Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2016
Ðoàn Thanh Liêm - Nỗi khó xử của Giáo sư Lý Chánh Trung
![]() |
Giáo sư Lý Chánh Trung là cây bút nổi tiếng ở Sài Gòn trước 1975
(Ảnh: Facebook Lý Chánh Dung)
|
Cũng như
Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung là giáo sư dậy môn Triết học tại các Đại học ở
miền Nam Việt nam trước năm 1975. Vì cả hai người đều có tên là Trung, nên để
phân biệt thì bà con thường gọi là Trung Lý, Trung Nguyễn.
Trung Lý người miền Nam thì viết ít, nhưng các
bài nhận định thời sự đầy tràn nhiệt huyết của ông được nhiều giới trẻ hồi đó
rất hâm mộ. Còn Trung Nguyễn người miền Bắc, thì lại là một nhà biên khảo nổi
tiếng với nhiều tác phẩm được phổ biến khá rộng rãi trước 1975.
Cả hai ông đều xuất thân từ trường đại học
Louvain nổi tiếng ở nước Belgique hồi đầu thập niên 1950. Nói chung, thì cả hai
ông giáo sư này là những trí thức có đầu óc cởi mở tiến bộ, chịu ảnh hưởng của
“phe tả, không cộng sản” ở Âu châu sau thế chiến, và không có mấy thiện cảm với
chính sách của người Mỹ ở Việt Nam. Cả hai ông còn là thành viên họat động của
Phong trào Trí thức Công giáo Pax Romana, thời Đệ nhất Cộng hòa, cùng với các
Bác sĩ Nguyễn Văn Ái, Nguyễn Văn Thơ, Luật sư Nguyễn Văn Huyền, các Giáo sư
Phạm Thị Tự, Phó Bá Long, Trần Long, các chuyên gia kinh tế Lâm Võ Hòang, Anh
Tôn Trang, kỹ sư Võ Long Triều v.v…
Lại nữa, có
hai Dân biểu trẻ tuổi, năng động, người miền Nam với lập trường đối lập với phe
đa số thân chánh quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mà hay được báo chí nhắc
đến, thì cũng có tên là Chung. Đó là Lý
Quý Chung và Nguyễn Hữu Chung. Đọc lên, thì tên Chung nghe cũng tương tự như
tên Trung, nên nhiều người khó phân biệt được. Cả hai ông Chung này đều thua
các ông Trung Lý và Trung Nguyễn đến cả chục tuổi. Và họ cũng vừa qua đời cách
nay mấy năm rồi : Nguyễn Hữu Chung thì mất ở Canada, còn Lý Quý Chung thì mất ở
Saigon.
Lý Chánh
Trung, ngòai việc đi dậy học lại còn làm việc lâu năm tại Bộ Quốc gia Giáo dục
với các chức vụ Công cán Ủy viên, Giám đốc Nha Trung học và làm cả Đổng Lý Văn
Phòng tại bộ này. Vào thời Đệ nhị Cộng hòa, ông còn hay viết bài cho các nhật
báo, tạp chí có khuynh hướng đối lập với chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Là người xuất thân từ miền Trà Vinh – Vĩnh
Bình, ông Trung Lý sát cánh gần gũi với “Nhóm Liên Trường” của các nhà họat
động chính trị xã hội của miền Nam trước năm 1975. Và một bộ phận không nhỏ của
Nhóm Liên Trường này đã vận động cho “giải pháp Dương Văn Minh” để thay thế cho
chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Sau năm 1975,
thì Lý Chánh Trung được cử làm Phó chủ tịch Hội Trí thức Yêu nước và đặc biệt
được sắp xếp ra tranh cử chức vụ Đại biểu Quốc hội tại một đơn vị bầu cử ở
Saigon. Ông còn điều hành một văn phòng thường trực của Đòan Đại biểu Quốc hội,
tọa lạc tại đường Thống Nhất, nơi căn nhà của vị mục sư phụ trách Nhà Thờ Tin
Lành của những người nói tiếng Pháp (Eglise Réformée de Langue Francaise). Vào
hồi đầu thập niên 1980, ông sát cạnh với cánh miền Nam để đòi hỏi cho có chánh
sách phù hợp hơn với người dân Nam bộ, mà sau này nổi bật nhất là “Nhóm Câu lạc
bộ Kháng chiến” do các đảng viên kỳ cựu như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng… lãnh đạo.
