Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2016
Lê Hữu - Những dòng suối mát trong truyện Võ Hồng
Cuộc đời thường không tốt quá,
cũng không xấu quá như ta tưởng.
cũng không xấu quá như ta tưởng.
Võ Hồng
“Cứ vào tối ba mươi Tết mỗi năm là tôi đón đợi nghe bài thơ được phổ nhạc của anh. Có một cái gì dịu dàng trong đó. Có không khí của mùa xuân trong đó, mùa xuân trong lòng người xưng em. ‘Anh cho em mùa xuân’. Tôi liên tưởng đến bài Sonnet của Arvers. Nhất định là nó sẽ sống như Sonnet d’Arvers, như Valses của Johann Strauss…”
Những dòng trên được trích trong thư của nhà văn Võ Hồng (ngày 8/7/1971)
gửi nhà thơ Kim Tuấn, in trên trang bìa sau một thi tập của nhà thơ, “Thời của
trái tim hồng”.
Tôi chắc Võ Hồng hẳn phải có tâm hồn thơ lắm khi viết những dòng ấy. Ông
không nói đón đợi để nghe bài nhạc phổ thơ mà nói để “nghe bài thơ được phổ nhạc”. Ông yêu bài thơ và yêu không khí mùa xuân thật
dịu dàng trong bài thơ, cũng tựa không khí Tết và mùa xuân trong những truyện ngắn của ông như “Xuất hành năm
mới”, “Mùa xuân nghe tiếng chim”, “Ngày xuân êm đềm”, “Cánh thiệp đầu xuân”…
Trong số những “truyện mùa xuân” ấy, có một truyện–một câu chuyện tình–mà
ngoài cái tựa ra đố tìm thấy một chữ “xuân” nào trong suốt truyện, và là một
trong những truyện mang dấu ấn đậm nét nhất của “truyện ngắn Võ Hồng”. Tên truyện là “Con suối mùa xuân”.
Lolita và con suối
mùa xuân
Dấu ấn ấy hiện rõ từ những
dòng đầu tiên của truyện.
Chúng
tôi bắt đầu yêu nhau một cách tình cờ.
Hôm đó nàng bế đứa cháu nhỏ con của người anh, đứng trước cổng. Thấy tôi, nàng hỏi:
-
Anh Tịnh này, anh xem có dễ thương không?
Tôi
nhìn nàng, nhìn đứa cháu. Nàng mặc chiếc áo dài mới màu xanh thêu hoa. Có đánh
tí hồng nơi má. Nên tôi hỏi lại:
-
Cô định hỏi ai dễ thương?
Nàng đỏ mặt không nói. Tôi
yêu nàng lúc đó.
“Tôi yêu nàng lúc đó”, câu dẫn truyện thật
gọn gàng, thật tự nhiên như chiếc chìa khóa xoay nhẹ một cái, mở rộng cánh cửa
bước vào không gian truyện.
Tịnh, tên nhân vật chính xưng “tôi” trong truyện, là nhân viên một sở kế
toán. Chàng đã yêu và được yêu. Chàng yêu bằng “trái tim thật thà” của một
kế toán viên chân chỉ, cần mẫn. Thật như đếm. Thật thà thì dễ thua thiệt, “thật
thà chịu nhiều xót xa” như lời một bài hát “không tên” nào. Kết quả là anh chàng
bị tình phụ. Mỹ Khuê, người yêu của Tịnh, lặng lẽ chia tay chàng để đi theo tiếng
gọi của biển; nói đúng hơn, tiếng gọi của một sĩ quan hải quân bảnh trai, văn minh, lịch sự hơn chàng.
Ngày nào nàng nói “Em yêu anh” khi đỏ mặt đứng bế cháu, hôm nay nàng nói
“Giã từ anh” khi tôi đến thăm mà chỉ có Me ra tiếp. Me nói:
- Con Khuê nó vừa xuống nhà bạn nó ở dưới... Sinh Trung.
Me phải chọn hơi lâu tên một địa điểm.
Lần sau đến thăm thì chị Sâm ra tiếp:
- Con Khuê nó vừa đi phố gội đầu.
Đàn bà có nhiều lý do để đi phố, mà lịch sự nhất là đi gội đầu… Chợt,
sau nhà có tiếng nói to của Annie (cô em kế của Mỹ Khuê):
- Chị Khuê ơi, cái dĩa hát “Catch a Falling Star” của anh Phan cho chị
mượn hôm trước chị đã trả chưa? Em tìm không thấy.
Có mấy tiếng “Suỵt!” khe khẽ… Tôi nhìn đồng
hồ rồi cáo từ chị Sâm.
Những tiếng “Suỵt, suỵt…” khe khẽ ấy lại là tiếng nói mạnh mẽ nhất bày tỏ
sự dứt khoát và lạnh lùng quay lưng với tình yêu.
Thế là tôi đã mất Mỹ Khuê. Thật dễ dàng như khi tôi được nàng. Tình yêu đến và đi không có báo trước, không
giống như những chuyến máy bay chở hành khách có ghi rõ nhật kỳ, ghi giờ hạ
cánh và cất cánh.
