Thứ Năm, 10 tháng 3, 2016
Phạm Chí Dũng - ‘Đảng ta’ đang cố gắng ‘thoát Trung’?
![]() |
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái)
và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng
bắt tay tại Văn phòng Trung ương Đảng ở Hà Nội, Việt Nam.
|
Một nữ ký giả quốc tế biểu lộ
nỗi ngạc nhiên chân thành khi cô chứng kiến từ sau Tết nguyên đán 2016, “đảng
ta” đã kỷ niệm ngày chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 khá nhộn nhạo. Khác hẳn
hình ảnh “lặn không sủi tăm” nhiều năm trước, chính nguyên thủ quốc gia Trương
Tấn Sang đã đến thắp hương trên từng ngôi mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Trà Lĩnh ở
tỉnh Cao Bằng, gần biên giới với Trung Quốc, nơi chôn cất hơn 300 người đã hy
sinh trong cuộc chiến chống lại Trung Quốc xâm lược vào năm 1979.
Đầu 2016: những dấu hiệu ‘tự
diễn biến’
Cũng khác hẳn tâm trạng kém được
mở miệng trước đây, vào năm nay báo chí nhà nước đã có thể can dự vào cuộc
tranh luận về việc đưa các chủ đề như cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung và
chiến tranh biên giới Tây Nam; đưa câu chuyện Trường Sa, Hoàng Sa vào sách giáo
khoa; khơi lại những bằng chứng tội ác quá sức dã man của quân đội Trung Quốc
trong cuộc chiến biên giới 1979…
Cũng đã rất lâu, Việt Nam mới
tổ chức kỷ niệm ngày tổng động viên chống Trung Quốc một cách đỡ tủi hổ. Ngày
5/3/2016, trang Vnexpress tường thuật: “Ngày 5/3/1979, trong tình thế
cấp bách chống lại hơn nửa triệu quân Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc,
Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã ra lệnh tổng động viên toàn quân, toàn dân kháng
chiến”. Tờ báo này cũng dẫn lại bài xã luận trên báo Nhân Dân ra
ngày 5/3/1979 đầy thống thiết "Lời kêu gọi của trung ương là lời hịch
quyết chiến quyết thắng của tổ quốc. Tất cả con em đất nước Việt Nam đang đi
vào cuộc chiến đấu mới: cả nước đánh giặc, toàn dân là lính"… 50 triệu người
Việt Nam khi ấy đã chuẩn bị sẵn sàng cho tình thế chuyển từ thời bình sang thời
chiến”.
Còn báo Tuổi Trẻ
đăng lại bản tin phát thanh đặc biệt sáng 5/3/1979 của Đài tiếng nói Việt Nam
"kêu gọi cả nước chống Trung Quốc", trong đó hừng hực: "Hỡi đồng
bào và chiến sĩ yêu quý! Quân thù đang giày xéo non sông, đất nước ta. Độc lập,
tự do, chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đang bị xâm phạm. Hòa bình và ổn định ở
Đông Nam châu Á đang bị đe dọa. Dân tộc Việt Nam ta phải ra sức chiến đấu để tự
vệ... Toàn thể đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước, các tôn giáo, các đảng
phái, già, trẻ, gái, trai hãy phát huy truyền thống Diên Hồng, triệu người như
một, nhất tề đứng lên bảo vệ tổ quốc".
Rõ ràng là đang có một sự
“chuyển hóa tư tưởng” về phản ứng với Bắc Kinh, tối thiểu cũng là trên mặt trận
truyền thông Việt Nam. Nhưng ai cũng thừa hiểu rằng sẽ chẳng có truyền thông
nào nếu từ những cấp cao hơn hẳn không “tự diễn biến”.
