Thứ Tư, 30 tháng 3, 2016
Nguyên Ngọc - Làng mất, rừng chết, đồng bằng hạn hán là đương nhiên
“Từ xa xưa,
và cho đến tận năm 1975, xã hội Tây Nguyên đã tồn tại bền vững trên cơ sở một cấu
trúc xã hội đặc trưng, lấy làng làm đơn vị xã hội cơ bản và duy nhất. Làng tồn
tại bền vững trên nền tảng kinh tế, vật chất là quyền sở hữu tập thể của cộng đồng
làng đối với đất và rừng.
Ở Tây Nguyên,
từ xa xưa, hoàn toàn không có rừng vô chủ. Từng tấc rừng đều thuộc về một làng
cụ thể. Người ta gọi đó là không gian xã hội, hay không gian tồn tại của làng
... Chủ trương quốc hữu hóa đất và rừng Tây Nguyên từ sau năm 1975, là tước đi
mất cái nền tảng vật chất của làng. Làng Tây Nguyên tất yếu đổ sụp. Văn
hóa cũng không thể còn, chỉ còn văn hóa diễn và giả.
… Đi đôi với
chủ trương quốc hữu hóa đất và rừng tai hại, là chủ trương đưa dân lên Tây
Nguyên với tốc độ và cường độ quá lớn, khiến dân số Tây Nguyên trong thời gian
ngắn, tăng lên hơn 5 lần, đặc biệt làm cơ cấu dân cư đảo lộn lớn và đột ngột,
hiện nay chỉ còn khoảng 20% người của các dân tộc tại chỗ. 80% đã là người
Kinh. Các dân tộc tại chỗ không còn vai trò chủ thể trong đời sống và phát triển
của Tây Nguyên.
Và hôm
nay, ta đang chứng kiến một trong những hậu quả không thể ngờ: Đồng bằng Nam Bộ,
vựa lúa sống còn của cả nước, đang khô cháy và mặn chát … vì mất rừng Tây
Nguyên!
Một bài học
thật lớn, thật cay đắng, về cả tự nhiên lẫn xã hội!”
(Dân Việt)
Chúng tôi đã nhiều lần lên tiếng từ hàng chục năm trước, với công luận và với cả
các cơ quan Chính phủ, đó là chuyện rừng Tây Nguyên.
Tình trạng hạn
hán, thiếu nước ở sông Mê Kông năm nay hẳn là do nhiều nguyên nhân: có chuyện
biến đổi khí hậu toàn cầu, và chắc chắn có ảnh hưởng rất lớn từ việc Trung Quốc
xây đập thủy điện trên sông Mê Kông, con sông nằm một nửa trên đất Trung Quốc,
và đấy lại là phần đầu nguồn.
Từ nhiều chục
năm nay, nhà văn người Mỹ gốc Việt Ngô Thế Vinh đã liên tục lên tiếng về nguy
cơ này. Tâm huyết và quan tâm sâu sắc đến tác động của các đập trên đầu nguồn
con sông này đối với các khu vực hạ lưu, đặc biệt là miền Tây Nam Bộ, vựa lúa nổi
tiếng của nước ta, ông đã tìm mọi cách để đi đến khảo sát cụ thể tận nơi dù bị phía
Trung Quốc ngăn cấm gay gắt.
Kết quả chuyến
đi dũng cảm và công phu này của ông là một cuốn sách rất quan trọng,có tên “Cửu
Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng”, báo động hai nguy cơ lớn nay đã hành hiện
thực: sông Mê Kông thiếu nước gây ra hạn hán và tai họa xâm mặn tàn phá đồng bằng
Tây Nam Bộ, và việc Trung Quốc quấy phá ở biển Đông.
Tây Nguyên
hạn, trẻ em phải vào rừng tìm
những khe nước nhỏ. (ảnh Nguoiduatin)
những khe nước nhỏ. (ảnh Nguoiduatin)
Câu chuyện của
nhà văn Ngô Thế Vinh bắt đầu bằng một chi tiết sâu sắc và cảm động: sống ở Mỹ,
từng ngày chăm chú hướng về quê hương, một hôm ông đọc trên báo tin người ta bắt
được một con cá đuối ở Đồng Tháp. Ông giật mình: cá đuối bị bắt ở Đồng Tháp, tức
là sông Mékông ở Tây Nam Bộ đã bị nhiễm mặn! Ông quyết đi tìm cho đến ngọn nguồn
của hiện tượng nguy hiểm này, bất chấp mọi che giấu, cản trở hiểm độc của nhà cầm
quyền Trung Quốc … Tôi rất mong cuốn sách quý “Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy
sóng”… của Ngô Thế Vinh - và nhiều tác phẩm quan trọng tiếp sau của ông, cũng về
đề tài này – sẽ được in chính thức và rộng rãi ở trong nước ...