Tịnh đã có lúc tự ví mình như anh chàng
Quách Tĩnh xấu trai, chậm chạp, tính tình đôn hậu bên cạnh cô nàng Hoàng Dung
xinh đẹp, nhanh nhẹn và thông minh trong tiểu thuyết kiếm hiệp Anh Hùng Xạ Điêu của Kim Dung. Đôi trai
tài gái sắc kết hợp và bổ sung cho nhau như một “cặp đôi hoàn hảo”. Tiếc một điều
là Hoàng Dung ngoài đời của chàng lại không được thủy chung như là trong truyện
nên chàng Quách “Tịnh” đành lầm lũi đếm bước độc hành trên bước đường hành hiệp
giang hồ.
Sau đó là những ngày buồn bã, nhớ nhung một
tình yêu đã vuột mất:
Tôi tha thiết nhớ Mỹ Khuê trong những ngày mưa và nhất là những
đêm thức giấc cô đơn nghe mưa rơi ngoài trời. Nhưng Mỹ Khuê, nàng có một quả
tim bằng cẩm thạch. Là đối với tôi, chứ còn về phía Phan thì tôi chắc nàng đang
mơ màng một ngày nào làm nội tướng ông Tư Lệnh đập vỡ chai rượu vào sườn tàu để
làm lễ hạ thủy một chiếc tàu mới. Mỹ
Khuê có nhiều tham vọng. Thích được đăng ảnh trên báo và trả lời những câu phỏng
vấn. Vĩnh biệt Mỹ Khuê!
Không dễ gì “vĩnh biệt tình em” khi mà trái
tim chàng vẫn còn vấn vương tơ tưởng đến người tình phụ phàng và đầu óc chàng vẫn
còn nhiều… tưởng tượng:
Mỹ Khuê bao giờ cũng bắt
tôi đợi năm phút trước khi nàng từ phòng riêng bước ra. Màu da trắng mát và đôi
mắt đầy đặn nhờ một giấc ngủ trưa yên tĩnh. Mùi nước hoa thơm ngọt khiến trông
nàng ngon như một cái bánh… Giờ này thì chắc chắn là Phan đang ngồi vào cái ghế
của tôi và Mỹ Khuê lại cứ ngon như một cái bánh. Hoặc:
Hiện giờ Mỹ Khuê đang
tiếp Phan ở phòng khách, cửa kính hạ xuống để che gió, âm nhạc rơi từng giọt nhẹ
từ chiếc Hi Fi đặt ở góc phòng… Hai người đang thủ thỉ cho nhau nghe những chuyện
êm đềm, trong khi tôi ngồi độc thoại ở bãi biển màu xám này.
Người đàn ông thất tình một mình lò dò ra
bờ biển vắng để tâm sự với biển, người bạn dễ tính và cũng lặng lẽ, cô đơn như
mình. Điều bất ngờ, chàng “đụng” phải người quen là cô em gái của người yêu đã
chia tay.
Tiếng chân đến sát gần. Một người ngồi xuống chụp vào vai tôi.
- Anh ngồi làm gì ở đây?
Tôi giật mình quay lại.
- Annie!
Annie mỉm cười ngồi sà lại gần tôi.
- Em đến đây làm gì vào giờ này? Biển vắng và trời sắp tối…
Annie mặc váy ngắn, áo len dài tay màu đỏ, giày escarpin trắng.
- Em biết anh thất tình phải không?
Tóc Annie bay phất phơ theo gió tạt vào mặt
tôi. Mùi nước hoa ngọt ngọt–À, mùi hoa violet, tôi sực nhớ ra rồi–tỏa từ mái
tóc, từ áo len. Đôi mắt sáng. Cái mũi hếch
lên một chút.
Cuối truyện là mẩu đối thoại giữa anh chàng bị tình phụ và cô bé tuổi mộng
mơ. Đây có lẽ là đoạn văn ở lại lâu nhất trong lòng người đọc:
- Anh đã đọc Lolita chưa?
- Rồi.
- Anh có thích truyện đó không?
Tôi gật đầu.
- Anh kể cho em nghe truyện Lolita đi.
- Dài quá. Vả lại truyện không đứng đắn.
- Kệ nó. Truyện bắt đầu như thế nào?
Tôi gãi cằm, ngần ngừ một lát:
- Bắt đầu thì thật hay. Như là tiếng kêu thổn thức của một tâm sự: “Lolita,
ánh sáng của đời tôi, lửa của...” Chà chà, khó nói quá: “feu de mes reins...”
- Em hiểu rồi, anh khỏi cần phải dịch. Anh nói tiếp đi.
- “Tội lỗi của tôi, linh hồn của tôi. Lolita: đầu lưỡi nhảy ba cái chạm nhẹ
vào vòm khẩu cái, chạm ba lần vào răng. Lo. Li. Ta.”…
- Tình yêu giữa Lolita và Humbert anh có cho là tội lỗi không?
Tôi ngạc nhiên quay nhìn thẳng Annie.
- Sao em biết tên Humbert?
Annie cười:
- Vì em đã đọc hết quyển Lolita rồi.
- Đó không phải là quyển truyện dành cho
em.
Cái lối rẽ của câu chuyện là đây. Truyện cần được kết thúc cách nào đó để
còn đọng lại chút gì trong lòng người. Nếu cứ để cho người đàn ông tiếp tục đi
lang thang trên bờ biển vắng, gọi tên người yêu lẫn trong tiếng sóng, hoặc ghé
quán bar nào đó nốc rượu tì tì cho đến
lúc quên đường về... thì e người đọc khó mà nhớ được cái tên truyện.