Một dấu hiệu khác xảy ra đồng
thời, nhưng từ góc độ tranh đấu cho dân chủ hóa, là một cuộc tập hợp tưởng
niệm 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh để bảo vệ Hoàng Sa ngày 19/1, cùng
cuộc tưởng niệm 6 vạn quân nhân và dân thường Việt hy sinh trong cuộc chiến
tranh biên giới 1979 ngày 17/2 - được giới dân chủ và nhân quyền tổ chức ở Hà Nội
- đã hầu như không bị chính quyền ngăn cản và chơi xấu như thói thường trước
đây.
Tuy nhiên, dấu hiệu trên chưa
có tính nhất quán cao. Ở Sài Gòn, tình hình diễn biến ngược lại. Chính quyền địa
phương này vẫn tiếp tục đàn áp thậm tệ những người biểu tình chống Trung Quốc.
Một trong những biểu hiện “Vì dân và hành động” đầu tiên của tân Bí thư thành ủy
Đinh La Thăng là để mặc cho những vòng hoa tưởng niệm liệt sĩ bị Công an TP HCM
xông vào xé nát.
Tín hiệu ‘giao lưu hải quân’
Tín hiệu quân sự bắt đầu hiển
lộ hơn. Ngày 18/2/2016 - trùng với thời điểm một tàu cá của ngư dân Quảng Bình
bị “tàu lạ” thả neo làm chìm khiến 3 ngư dân mất tích gần đảo Hải Nam, Trung Quốc,
cuộc diễn tập quân sự chung giữa Nhật Bản và hải quân Việt Nam đã kết thúc tại
Đà Nẵng.
Nhưng truyền thông đảng đã
không hoàn thành nhiệm vụ. Hoàn toàn chẳng có một thông tin công khai nào từ
báo giới nhà nước hoặc Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tin tức về cuộc tập trận chung
trên chỉ được phát ra bởi Hãng tin Kyodo của Nhật Bản. Hãng tin này cho
biết Lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản (MSDF) và hải quân Việt Nam đã có đợt
tập dượt chung ba ngày từ 16 - 18/2 ngoài khơi Đà Nẵng. Cuộc tập trận này diễn
ra trong bối cảnh Trung Quốc đã triển khai tên lửa đất đối không trên đảo Phú
Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền.
Theo Kyodo, “Một
đội của MSDF với hai máy bay tuần tra P-3C đã tham gia hoạt động với mục đích
tăng cường hợp tác quốc phòng song phương và kiềm chế Trung Quốc trong bối cảnh
tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông”.
Cần lưu ý là ít ngày trước khi
diễn ra cuộc tập trên, đã xuất hiện thông tin Việt Nam làm “quan sát viên”
trong một cuộc tập trận có tên là Hổ Mang Vàng của Mỹ và các nước đồng minh. Hiện
tượng này được coi là hiếm thấy.
Với việc tham dự cuộc tập trận
chung với Nhật Bản và lại tập trận ngay tại vùng biển Đà Nẵng chứ không phải một
nơi nào đó xa xôi trong Thái Bình Dương, phía Việt Nam có vẻ đã nhích một chút
dạn dĩ hơn về phương Tây thông qua cầu nối là khối quân sự Đông Bắc Á - gồm Nhật
Bản, Hàn Quốc, Philippines…
Từ đầu năm 2016 đến nay, đã diễn
ra hàng loạt dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang buộc phải ngả hơn về Hoa Kỳ, trong
lúc xa rời hơn quỹ đạo Bắc Kinh. Trước sự kiện một tàu quân sự Mỹ áp sát đảo Tri
Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa và bị phía Trung Quốc lên án dữ dội, phía Việt Nam
đã lần đầu tiên tỏ ra “can đảm” khi tuyên bố sự kiện này là “đi qua vô hại”.
Cũng rõ là sức ép và mối đe dọa
của Trung Quốc kể từ sau vụ giàn khoan Hải Dương 981, cho đến trước Đại hội XII
của đảng cầm quyền, đã khiến giới chóp bu Việt Nam phải tự lựa chọn một lối
thoát cho mình, thay vì thói đu dây dễ té lộn đầu trước đó.
