đã tự làm mình mạnh mẽ hơn Đặng hay thậm chí Mao trong một số cách. Dù Đặng là
người có kết luận cuối cùng về các vấn đề chính sách khó, nhưng ông ta vẫn cố
gắng để tránh can dự vào chính sách hàng ngày, và khi bị buộc phải đưa ra những
quyết định lớn thì trước hết ông tìm sự đồng thuận trong một nhóm nhỏ các lãnh
đạo cấp cao. Mao có thể đưa ra bất kỳ quyết định nào mà ông muốn bất chấp ý chí
của các lãnh đạo cấp cao khác, nhưng vào mỗi lúc ông chỉ chú ý đến một vài vấn
đề. Tập Cận Bình có vẻ đang điều khiển trọn một loạt chính sách quan trọng hàng
ngày mà không cần tham khảo ý kiến các lãnh đạo cấp cao khác hoặc các bậc lão
thành về hưu.
Ông ta thậm
chí có thể đi xa hơn nữa. Có những chỉ dấu gợi rằng ông sẽ tìm cách phá vỡ hạn
định hai nhiệm kỳ 5 năm nắm quyền mới được thiết lập và sẽ ngồi tiếp một hoặc
thậm chí nhiều nhiệm kỳ nữa. Ông đã tự chỉ định mình là “cốt lõi” của ban lãnh
đạo, một địa vị mà Hồ Cẩm Đào, người tiền nhiệm liền trước đã không nắm lấy cho
mình. Tại thời điểm này trong nhiệm kỳ đầu lãnh đạo chúng ta mong thấy một hoặc
hai chính trị gia trẻ tuổi mới nổi như người thừa kế tiềm năng hiện ra, và sẽ
được tấn phong trong Đại hội Đảng 19 năm tới, nhưng chưa thấy có những dấu hiệu
như vậy. Một trong những tin đồn lan truyền ở Bắc Kinh là các đội biên tập viên
đang biên soạn một cuốn sách về “tư tưởng” (sixiang/思想) của Tập
Cận Bình, việc này sẽ đặt ông ta lên ngang hàng với Mao như một người đóng góp
cho lý thuyết Marxist của Trung Quốc, một địa vị mà chưa có người kế nhiệm nào
của Mao tới giờ nhận lấy.
Việc Tập Cận
Bình chú tâm vào quyền lực đặt ra mối nguy hiểm lớn cho Trung Quốc. Không ai
nói lên điều đó tốt hơn Đặng Tiểu Bình, trong bài phát biểu, “về việc Cải cách
hệ thống Lãnh đạo Đảng và Nhà nước,” đưa ra vào ngày 18 tháng 8 năm 1980:
Quá chú tâm
vào quyền lực có khả năng làm nẩy ra quy tắc tùy ý của cá nhân với cái giá phải
trả cho lãnh đạo tập thể, và nó là một nguyên nhân quan trọng của bộ máy quan
chức trong tình cảnh hiện tại ... . Kiến thức, kinh nghiệm và năng lượng của
bất cứ ai cũng đều có hạn. Nếu một người nắm giữ quá nhiều vị trí cùng một lúc
thì khó có thể hiểu thấu hết các vấn đề trong công việc của mình và quan trọng
hơn, sẽ ngán đường các đồng chí thích hợp hơn nắm các vị trí lãnh đạo.
Chính để
tránh những vấn đề này mà Đặng Tiểu Bình đã xây dựng một hệ thống các chuẩn mực
ngầm theo đó các lãnh đạo cao cấp bị giới hạn chỉ hai nhiệm kỳ, các uỷ viên ban
Thường vụ Bộ Chính trị phân chia các vai trò lãnh đạo với nhau, và các nhà lãnh
đạo cấp cao đưa ra quyết định có tham khảo ý kiến với các nhà lãnh đạo khác và
những bậc lão thành đã về hưu.
Với việc đảo
lộn hệ thống của Đặng Tiểu Bình, Tập Cận Bình đang treo sự sống còn của chế độ
vào khả năng của ông trong việc chịu một khối lượng công việc khổng lồ và không
phạm sai lầm lớn. Ông dường như đang dọa các phương tiện truyền thông đại chúng
và các quan chức ngoài nhóm thân cận không được nói với ông sự thật. Ông đang
cố kìm nén sự đa dạng ngày càng tăng của các lực lượng xã hội và trí thức đang
trên đà phát triển mạnh hơn. Ông có thể đang phá vỡ, thay vì xây dựng nên sự
đồng thuận trong giới chủ chốt kinh tế và trí thức cũng như giới lãnh đạo chính
trị về con đường phát triển của Trung Quốc. Với việc chỉ đạo khởi tố tham nhũng
Chu Vĩnh Khang, cựu uỷ viên ban Thường vụ Bộ Chính trị về hưu, cùng với thuộc
hạ của các quan chức cấp cao đã nghỉ hưu khác, ông đã phá vỡ quy tắc rằng các
lãnh đạo về hưu sẽ an toàn một khi rời khỏi chức vụ, làm dấy lên câu hỏi liệu
ông sẽ có thể an toàn khi rời khỏi chức vụ không. Khi ông tách khỏi con đường
của Đặng Tiểu Bình, ông có nguy cơ phá hoại khả năng thích ứng và khả năng phục
hồi mà những cải cách của Đặng Tiểu Bình đã gian khổ tạo ra cho chế độ hậu
Mao.
Khi các
thành viên của nhóm quý tộc đỏ quanh Tập Cận Bình bọc quanh các toa xe của họ
để bảo vệ chế độ, một số công dân thu mình vào việc sùng bái tôn giáo hoặc tiêu
dùng cá nhân, những người khác thì gửi tiền của và con cái ra nước ngoài, và
một cảm giác sắp xảy ra khủng hoảng đang lan tỏa khắp xã hội. Không ngạc nhiên
là chế độ của Tập Cận Bình hành xử như thể nó phải đối mặt với một đe dọa đang
hiển hiện. Với sức mạnh và nguồn lực mà ông điều khiển, sẽ là liều lĩnh để dự
đoán rằng nỗ lực củng cố sự cai trị độc tài của ông sẽ thất bại. Nhưng nỗ lực
này có nguy cơ tạo ra chính cuộc khủng hoảng chính trị mà nó tìm cách ngăn
ngừa.
[i] Xem, chẳng hạn, http://news.sina.com.cn/c/2016-02-23/doc-ifxprqea5122519.shtml, http://history.sohu.com/20130830/n385376788.shtml, và http://news.163.com/13/1121-111/9E6V2N5E0001124J_all.html, truy cập
ngày 10 tháng 3 năm 2016
[ii] Cheng Li,
“Tập Cận Bình Jinping’s Inner Circle (Part 4: The Mishu Cluster I),” China
Leadership Monitor, số 46 (Đông 2015).
[iii] James
Mulvenon, “The Yuan Stops Here: Tập Cận Bình Jinping and the ‘CMC Chairman
Responsibility System,”, và Cheng LiTập Cận Bình Jinping’s Inner Circle (Part
5: The Mishu Cluster II),” China Leadership Monitor, số 47 (Hè 2015).
[iv] Từ Xi Dada
(习大大: Tập đại đại) sử dụng chữ “đại”.”
Trong môt số tiếng địa phương nó có nghĩa là cha, ông, hoặc chú Tập Cận Bình.
[v] Xem “Xi Jinping Millionaire
Relations Reveal Fortunes of Elite,” Bloomberg News, ngày 29 tháng 6, 2012.
(Nguồn: viet-studies)