- Em muốn hỏi anh điều này nhé?
- Gì?
- Humbert so với anh, ai lớn tuổi hơn?
- Cố nhiên là Humbert lớn tuổi hơn anh nhiều.
Annie gật gật đầu.
- Anh trẻ hơn Humbert... Còn em thì lớn hơn Lolita... Annie ngừng lại
không nói tiếp. Tôi mở to mắt nhìn
Annie, ngạc nhiên vì câu nói vừa rồi.
- Đó là truyện tiểu thuyết...,–tôi chậm
rãi nói.
Đúng là tiểu thuyết. Thế nhưng cuộc đời lắm lúc cũng gay cấn ly kỳ, đâu
có thua gì tiểu thuyết.
![]() |
Photo courtesy of Võ Thị Diệu Hằng |
Nhưng Annie không nghe tôi. Nàng đăm đăm nhìn ra chân trời xa. Sương đã
xuống mù. Vài ánh đèn thuyền câu chói sáng… Tôi lay vai Annie:
- Annie về đi. Tối rồi. Me và chị Mỹ Khuê đang đợi ở nhà.
Annie vẫn bám hai tay vào vai tôi, lắc đầu:
- Anh có khinh Lolita không?
- Anh chưa nghĩ đến điều đó…
Annie chợt cười rồi bẹo má tôi:
- Trông bộ anh ngớ ngẩn, đúng là anh chàng thất tình. Sao ngày xưa anh
vui vẻ nhanh nhẹn thế? À, đố anh biết tại sao em gặp anh ở đây?
Tôi lắc đầu:
- Chịu.
- Em lại đằng nhà tìm anh… Em biết thế nào anh cũng lò mò ra biển. Thất
tình mà.
- Thầy bói đoán giỏi. Em lại tìm anh có việc gì?
- Để
giã từ anh ngày mai đi Đà Lạt. Em biết anh không xuống nhà nữa, từ ngày anh
thôi với chị Khuê. Tình yêu là thế đó. Anh có giận lây em không?
- Không.
- Vậy thì bắt tay em đi.
Tôi siết chặt tay Annie. Bàn tay mềm và ấm.
Annie giữ tay tôi lại và không bỏ ra. Ngón tay trỏ và ngón tay giữa của nàng vuốt
nhẹ trên lưng bàn tay tôi, gây một cảm giác êm êm rợn rợn.
Sau “cảm giác êm êm rợn rợn” ấy là chia tay, tất nhiên.
Nàng bỏ tay tôi ra rồi bấu vào vai tôi đứng dậy. Tôi đứng dậy theo.
- Anh không chúc em điều gì sao?
- Có chứ,–tôi
vội nói–. Chúc
em đi đường bình an, học giỏi.
- Cám ơn anh. Còn em chúc anh sức khỏe,
vui vẻ. Nhé? Mon péché,... mon âme.
Nàng nói xong, thoăn thoắt đi. Ánh đèn đường
chiếu nghiêng xuống mái tóc tỏa sáng. Váy ngắn. Áo len dài tay màu đỏ. Nàng bước
lên một chiếc xích lô đậu gần đó, quay lại giơ tay vẫy tôi. Tôi cũng giơ tay vẫy
theo. Chiếc xe vun vút chạy, mất hút sau dãy phi lao thấp.
Hai tiếng cuối cùng
Annie nói cho ai? “Tội lỗi của tôi. Linh hồn của tôi”. Thật khó mà phân biệt
nàng muốn ám chỉ tôi hay chỉ nhắc lại lời của Humbert. Tôi đứng lặng, ngẩn ngơ, ngờ vực, thậm chí
không tin rằng điều vừa xảy ra là có thật. Tôi đưa bàn tay lên mũi: rõ ràng là
mùi nước hoa violet từ bàn tay Annie chuyển sang.
Mùi nước hoa có thật. Mẩu đối thoại là có
thật. Thế nhưng câu nói ấy, “Mon péché,
mon âme” lại như cái dấu ba chấm lửng lơ (…). Như câu chuyện kết thúc lửng
lơ.
Cô bé tuổi dậy thì chuyện trò tự nhiên với
người đàn ông từng là người yêu của chị mình trong cuộc gặp không có hẹn hò,
sắp đặt gì trước. Phần đối đáp qua lại giữa hai nhân vật đầy kịch tính như
trong một màn kịch nói. Câu nói kết thúc phần đối thoại cũng là kết thúc vở
kịch trong lúc màn từ từ hạ.
Sau cùng chỉ còn lại mình chàng trên bờ
biển vắng. Đêm xuống dần. Không còn Mỹ Khuê, không còn Phan, không còn Annie…,
không còn ai nữa. Tất cả đều bỏ đi, tất cả đều tan biến, như từng lớp sóng xóa
nhòa những dấu chân trên cát. Chỉ còn lại một không gian tĩnh lặng, một tâm hồn
trống vắng, chơ vơ.
Câu chuyện tình mở đầu thật tình cờ và kết
thúc cũng bất chợt như thế.