Và trong
những năm tháng cộng tác với chánh quyền cộng sản sau năm 1975, ông Lý Chánh
Trung đã gặp phải nhiều điều phiền phức khó xử, mà điển hình là một số sự việc
được mô tả thật ngắn gọn như sau đây.
1/ “Triết
học Mác Lênin là môn chẳng ai muốn học, mà cũng chẳng ai muốn dạy”
Vào năm 1988,
báo Tuổi Trẻ có đăng một bài báo gây chấn động dư luận ở miền Nam, đó là bài
viết của Giáo sư Lý Chánh Trung có nội dung đại khái như trên. Ông viết đại ý
như sau : Là một nhà giáo dạy môn triết học đã lâu, ông thấy hiện nay cái môn
Triết học Mác Lênin đang được giảng dạy ở các trường Trung cũng như Đại học ở
Việt Nam thì là điều áp đặt miễn cưỡng, học trò chẳng ai muốn học, mà thầy giáo
cũng chẳng ai thực sự còn muốn dạy nữa. Lời phát biểu này quả là một trái bom
nổ, phủ nhận hoàn toàn cái lối giáo dục “giáo điều, nhồi sọ” cứng nhắc của
người cộng sản.
Một ông cụ
ngoài tuổi 70 đã rất phấn khởi khi được đọc bài báo này. Cụ đã trao cho tôi một
số tiền nhỏ và nhờ tôi gửi đến vị giáo sư tác giả bài báo. Cụ nói với tôi :
“Tôi chưa bao giờ quen biết với giáo sư Trung, nên phải cậy nhờ đến ông luật sư
vốn là chỗ thân quen lâu ngày với giáo sư, để trao đến tay tác giả món quà nhỏ
mọn này. Đây vốn chỉ là tượng trưng cho sự quý mến và khâm phục của một ông già
đã vào tuổi thất thập đối với vị giáo sư đã có sự can đảm nói lên tiếng nói
lương tâm như vậy...” Và tôi đã làm theo lời của vị bô lão này, để trao tận tay
cho giáo sư Trung nơi văn phòng của ông tại đường Thống Nhất như đã ghi ở trên.
Nghe tôi
trình bày, anh Trung đâm nghi ngờ và nói : “Món tiền này là của chính anh có ý
muốn tặng riêng cho tôi. Chứ làm gì mà lại có một ông cụ già lạ hoắc nào rút
bóp đem tặng tiền bạc cho tôi?” Tôi phải trả lời : “Anh Trung ạ, chúng ta quen
biết nhau từ mấy chục năm rồi, việc gì mà tôi phải bày ra cái trò này đối với
một người bạn thân thiết của mình. Mà để làm gì cơ chứ? Không lẽ tôi tìm cách
mua chuộc anh? …”
“Anh không
nên đa nghi như Tào Tháo ấy. Ông cụ là người đáng kính, là người đồng hương
đáng bậc vị anh cả của tôi. Cụ tuy chưa bao giờ gặp gỡ anh, nhưng qua bài báo
này, cụ cảm phục và muốn bày tỏ tấm lòng quý mến đối với anh vậy thôi. Đó là
tiêu biểu cho số quần chúng nhân dân tại thành phố Sài Gòn này, tôi nghĩ anh là
một người Đại biểu Quốc hội, anh phải nhận ra và trân quý đến cái tình cảm chân
thật, sâu sắc như thế này chứ?...” Và rút cục, anh Trung đã hoan hỉ tiếp nhận
món quà và nhờ tôi gứi lời cảm ơn vị ân nhân.
Ông cụ nay đã
quy tiên từ lâu, nên bây giờ tôi có thể nêu danh tánh của cụ. Đó là cụ Đinh Văn
Năm, nguyên trước năm 1954 cụ đã giữ chức vụ Phó Tỉnh trưởng Tỉnh Bùi Chu, mà
người dân địa phương đều biết đến và mến chuộng đức độ và sự tận tâm phục vụ
của cụ cả trong việc đời, lẫn việc đạo. Tên của cụ thường được người dân ở điạ
phương gọi một cách thân mật là Cụ Chánh Năm.
2/ “May mà bây giờ có sự Đổi mới rồi, nếu
không thì mình đã bị mất cái đầu đi rồi”.