Tuy nhiên, mặt
khác cũng không thể bỏ qua một yếu tố không kém phần quan trọng trong tình trạng
hạn hán và thiếu nước trầm trọng đang hoành hành hiện nay – mà chúng tôi đã nhiều
lần lên tiếng từ hàng chục năm trước, với công luận và với cả các cơ quan Chính
phủ, đó là chuyện rừng Tây Nguyên.
Tây Nguyên,
như ai cũng biết, là nóc nhà của Đông Dương. Và chỉ có nước từ nóc nhà Tây
Nguyên đổ xuống các vùng chung quanh, chứ không có nước nào chảy ngược lên được
nóc nhà Tây Nguyên. Một trong những đặc điểm của địa hình Tây Nguyên, là đường
phân thủy trên cao nguyên rộng lớn này nằm xế hẳn về phía Đông, tức sườn Tây
Trường Sơn rộng hơn hẳn sườn Đông Trường Sơn, có nơi gấp ba, bốn lần. Cũng tức
là nước từ Tây Nguyên đổ về các sông ở miền Nam Trung bộ (như Thu Bồn, Trà
Khúc, Đà Rằng …) ít hơn hẳn nước đổ về phía Tây, về sông Mé Kông, để từ đó đổ về
Nam Bộ. Cũng có thể nói, nước của Tiền Giang, Hậu Giang, nước ở Đồng Tháp, An
Giang, Kiên Giang, Cà Mau … cũng là nước Tây Nguyên …
Và, cũng hoàn
toàn có thể nói: rừng, nhân tố giữ nước quan trọng nhất của Tây Nguyên, cũng
góp phần quan trọng quyết định đối với sự giàu có hay nghèo kiệt của Nam Bộ nói
chung, đặc biệt của vựa lúa Tây Nam Bộ (chứ không chỉ đến Nam Trung Bộ, như lâu
nay ta vẫn tưởng).
Mà rừng Tây
Nguyên thì thế nào?
Có thể nói rất
gọn: rừng tự nhiên gần như hoàn toàn không còn! Đã bị phá sạch! Và chỉ có rừng
tự nhiên, với hệ thực vật đa dạng, nhiều loại cây đan chen (khiến sâu không thể
phát triển, mỗi loại sâu chỉ ăn được một loại cây), nhiều tầng, nhiều lớp thực
vật … mới thật sự có tác dụng giữ nước. Để khi mưa xuống, thì nước không ào ào
quét đi ngay một lúc, thành lũ hung dữ tàn phá… Mà thấm sâu xuống lòng đất, tằn
tiện lưu tích lại ở đấy, giữ độ ấm giàu có cho đất, và từ từ, kiên trì theo các
mạch ngầm rỉ rả mà vô tận quanh năm tiếp nước cho các dòng sông, cho các vùng đồng
bằng hạ lưu…
Những thửa
ruộng khô nứt nẻ ở ĐBSCL trước đây
từng là những vựa lúa trù phú.
Nhân đây,
cũng xin nói luôn mấy chuyện.
Rừng tự nhiên
Tây Nguyên bị tàn phá kiệt quệ như hiện nay, rất khó tái sinh, dù là rừng nhiệt
đới. Bởi trong rừng không phải cây nào cũng như cây nào, có những cây
thông thường, có những cây được gọi là cây “nòng cốt”, còn có cây “nòng cốt”
thì rừng mới tái sinh được. Rừng Tây Nguyên bị tàn phá đến kiệt quệ như hiện
nay, theo nhiều chuyên gia, sẽ không biến thành sa mạc cát, như kiểu Gobi hay
Sahara, mà thành loại rừng gai lúp xúp. Chẳng lẽ chúng ta muốn để lại cho con
cháu một cao nguyên toàn rừng gai lúp xúp!
Tôi vừa đi
Kontum về. Kontum là tỉnh có một số ít khu rừng còn tương đối khá, như ở Ngọk
Linh, Vi-ô-lắc … Tuy nhiên, năm nay trở lại, càng thấy ngay ở đây, rừng cũng đã
bị phá đến kinh hoàng. Đồi núi đều trọc. Trong khi TP Hồ Chí Minh 30-32 độ ,
thì ở đây đã 35-36 độ. Hạn hán, thiếu nước và nóng gay gắt ngay ở Tây Nguyên
năm nay đang rất nghiêm trọng.