Annie! Nàng đột nhiên
hiện đến chiều nay nhí nhảnh, bất ngờ như một dòng suối nhỏ hát róc rách giữa một
vùng hoa lá, nhưng cũng đủ làm xáo trộn hồn tôi. Rồi thoáng chốc nàng vụt bỏ đi, để tôi trầm
ngâm đứng giữa bãi bể vắng này như con suối đã bỏ xa một vũng nước sâu nằm lặng
yên trên bờ lau sậy, mang nặng trong lòng nó những lớp lá úa và những dải rong
rối ren chằng chịt.
Hóa ra “con suối mùa xuân” là đây. Annie,
cô bé hiện thân của Lolita ấy đã cứu rỗi linh hồn u ám của nhân vật chính trong
truyện. Ai mà ngờ được câu chuyện lại chuyển sang hướng ấy, chuyển từ cái buồn
bã nặng nề sang cái bâng khuâng nhẹ nhàng, làm dịu tâm hồn người đọc.
Võ
Hồng là vậy. Ông không chịu để nhân vật của mình phải chết chìm trong khổ đau,
tuyệt vọng hay đầu hàng số phận mà luôn đi tới, vươn lên để tìm kiếm những đổi
thay và ý nghĩa cho cuộc sống. Trong bất kỳ cảnh ngộ nào, sau những mất mát,
thua thiệt người ta vẫn có thể vớt vát được chút gì an ủi. Những nỗi thất vọng,
buồn phiền và những điều bất như ý không làm người ta mất niềm tin vào cuộc
sống.
Truyện ngắn ưng ý nhất
của nhà văn
“Con suối mùa xuân” được nhà
văn Võ Hồng viết ra cách đây đã 50 năm. Truyện đăng lần đầu trong tạp chí Văn
Xuân Ất Tỵ (số 26 & 27, ngày 15/1/1965), được in lại trong tập
truyện cùng tên, nxb Lá Bối (1966).
“Con suối mùa xuân” được nhiều người đọc
Võ Hồng yêu thích, nhưng không hẳn là truyện ngắn hay nhất của ông (mặc dù ông từng
nói đấy là một trong những truyện ông ưng ý nhất). Những người từng đọc ông có
thể “tự chọn” cho riêng mình truyện nào mình thích nhất, thường là những truyện
còn đọng lại lâu dài trong ký ức người đọc.
Võ Hồng viết nhiều thể loại: truyện dài, truyện
vừa, truyện ngắn, tự truyện, hồi ký, tùy bút và cả thơ nữa. Nhiều độc giả của nhà
văn tìm đến những truyện ngắn của ông hơn các thể loại khác. Nhiều người đọc Võ
Hồng dễ nhận ra giọng văn ông: bình dị, tự nhiên với nhiều ý tưởng thâm thúy của
một nhà văn từng trải, với óc quan sát thật nhạy bén, tinh tế, với lối ví von và
liên tưởng giàu hình ảnh pha chút hóm hỉnh nhẹ nhàng, thú vị. Văn ông có khí
hậu riêng, trong sáng, tươi vui như dòng suối mát, lại được sự chăm chút cẩn
trọng trong từng câu, từng chữ trong lúc vẫn không thiếu những nét thơ mộng,
lãng mạn, nhất là trong những truyện tình cảm.
Văn chương Võ Hồng là sự thách thức những lối
hành văn bóng bẩy, cầu kỳ kiểu cọ theo trào lưu thời thượng, chuộng hình thức
mà ý tưởng nghèo nàn, tựa cách trình diễn của những cô ca sĩ chất giọng xoàng
xoàng, chỉ chú trọng vào trang phục sexy và điệu bộ nhún nhảy cốt làm vui mắt và
hấp dẫn khán giả.
Võ Hồng luôn có một đối tượng độc giả
riêng, luôn gắn bó với tác giả, cả trước và sau năm 1975. Nhiều truyện ngắn của
ông thể hiện rõ nét văn phong và bút pháp Võ Hồng.
Những sôi nổi, háo hức trong tình yêu:
Tôi nuôi tình yêu không phải
chỉ bằng đôi mắt nhìn và bằng vòng tay ôm. Tôi còn yêu bằng những sự tinh
nghịch, dí dỏm… Tôi ưa sự đột ngột, bất ngờ. Như một con suối nhỏ chảy len giữa
khe đá, trốn dưới một lùm cây rồi bất ngờ chảy vọt ra, hát róc rách bên một
chùm hoa dại. Có tình yêu, tâm hồn tôi nhanh nhẹn vui tươi như con suối tinh
nghịch đó. (“Con suối mùa xuân”)
Những diễn biến “tâm lý tình cảm”:
Dung Nghi đứng tựa bao lơn tàu nhìn xuống sóng nước. Mái tóc cắt ngắn
vừa mới uốn để lộ một đoạn cổ trắng như mỡ đặc. Nét mặt nghiêm trang và kiêu
kỳ. Cái nốt ruồi dưới khóe mắt. Ngày mai tôi sẽ xa Dung Nghi nhưng nàng đâu có
biết. Tình yêu của tôi vụng dại và âm thầm. Tôi không đẹp trai, không có tài
đặc biệt và không giàu. Một hoa mai vàng gắn trên quân phục kaki không đủ sức
mời mọc những cái nhìn và làm nở những nụ cười. Những người tôi có thể yêu
dường như đều hướng cái nhìn về một nẻo khác… Giã từ Dung Nghi! Nàng đẹp và
dáng nàng đứng tựa bao lơn tàu đẹp rực rỡ như trong một huyền thoại. Như một
hành khách quí phái trong chuyến viễn du trên những hàng hải thương thuyền hạng
sang chạy đường Nữu Ước sang Luân Đôn… (“Bọt trắng”)
“Những
người tôi có thể yêu dường như đều hướng cái nhìn về một nẻo khác,” nhân vật của Võ
Hồng thường ít gặp
những may mắn trong tình trường, vì tầm thường, vì “không đẹp trai, không có tài
đặc biệt và không giàu”, đành cam chịu những lỡ làng của “kẻ đến sau” hay bị “phỗng tay trên” vì tình
địch bản lãnh hơn…
Ngày cưới Nguyệt, Long đáp tàu lửa rời bỏ thành phố. Anh tránh nghe tiếng
pháo, tránh chứng kiến một cuộc rước dâu long trọng. Con tàu lùi lũi chạy và
đôi đường sắt sau đuôi tàu như kéo dài theo mãi nỗi buồn không dứt của anh.