Vào đầu năm
1989, có tin đồn là ông Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh có rầy rà, ám chỉ giáo sư
Lý Chánh Trung sao đó, ông ấy nói đại ý như : “Có một số người trước đây là
đồng minh với chúng ta trong cuộc chiến đấu chống đế quốc, thực dân. Nhưng bây
giờ họ lại có lập trường khác, làm cản trở sự nghiệp xây dựng đất nước của ta
v.v…” Nghe vậy, tôi có đến gặp anh Trung và nói ngay : “Tôi nghe thiên hạ đồn
rằng bây giờ ông bạn giáo sư đang bị ‘rét’, vì bị Tổng bí thư ‘xát xà bông’ làm
sao đó. Sự thực ra sao vậy?” Anh Trung liền trả lời : “Quả là bây giờ có sự Đổi
mới rồi, chứ nếu không, thì mình bị ‘lấy mất cái đầu đi rồi’ đấy!” Nói xong anh
bèn rút từ ngăn kéo ra bức thư viết tay của ông Nguyễn Van Linh gửi cho anh và
trao cho tôi. Bì thư cũng như giấy viết đều là của một khách sạn ở Ấn Độ, nơi
mà Tổng bí thư mới đi thăm vào năm 1988. Bì thư cũng như lá thư đều được viết
bằng tay, nắn nót cẩn thận, có đề “Xin gửi Anh Lý Chánh Trung (Nhờ các Anh
Thành Ủy chuyển giao)”. Nội dung bức thư hòan tòan có tính cách trấn an, xoa
dịu do ông Nguyễn Văn Linh gửi riêng đến Lý Chánh Trung. Anh Trung giải thích :
“Đây là thư hồi âm của ông Linh gửi cho mình, vì trước đó mình đã gửi thư cho
ông ấy, nêu thắc mắc về sự ám chỉ trong bài nói chuyện với cán bộ đảng viên, mà
có liên hệ đến mình. Sự việc như vậy, kể như đã tạm yên, thiết nghĩ chẳng cần
phải bận tâm thắc mắc gì thêm nữa…”
3/ “Các
anh định bắt tôi ư?”
Tháng Tư năm
1990, tôi bị công an bắt và đưa vào trại tạm giam trong khu Tổng Nha Cảnh sát
cũ. Đó là trong vụ càn quét bắt giữ các cán bộ đảng viên nòng cốt như Nguyễn
Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu …, và bắt quản chế linh mục Chân Tín, giáo sư
Nguyễn Ngọc Lan… Trong suốt ba tháng điều tra, người phụ trách thẩm vấn tôi là
Đại Tá Quang Minh (tên thật là Ngô Văn Dần cỡ
65 tuổi, và hoạt động trong hàng ngũ cộng sản từ năm 1945) lúc đó ông
này phụ trách về bộ phận “Phản Gián”.
Có lần ông Quang Minh cho tôi biết là ông có
đến tận nhà các anh Lý Chánh Trung, Ngô Công Đức để cật vấn họ về họat động
liên quan đến âm mưu đòi “đa nguyên, đa đảng” sao đó. Ông kể lại : Ông Lý Chánh
Trung có ý thách thức tôi với câu hỏi rằng “Các anh định bắt tôi ư?” Tôi phải
trả lời rằng : “Nếu cần phải làm điều đó, thì chúng tôi vẫn có thể ‘rút lại cái
quyền bất khả xâm phạm của người đại biểu Quốc hội’ như anh đang nắm giữ hiện
nay được lắm chứ” (Đây là thủ tục mà trong tiếng Pháp, người ta gọi là “la levee’
de l’immunite’ parlementaire”). Ông Quang Minh mô tả là cuộc trao đổi giữa hai
người lúc đầu khá căng thẳng, gay gắt; nhưng về sau thì cũng ổn thỏa êm diụ
thôi.
Chỉ có Ngô
Công Đức, thì ông ta nói hơi sỗ sàng, đại khái ông Đức nói : “Tôi có 2 điều
không ưa : đó là tôi không ưa thích mấy người công an, và tôi cũng không ưa
thích người Bắc kỳ”. Tôi phải giải thích với ông Đức là “Phải tốn biết bao
xương máu, bây giờ nước nhà mới thống nhất. Thái độ kỳ thị Nam/Bắc của ông như
vậy là đi ngược lại với chiều hướng đòan kết, thống nhất của tòan thể dân tộc
chúng ta…”
4/ “Anh
Trung Lý bây giờ bị lẫn mất rồi”
Đó là lời mô
tả của anh chị Phó Bá Long nói với tôi vào giữa năm 2008, lúc tôi đến thăm và ở
lại nhà anh chị tại Virginia. Anh Long kể lại là vào năm 2007 mới đây, anh chị
có về Việt Nam thăm lại bà con, bạn hữu. Và anh có đến thăm gia đình Lý Chánh
Trung vẫn ở căn nhà cũ tại khu Làng Đại học Thủ Đức gần với xa lộ Biên Hòa. Bạn
bè lâu ngày mới gặp nhau, nên có dịp tâm sự nhiều. Thế mà anh Trung đã quên
lãng rất nhiều, đến nỗi đi ra khỏi nhà không xa bao nhiêu, mà anh cũng quên luôn
lối trở về nhà nữa. Năm đó anh Trung mới chỉ cỡ 83-84 tuổi thôi!