Bắt đầu ‘thoát Trung’?
Vào đầu tháng 3/2016, đài RFI
Việt ngữ bắt đầu bình luận “Biển Đông: Giải mã phản ứng cứng rắn của Việt
Nam chống Trung Quốc”. Carlyle Thayer, một giáo sư thuộc Học viện quốc
phòng Úc và là người am hiểu về tình hình chính trường Việt Nam, được chọn là
nhân vật trả lời phỏng vấn của RFI. Giáo sư Carlyle Thayer đã nêu một góc nhìn
đáng chú ý: ông cho rằng đã có “đồng thuận” trong giới lãnh đạo mới
tại Việt Nam là cần phải quyết đoán hơn trong đối sách với Trung Quốc.
Nhận định của giáo sư Carlyle
Thayer có thể là hợp lý. Không phải ngẫu nhiên mà phía Việt Nam tỏ ra quá nhu
nhược trong ít nhất 4 năm qua, kể từ khi tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh của
Việt Nam vào cuối năm 2011, và kể cả sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014,
mà phải đến sau khi kết thúc Đại hội XII của đảng Cộng Sản,
giới lãnh đạo Việt Nam mới dường như “mở miệng”.
Nếu trước Đại hội XII, dân
gian Việt Nam phải nói quá nhiều về thực trạng “cung Vua, phủ Chúa”, mà tiêu biểu
là tình trạng phân hóa ở mức độ cao giữa khâu định hướng, chỉ đạo của bên đảng
và thực quyền có muốn thực thi hay không của bên chính phủ, thì nay mọi sự có vẻ
“đồng thuận” hơn khá nhiều. Hai bộ quan trọng nhất về quan hệ quốc tế và bảo vệ
đất nước là Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng hiện thời đều chịu sự chỉ đạo tập
trung của Tổng Bí thư tái cử kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương Nguyễn Phú Trọng.
Mặc dù vẫn còn khá nhiều điều
tiếng về việc Tổng Bí thư Trọng chịu sự chi phối mạnh mẽ của phía Trung
Quốc, nhưng từ chuyến công du Washington của ông Trọng đến thổ lộ “cần Mỹ hiện
diện nhiều hơn nữa ở Biển Đông” của cấp dưới ông Trọng là Thủ tướng Dũng, đã
cho thấy Việt Nam bắt đầu bộc lộ thái độ bớt đu dây hơn trong quan hệ với Hoa Kỳ
và Trung Quốc.
Một dấu hiệu khác, tuy mang
tính nội chính nhưng lại liên quan đến đối ngoại - là Luật Biểu tình. Sau Tết
nguyên đán 2016, lần đầu tiên ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội, tỏ ra dứt
khoát một cách đáng ngạc nhiên trong việc yêu cầu chính phủ trình dự thảo Luật
Biểu tình ra Quốc hội, tạm thời chấm dứt thời kỳ “gật” của Ủy ban thường vụ Quốc
hội trước nhiều văn bản “trảm trước tấu sau” của các cơ quan bên chính phủ.
Luật Biểu tình lại liên đới mật
thiết với hoạt động biểu tình phản đối Trung Quốc. Có thể trong chủ trương mang
hơi hướng “thoát Trung”, đảng và chính quyền đã bớt “sợ” khi bắt đầu nghĩ ngợi
về một phong trào biểu tình chống Trung Quốc được khởi xướng bởi các tổ chức xã
hội dân sự chứ không phải từ các hội đoàn nhà nước.
Những dấu hiệu trên có thể có
đôi chút triển vọng cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Đã đến lúc nhà cầm
quyền Việt Nam phải nhận ra, dù mới ở mức tối thiểu, những giá trị của lẽ phải
trong công cuộc thoát Trung trong vài ba chục năm tới.