(“Người thứ ba”)
Tôi tập hạn chế hi vọng, lúc nào cũng chuẩn bị đón nhận những sự bất như
ý thật lớn, chịu đựng những sự thiệt thòi quá mức để mong rằng sự thật không
đến nỗi tồi tệ như vậy. (“Tháng năm sương mù”)
Những dí dỏm, diễu cợt về các hoạt cảnh của đời sống:
Ông Cự Quang hùn với một bà bạn mở snack-bar có ban nhạc sống do thằng
em trai của Thanh Phương tên là Tony Út thành lập với lũ bạn chuyên môn trốn học
của nó. Tôi đã có lần chạm trán với vị nhạc trưởng này, mặt mày ốm nhom, tóc để
dài vừa uốn như tóc đàn bà. Nếu không nhìn ngay xuống cặp đùi tong teo dài ngoẵng
và cái ngực mỏng như tấm bìa lịch thì tôi có thể tưởng lầm đó là một người đàn
bà già và xấu… Tony Út chào tôi và khoe liền ban nhạc của hắn.
- Em vừa tuyển được một tay trống cừ lắm. Đêm qua bọn em mới trình diễn dưới câu lạc bộ Neptune.
- À, khá quá nhỉ,– tôi nói vẩn vơ.
- Em vừa tuyển được một tay trống cừ lắm. Đêm qua bọn em mới trình diễn dưới câu lạc bộ Neptune.
- À, khá quá nhỉ,– tôi nói vẩn vơ.
- Em đổi tên ban nhạc lại rồi. “The Blinds”–những
thằng mù–thầy nghe có được không?
- Được lắm. Chỉ sợ người ta tưởng lầm là ban nhạc của trường mù. (“Đôi ngả”)
- Được lắm. Chỉ sợ người ta tưởng lầm là ban nhạc của trường mù. (“Đôi ngả”)
Có khi là chút trầm tư, chút bâng khuâng triết lý trong tình yêu và cuộc
sống:
Tôi cảm động ôm vai nàng nói:
- Bây giờ anh mới hiểu em, mới biết em, mới thưởng thức được em. (“Khoảng trống sau lưng”)
Phụ nữ như một bông hoa mà không phải người đàn ông nào cũng biết thưởng
thức. Hoặc:
Hạnh phúc ở đời, theo em nghĩ, như là cảm
giác của người đi giày. Một đôi giày làm mình dễ chịu khi mang nó vào chân rồi
mà mình không nghĩ rằng mình đang mang giày. (“Khoảng trống sau lưng”)
Không có một cuộc đời hạnh phúc, chỉ có những
ngày, những giờ hạnh phúc. (“Trầm
tư”)
Đừng ân hận vì đã yêu, yêu một bài thơ, một loài hoa, một người đàn bà. Cho
dẫu hôm nay anh đã đổi thay, thì chúng cũng đã làm êm đềm tâm hồn anh trong
thời gian anh yêu. (“Trầm
tư”)
Một, hai đoạn văn
rất “Võ Hồng”: chuyện một nạn nhân bị chó cắn đang nổi quạu với người
chủ con chó dữ bất ngờ đổi giọng thành… hòa nhã, lịch sự khi bắt gặp ánh mắt dịu dàng của cô con gái xinh
đẹp của chủ nhà.
Tôi nói một hơi thì cơn giận nổi lên. Ông Sử Cẩm Hưng coi tôi
như một ông Xã nhà quê nên đem việc thử máu ra để trấn an tôi. Máu nóng hừng
hực ở mũi, ở tròng con mắt, tôi không giữ được nữa:
- Thú y chỉ giữ con chó lại để xem xét
trạng thái bên ngoài của nó mà thôi. Chẳng hạn nó bỏ ăn, chẳng hạn nó bị bại.
Khám xét nó chỉ có bên Viện Pasteur. Phải chặt đầu nó, chặt đầu
nó, ông rõ chưa, phải chặt đầu nó, phải...
Chợt có một bàn tay nhỏ, trắng, gạt nhẹ
bàn tay tôi ra và nặn máu hộ tôi. Khuôn mặt cúi xuống, tôi thấy đôi hàng mày
dài, cánh mũi và hàng mi cong. Những ngón tay trắng hồng nặn nhè nhẹ lên vết thương
của tôi. Tôi ngừng nói nhìn xuống. Đôi mắt đen ngước nhìn lên tôi dịu dàng. Tôi
hạ giọng:
-
Nhưng xin ông an tâm. Tôi sẽ đi chích ngừa. Chả sao đâu. (“Lương mai”)
Hoặc câu chuyện về một Lolita khác, cô nữ sinh là tiểu thư con nhà giàu, có “cảm tình đặc biệt” với thầy giáo
của mình, vui
mừng vì mới thoát nạn dọc đường, bất ngờ xô cửa nhảy xổ vào ôm chầm lấy ông thầy–y hệt một scene táo bạo trong phim Lolita–trong lúc người thầy hết sức bối rối, vừa cố gỡ những ngón tay bám
chặt của cô học trò vừa len lén đưa
mắt nhìn ra “chiếc
Hillman màu vàng nhạt đậu ngay trước cổng”, sợ rằng người tài xế của cô chủ bắt gặp, nhưng chỉ thấy một dáng đàn ông ngồi bất động trước tay lái, mắt nhìn thẳng về phía trước, hai tay đặt trên vô-lăng, “ngồi một mình mà vẫn ngồi thật ngay thẳng y
như trước mặt có một ông Tổng Trưởng”.
(“Giọt sương long lanh”)
Trong số những truyện ngắn Võ Hồng, truyện
nào được tác giả ưng ý nhất, câu hỏi nhiều người muốn biết. Tôi nhớ có
lần nhà văn nhắc đến những tên truyện “Trầm mặc cây rừng”, “Con suối mùa xuân”,
“Nhẹ hơn cơn gió thoảng”…
Tôi cũng nhớ, để
đi tìm câu trả lời này có lần tôi tìm đến một tuyển tập khá dày dặn tập hợp nhiều truyện ngắn của gần
năm mươi tác giả, được cho là những truyện ngắn hay nhất của hai mươi năm văn học
miền Nam thời kỳ 1954-1973, trong đó từng tác giả bày tỏ “quan niệm về truyện ngắn” và cũng tự chọn
ra truyện ngắn ưng ý nhất của mình. Điều bất ngờ, không có tên... Võ Hồng trong
số ấy, trong lúc không ít tác giả trong tuyển tập sở trường về thể loại văn chương
khác hơn là truyện ngắn.
Chàng Samurai cuối
cùng
![]() |
Photo courtesy of Võ Thị Diệu Hằng |
Những truyện ngắn
kể trên đều là truyện trước năm
1975 của
Võ Hồng, và là những truyện ít được nhắc tới sau cuộc “đổi đời”. Không ngạc nhiên, vì truyện vẽ ra bức tranh sinh động
với bối cảnh và khí hậu của một miền Nam yên vui, “ấm
no hạnh phúc”, của những
đời sống an lành, hiền hòa, của một nền văn hóa và giáo
dục đầy tính nhân bản.
Một
đất nước tươi đẹp, một bầu trời mênh mông tự do và những con người từng sống và
yêu đất nước mình với một phong cách sống khác hẳn người dân miền Bắc. Đến cả những người lính cũng không thiếu
nét hào hoa và nghệ sĩ tính:
Phan
là sĩ quan Hải quân cùng đeo đuổi theo Mỹ Khuê như tôi. Có mấy lần chạm trán
nhau tại nhà nàng. Phan đẹp trai, nhanh nhẹn, chân bước chuệnh choạng không thẳng.
Ban đầu tôi tưởng là do thói quen đi đứng ở dưới tàu bị sóng đánh chao qua
nghiêng lại. Sau vài lần nói chuyện tay ba thì tôi biết là tôi đã lầm một cách
ngây thơ. Phan khiêu vũ giỏi và đang dạy Mỹ Khuê nhảy Twist nên lúc nào anh ta cũng
như đi trong sóng nhạc. (“Con
suối mùa xuân”)
Áo kaki là thẳng
nếp và khi đi ngang qua nghe mùi xà phòng Evening in Shanghai. Hành quân tảo thanh mà trí óc phảng phất giọng
ca Lệ Thanh, Connie Francis… (“Tháng năm sương mù”)
Kể từ sau năm 1975, miền Nam đã “không còn như trước nữa” và người ta cũng
không còn đọc được những truyện ngắn như thế của Võ Hồng. Cũng dễ hiểu thôi,
nhà văn biết lấy đâu ra cảm hứng cho những truyện như thế.
Võ Hồng là một trong số rất ít nhà văn miền Nam ở trong nước vẫn còn tiếp
tục viết, đặc biệt là tác phẩm vẫn được đón nhận và yêu chuộng. Có ít nhất ba
thế hệ từng là độc giả của ông. Ngoài số độc giả cũ ở miền Nam từng đọc và từng
yêu văn Võ Hồng, còn có thêm độc giả miền Bắc và số người đọc trưởng thành sau
ngày chiến tranh kết thúc.
Những tác phẩm của Võ Hồng được xuất bản trong nước ở thời kỳ này được
ông cho biết hầu hết là những sáng tác từ trước năm 1975. Sau cái mốc thời gian
này,
hầu
hết những sáng tác của ông xoay
quanh các đề tài về văn hóa giáo dục, về tình cảm gia đình, về tình yêu quê
hương. Ông còn viết những truyện dành cho tuổi học trò và cả truyện loài vật nữa.
Điều này có thể hiểu được, thứ nhất, ông
còn biết viết gì hơn; thứ hai, là cách để một nhà văn tên tuổi của miền Nam như
ông vẫn có thể tiếp tục viết,
và hơn thế nữa, vẫn có được
một chỗ đứng vững vàng, một vị thế luôn được tôn trọng
đúng mực.
Thế giới của “nhà
văn, nhà giáo Võ Hồng” (người trong nước quen gọi ông bằng danh hiệu này,
không rõ từ bao giờ) hầu
như thu gọn trong căn gác đìu hiu của ngôi nhà số 53 đường Hồng Bàng, một con
đường nhỏ yên tĩnh nằm gần bờ biển Nha Trang. Trong
cái thế giới thu hẹp của ngôi nhà đóng kín ở thành phố ven biển ấy, ông sống lặng lẽ, khép kín, gần như tách biệt hẳn với
dòng chảy lao xao của cuộc sống bên ngoài. Với cuộc sống trầm lặng và “trong vùng rêu im lặng” (*)
ấy, ông viết nên những truyện, những
tùy bút “Một bông
hồng cho cha”, “Lời sám hối của cha”, “Nghĩ về mẹ”, “Một ngày cho mẹ”,
“Nhớ thầy cũ”, “Tay cầm viên phấn”, “Thương mái trường xưa”, “Nửa chữ cũng là thầy”, “Thơm ngát
hương cau”, “Vùng trời thơ ấu”, “Tuổi thơ ngọt ngào”...
Võ Hồng, ông làm người đi gieo những hạt mầm nhân ái trên những
trang sách ông. Ngày nào vẫn còn
những học trò nhỏ biết kính thầy
yêu bạn, những đứa con ngoan biết thảo kính cha mẹ, vẫn
có những độc giả trẻ tìm đọc những tùy bút, những truyện ngắn đầy
tính nhân bản của Võ Hồng thì ngày ấy người ta vẫn còn được chút niềm tin vào
cuộc sống, như tên một tập truyện ngắn của ông, “Niềm tin chưa mất”.
Nhà văn Võ Hồng có
cái nhìn thẳng thắn, thực tế và khá thoải mái về cuộc sống. Ông tìm kiếm những
cái tốt, cái đẹp trong mỗi con người,
mỗi
sự việc, để từ đó thấy cuộc
sống ở quanh mình dễ chịu hơn.
Ông sẵn sàng thỏa hiệp với mọi nghịch
cảnh,
như ông đã quen sống, quen làm bạn với nỗi cô đơn thường trực và tìm vui trong
cuộc sống đơn độc. Người đọc vẫn thường bắt gặp những nụ cười hóm hỉnh, nhẹ
nhàng mà thâm thúy trong những trang sách của ông.
Trong những truyện ngắn của ông, có những hy vọng nhen nhúm, rồi tắt ngúm,
rồi lại hy vọng, rồi lại thất vọng, và người ta vẫn cứ sống, và cuộc sống vẫn trôi đi từng ngày.
Võ Hồng là người thực
sự tin tưởng rằng, không có những con người xấu xí hay hoàn hảo, không có cuộc sống nơi đâu là tồi
tệ hay
tốt đẹp hoàn toàn. Đời sống không
hẳn lúc nào cũng tươi đẹp, nhưng
cũng không hẳn là bức tranh xấu xí, lem luốc. Trong những trái tim tưởng như chai cứng, vô cảm,
trên những mảnh đất tưởng như cằn
cỗi, khô cạn tình người, vẫn nở ra những
bông hoa của lòng nhân ái. Đâu
đó trong cuộc sống vẫn còn rải rác những tấm lòng.
Khi nhắc tên Võ Hồng, người đọc ngày trước
thường nhắc đến tên những truyện ngắn hơn các thể loại văn chương khác của ông.
Truyện dài của Võ Hồng ít
gây được tiếng vang, hiểu theo
nghĩa ít được người đọc tìm đến như truyện ngắn, cho dù là những công trình tâm huyết, được ông đầu tư khá nhiều
thì giờ và công sức, đặc biệt những tập truyện dài như một bộ “trường thiên
tiểu thuyết” viết về thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954. Có điều, những
truyện này lại được những người làm công tác văn hóa văn nghệ trong nước “đánh
giá cao” với dụng ý chính trị rõ rệt trong một cố gắng kéo nhà văn về phía
mình, một “nhà văn tiến bộ và dũng cảm, có những đóng góp đáng kể vào dòng văn
học yêu nước đô thị miền Nam”, như cách nói quen thuộc của một lối tuyên truyền vụng về.
Trong lúc đề cao các tác phẩm ấy, những
cán bộ văn hóa này lại không nhắc gì đến những tác phẩm, những truyện ngắn khác
của Võ Hồng, trong đó không thiếu những trang viết phơi bày thực trạng của những
thảm cảnh chiến tranh trên quê hương tội tình:
Huế trong những ngày gần đây là tượng
trưng cho những tàn phá ghê gớm, những chết chóc rùng rợn, những rên siết quằn
quại. Bao nhiêu nét thơ mộng êm đềm và vàng son lộng lẫy tạo dựng qua hàng hai,
ba thế kỷ cần cù, đã trong thoáng chốc, bị xóa nhòa để thay thế bằng những hình
ảnh tang thương. Đói. Lạnh… Hầm chôn người
được khai quật lên, người sống sót đi rảo từ hầm này sang hầm khác tìm nhận tử
thi của họ hàng. Máu. Thịt vữa. Mùi hôi thối. Thật khác xa với những hình ảnh
mà tôi vẫn giữ về Huế. Những thiếu nữ thân hình mảnh dẻ tóc xõa trên vai, e thẹn
giấu mặt dưới vành nón bài thơ. Những thiếu phụ bán đậu bán chè môi thoa son,
má đánh phấn nụ, mặc áo dài vá quàng, hai vạt áo màu tím mà đôi vai đôi tay
thay bằng vải phin trắng mỏng… (“Đôi
ngả”)
Một “thực trạng” khác, sau cuộc bể dâu năm
1975, cũng được nhà văn ghi lại như “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”:
hoạt cảnh thầy giáo già Võ Hồng được người học trò cũ ghé thăm. Cậu học trò bỏ
trường bỏ lớp biền biệt đi theo kháng chiến, nay trở về có tí chức quyền trong
“chính quyền cách mạng”. Đổi đời cũng làm… đổi thay cách xưng hô:
“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, vậy mà tôi
gặp trường hợp có người học trò cũ xưng hô với tôi bằng “anh”. Tôi hoàn toàn
không cảm thấy bị xúc phạm mà chỉ thấy thương hại cho anh ta. Rõ ràng là anh ta
có tỏ ra lúng túng khi sắp phải chọn giữa hai tiếng “thầy” và “anh”. Tôi muốn vỗ
vai thân mật an ủi: “Sao em khổ chi vậy?” Tiếng “thầy” có gì là cao giá đâu mà
em phải đắn đo, cân nhắc? Xung quanh ta thiên hạ dùng tiếng “thầy” khỏe ru mà:
thầy thuốc, thầy cúng, thầy võ, thầy phù thủy, thầy địa!... (“Nửa chữ cũng là thầy”).
Trong lúc người thầy vẫn thần thái ung dung thì cậu học trò lại lấn cấn,
ngượng ngập. Một mặt muốn “lên gân” với ông thầy, một mặt vẫn cứ “gờm” ông thầy
cũ. Anh ta ghé thăm ông thầy chỉ để tỏ ra rằng anh ta đã khác xưa, đã “trên
chân” ông thầy chứ không còn là học trò của ông nữa. Anh ta chẳng thèm nhớ gì đến
những bài học về đạo lý làm người của ông thầy giáo quèn. Anh ta không dám thốt
ra tiếng “thầy”, sợ mất thể diện trước mặt các “đồng chí” và mất cả “khí thế
cách mạng”.
Không rõ “nhà văn, nhà giáo” Võ Hồng còn phải đối đầu với bao nhiêu học
trò như thế nữa sau cuộc đổi đời đảo điên.
Võ Hồng, trong bức ảnh
chân dung nhà văn trên trang báo trong nước gần đây, ông như cội mai già,
qua bao mùa sương tuyết lạnh lùng
còn in
dấu những “vết hằn năm tháng”. (*)
Võ Hồng, ông là một trong số rất ít những mẫu người thầy giáo “classic”
hiếm hoi còn sót lại của một thời nào “tôn sư trọng đạo” đã phai tàn. Ông như
người lính già kiên cường “tử thủ” chút phần đất nhỏ nhoi còn sót lại, ra sức chống
chọi để mong vớt vát được chút gì. “Một bông hồng cho cha”, “Một ngày cho mẹ”,
“Thương mái trường xưa”, “Thơm ngát hương cau”… và còn những gì nữa, để giữ cho
những giấc mơ ngọt ngào không bao giờ tắt hẳn.
Võ Hồng, ông như một samurai
cuối cùng trên cái nền văn hóa cũ của miền Nam đã ngậm ngùi dứt áo ra đi, biết có
bao giờ còn trở lại.
Đầu xuân, đọc lại những trang sách cũ của Võ Hồng, gập cuốn sách lại, thấy
cuộc sống như dễ chịu hơn, nhẹ nhàng hơn, như bao muộn phiền được thả trôi đi trên
dòng suối mát. Một nhà văn có cái “tâm” trong sáng và nhân hậu như ông, có lẽ
cũng chỉ mong đến được như vậy.
Võ Hồng, văn chương ông là “khoảng mát” (*)
của tàn cây rợp lá, là dòng nước mát của “con suối mùa xuân” (*),
là chùm “hoa khế lưng đồi”
(*) trong câu thơ của Phạm Công Thiện, một
lần nào ghé thăm ông và trên đường về giữa cơn mưa chiều, không hiểu nghĩ ngợi
gì đã viết ra những câu thơ ấy.
Mưa
chiều thứ Bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông
Cây khế đồi cao trổ hết bông
Lê
Hữu
(*) Tên một truyện ngắn của Võ Hồng