Mấy tháng
trước đây, thì Lý Tiến Dũng lại bị mất chức Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết của
Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Tiến Dũng chính là con trai thứ
của Lý Chánh Trung. Cháu đã đi bộ đội tham gia chiến đấu ở Cambodia trên 20 năm
trước và sau này gia nhập ngành báo chí của chánh quyền cộng sản. Nhưng có lẽ
cũng vì tiếp nối cái tinh thần khí phách của cha mình, mà Tiến Dũng đã có đường
lối thông thóang không phù hợp với chánh sách “xiết chặt tự do ngôn luận của
đảng cộng sản”, cho nên mới bị lọai bỏ khỏi chức vụ như vậy chăng?
Như vây là về
cuối đời, lúc đã về nghỉ hưu rồi, ông bạn giáo sư của chúng tôi vẫn còn gặp
điều khó xử nữa, xuyên qua cái vụ việc bị cất chức của con trai Lý Tiến Dũng
này vậy.
Và để tóm tắt lại, xuyên qua trường hợp của
giáo sư Lý Chánh Trung như đã trình bày sơ lược trong bài này, chúng ta có thể
ghi nhận rằng : Con đường hợp tác với người cộng sản ở Việt Nam quả thật vẫn
đày dãy chông gai, trắc trở và bạc bẽo lắm vậy !
California,
Tháng Chín 2009
Đoàn Thanh
Liêm
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Người trí thức cũng không có nghĩa là hoàn hảo, vẫn có những sai lầm về suy nghĩ, về lời nói, về hành động vì một động cơ lý tưởng. Nhưng khi nhận ra sự sai lầm thì phải có can đảm thừa nhận, phải biết xấu hổ, phải biết sửa đổi. Còn người có học ý thức rõ lời nói, việc làm… là sai mà vẫn nói, vẫn làm thì sao gọi là trí thức?. Kết luận: “Người trí thức là người phải có "trí" và "tuệ" (bản chất lương thiện, tâm hồn trong sáng), chứ không phải đơn thuần chỉ là có học vấn hay khoa bảng”.
Trả lờiXóaNhững người như ông Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín... trước 1975 họ là đông minh với CS, giúp cho CS chiến thắng. Kết quả là đất nước tan hoang về mọi mặt. Nhưng không ông nào công khai đứng ra xin lỗi với nhân dân, xác nhận sự sai lầm của mình. Vậy, ông đó có phải là trí thức không?.
Ông Lý Chánh Trung là nhân vật '' Ăn cơm quốc gia ,thờ ma Cộng Sản ''
Trả lờiXóa- Cha Trần Văn Hiến Minh phê bình Ng Văn Trung là viết cuốn Đạo Đức Học ( khoảng 1959) là NON nớt!
Trả lờiXóa- Lý Chánh Chung cours Triết Đại Hoc VKhoa khoảng 1962 phê bình Marx : Marx quá lý tưởng, xoá bằng giai cấp chăng nữa chắc gì mọi người trong xh đã yên !
- Chính óc kỳ thị địa phương đã đưa miền Nam vào chỗ chết, Ngô Công Đức, Ng Hữu Chung v..v..ghét Mỹ sao không ghét Nga, TC ?, ghét BKỳ sao lại đi với BKỳ CS...quá hời hợt nông nổi !!! ngay cả Ng Hiến Lê nữa, học giả vô minh. !
"Triết học Mác Lênin đang được giảng dạy ở các trường Trung cũng như Đại học ở Việt Nam thì là điều áp đặt miễn cưỡng, học trò chẳng ai muốn học, mà thầy giáo cũng chẳng ai thực sự còn muốn dạy nữa"
Trả lờiXóaÔng Lý Chánh Trung mất nhưng tinh thần ông không mất, còn mãi mãi trong tình cảm của tôi. Không dám nói của chúng ta.