Cũng cần nói
về việc trồng cao su. Phát triển cao su hiện nay ở Tây Nguyên đã vượt quá ngưỡng
vùng đất ấy có thể chịu đựng được. Và cần khẳng định, cao su không phải là rừng,
không thể coi là rừng. Cao su là loại cây rễ cọc, không có tác dụng giữ nước.
Dưới cây cao su cũng không có cây gì còn mọc được, đến cả cỏ. Chủ trương gọi là
“cho phép chuyển rừng nghèo sang trồng cao su” cách đây mấy năm là rất tai hại.
Lập tức rừng già bị khai là “rừng nghèo”, và đấy là một thời kỳ phá rừng dữ dội
nhất ở Tây Nguyên.
Cà phê cũng
đã được trồng quá mức, gây phá rừng. Và càng chắc chắn cà phê không phải là rừng,
không thay thế được rừng để giữ nước…
Mất rừng ở
Tây Nguyên đến kiệt quệ như hiện nay, ngoài những nguyên nhân có tính chất “kỹ
thuật”, còn do những nguyên nhân xã hội sâu xa, xuất phát từ những chủ trương lớn
không được nghiên cứu, cân nhắc đủ thận trọng. Trong đó, theo tôi, có hai việc
lớn:
Từ xa xưa, và
cho đến tận năm 1975, xã hội Tây Nguyên đã tồn tại bền vững trên cơ sở một cấu
trúc xã hội đặc trưng, lấy làng làm đơn vị xã hội cơ bản và duy nhất. Làng tồn
tại bền vững trên nền tảng kinh tế, vật chất là quyền sở hữu tập thể của cộng đồng
làng đối với đất và rừng.
Ở Tây Nguyên,
từ xa xưa, hoàn toàn không có rừng vô chủ. Từng tấc rừng đều thuộc về một làng
cụ thể. Người ta gọi đó là không gian xã hội, hay không gian tồn tại của làng
... Chủ trương quốc hữu hóa đất và rừng Tây Nguyên từ sau năm 1975, là tước đi
mất cái nền tảng vật chất của làng. Làng Tây Nguyên tất yếu đổ sụp. Văn
hóa cũng không thể còn, chỉ còn văn hóa diễn và giả.
Làng mất đất
thì tan, con người trở nên bơ vơ, thụ động.
Theo tôi, nói
văn hóa Tây Nguyên, là nên nói như thế, cho đến đó. Chứ không chỉ dừng ở những
hình thức đẹp đẽ bên ngoài, như cồng chiêng, nhà rông …
Những con
suối trên đại ngàn Tây Nguyên đã cạn nguồn. (ảnh Nguoiduatin)
Cũng cần khẳng
định chỉ có làng, làng làm chủ đất và rừng thật sự của mình, thì mới giữ được rừng.
Không chủ sở hữu nào làm được điều đó. Đấy là kinh nghiệm thực tế của hơn
40 năm qua.
Đi đôi với chủ
trương quốc hữu hóa đất và rừng tai hại, là chủ trương đưa dân lên Tây Nguyên với
tốc độ và cường độ quá lớn, khiến dân số Tây Nguyên trong thời gian ngắn, tăng
lên hơn 5 lần, đặc biệt làm cơ cấu dân cư đảo lộn lớn và đột ngột, hiện nay chỉ
còn khoảng 20% người của các dân tộc tại chỗ. 80% đã là người Kinh. Các
dân tộc tại chỗ không còn vai trò chủ thể trong đời sống và phát triển của Tây
Nguyên.
Theo tôi, đấy
là những sai lầm lớn, đến mức khó quay ngược trở lại.
Và hôm
nay, ta đang chứng kiến một trong những hậu quả không thể ngờ: Đồng bằng Nam Bộ,
vựa lúa sống còn của cả nước, đang khô cháy và mặn chát … vì mất rừng Tây
Nguyên!
Một bài học
thật lớn, thật cay đắng, về cả tự nhiên lẫn xã hội!
Lần này, đã học
được chưa?
N.N.
Nguồn: http://danviet.vn/kinh-da-trong/lang-mat-rung-chet-dong-bang-han-han-la-duong-nhien-670128.html
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét