Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2016
Phạm Xuân Ðài - Đọc “BÊN GIÒNG SÔNG HẰNG” của ENDO SHUSAKU (Viễn Đằng Chu Tác) do NGUYỄN VĂN THỰC dịch *
![]() |
Shūsaku Endō (March 27, 1923 – September 29, 1996 |
Về chủ đề đạo Công giáo trong xã
hội Nhật Bản hay một Tâm-Thức-Mới cho thời đại
Nguyên tác cuốn sách này trong
Nhật ngữ là “Thâm Hà” (Sông Sâu). Trong ngôn ngữ Hán Việt, và chắc trong Nhật
ngữ cũng thế, hai chữ thâm hà gợi một cảm tưởng mênh mông và sâu thẳm. Nguyễn
Văn Thực dịch là “Bên Giòng Sông Hằng” cũng đã rất khéo để nói lên nội dung câu
chuyện một nhóm du khách Nhật Bản đến thăm sông Hằng bên Ấn Độ, nhưng chính
người dịch cũng nhận thấy chữ “thâm hà” mới diễn tả được cái chủ đề đích thực
về tâm linh rất lớn của tác giả trong cuốn tiểu thuyết này.
Viễn Đằng Chu Tác (1923-1996) là
một trong những nhà văn Nhật Bản được độc giả Nhật và Tây phương biết đến và
yêu mến còn hơn cả Kenzaburo Oe, nhà văn Nhật đoạt giả Nobel văn chương năm
1994. Là một người theo đạo Chúa, đề tài lớn theo đuổi suốt sự nghiệp sáng tác
của ông là sự khó khăn của Kitô giáo trong tiến trình hội nhập vào tâm thức
Nhật Bản. Đề tài này manh nha từ những cuốn Người Da Trắng - Shiroi Hito và
Người Da Vàng - Kìroi Hito (viết trong thập niên 50); nhưng phải đến cuốn Sao
Chúa Mãi Im (Trầm Mặc) - Chin Muku, viết năm 1966, đề tài này mới được khai
thác một cách mãnh liệt và được xem là khá “bạo.” Chúng ta hãy lược qua tác
phẩm này, trước khi đề cập đến hậu thân lớn lao và sâu sắc của nó là cuốn Bên
Giòng Sông Hằng.
Viễn Đằng Chu Tác đã nghiên cứu
nhiều sử liệu truyền giáo của giáo hội La Mã vào thế kỷ 16 và 17 trên đất Nhật
để viết nên cuốn tiểu thuyết Sao Chúa Mãi Im (cũng đã được Nguyễn Văn Thực dịch
sang Việt ngữ, Anh Em ở Na Uy
xuất bản năm 1998), cuốn sách mà Graham Green đã phát biểu sau khi đọc xong:
“Theo tôi tác phẩm này là một trong những tác phẩm hay nhất thời đại chúng ta.”
Truyện thuật hai sự quyết tâm:
các giáo sĩ Thiên Chúa giáo trong thế kỷ 17 quyết tâm xâm nhập Nhật Bản để
truyền đạo, và nhà cầm quyền Nhật Bản quyết tâm ngăn chặn và bóp nát ý định đó.
“Sao Chúa Mãi Im” là câu tán thán của vị giáo sĩ trong cơn bách hại, đối diện với bao nỗi khốn khó đau
đớn trong cô đơn. Thiên Chúa giáo bắt đầu được truyền vào đất Nhật từ giữa thế
kỷ 16, lúc đầu gặp nhiều thuận lợi vì các tướng quân đều muốn o bế các thương thuyền
Bồ Đào Nha, và do đó thân thiện với các vị thừa sai, để đem lại lợi nhuận cho
mình. Theo tài liệu các thừa sai viết đầu thế kỷ 17 thì con số giáo dân lúc cao
nhất lên đến 250,000 người. Tuy nhiên, trong tiền bán thế kỷ 17, các tướng quân
bắt đầu cấm đạo, vì những lý do, ví dụ theo sắc lệnh của tướng quân Gia Khang:
...gieo rắc tà đạo, phỉ báng chính đạo, có âm mưu chống lại phép nước và xâm
chiếm lãnh thổ...
Bìa
sau của cuốn Sao Chúa Mãi Im
Cuộc bách hại vô cùng tàn khốc và hiểm độc, đã khiến một số các thừa sai bỏ đạo, trong đó có linh mục giáo sư Ferreira, từng hoạt động ở Nhật trong hai mươi năm với chức Giám tỉnh dòng Tên ở đó, đại diện tối cao của dòng Tên, có nhiệm vụ cai quản các linh mục dưới quyền và chăn dắt các bổn đạo Nhật thời ấy. Ông bỏ đạo, lấy vợ người Nhật, có tên Nhật và sống luôn tại đất Nhật, một sự kiện mà giáo hội La Mã không tưởng tượng nổi.
Và vì thế mới có câu chuyện này.
Vào năm 1635 ở La Mã một nhóm gồm năm linh mục tìm cách rửa hờn cho mối nhục bỏ
đạo mà cha Ferreira đã gây nên, đã cùng nhau vạch một kế hoạch truyền giáo tại
Nhật, ngay cả trong thời kỳ bách hại dữ dội nhất. Cuối cùng có ba giáo sĩ được
cử thực hiện công tác này, cả ba đều là học trò cũ môn Thần học của cha
Ferreira. Sau bao nhiêu khó khăn, hai trong ba người đã xâm nhập được vào đất
Nhật, bắt liên lạc được với một họ đạo và được che dấu để hoạt động. Nhưng với
sự kiểm soát dân chúng rất chặt chẽ của các sứ quân, cuối cùng tất cả, giáo dân
cùng linh mục, đều bị bắt. Một vị đã phóng xuống biển chết theo các giáo dân bị
nhận nước. Vị còn lại, sau bao ngày giam cầm, đấu tranh với bản thân và với các
mưu mô của nhà cầm quyền để dẫn dụ việc bỏ đạo, cuối
cùng cũng đã phải chịu thua, chấp nhận đạp lên ảnh Chúa. Và mọi chuyện lại được
lặp lại: lấy vợ Nhật, đổi tên Nhật, thậm chí có cả pháp danh Phật giáo, cho đến
khi chết lại được hỏa thiêu ở chùa.
Cực hình không hề khuất phục được
các vị đó. Tổng đốc Tỉnh Thượng đã nghĩ ra một cách bắt các vị phải chịu thua:
chứng kiến giáo dân của quý vị đang bị cực hình và hành hình. Một lý lẽ rất đơn
giản được đưa ra: vì quý vị vào xứ này truyền đạo nên mới có giáo dân, và giáo
dân phải bị trừng trị theo luật lệ. Nếu đạo của quý vị là bác ái, quý vị hãy
hành xử để cứu những con người ấy: chỉ cần quý vị làm một cử chỉ bỏ đạo, các
giáo dân sẽ được tự do. Vị linh mục buộc phải chọn lựa giữa con người cụ thể và
những nhân danh trừu tượng, và giữa cơn
giằng xé, phải thốt lên trong tâm tưởng: Nhưng con biết, Đức Chúa Trời mà Giáo
hội dạy, khác với Đức Chúa Trời của con.
Sự đối đầu ghê gớm giữa nhà cầm
quyền Nhật Bản và các nhà truyền giáo diễn ra âm thầm, khốc liệt, tài năng tiểu
thuyết của tác giả Endo Shusaku đã tạo dựng lại, có lẽ dựa rất sát vào các tài
liệu thu lượm được, những trang lịch sử bi tráng, lớn lao. Chính trị, đức tin, lòng tàn bạo hiểm độc,
sự hy sinh vì lý tưởng cao cả đã đối chọi, cọ xát nhau, nhưng tia lửa bật ra,
cao điểm của truyện, vẫn là sự thắng thế của tình yêu thương con người. Đó là
cái thắng trong cái thua của những vị linh mục. Ngẫm ra không khác quan niệm của người Việt Nam:
Dù xây chín bực phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một
người
Có lẽ đó là tất cả ẩn ý của tác
giả Endo Shusaku khi dựng lại sự đụng độ của hai sức mạnh thế quyền và thần
quyền trên đất Nhật vào thế kỷ 17. Chỉ trong tình huống cực kỳ bi đát trong
cuộc đời truyền giáo của mình, vị linh mục mới nhận thức ra được rằng bao
nhiêu bực phù đồ của thần quyền
cũng không thể bằng sự làm phúc cứu những con người thảm thương ra khỏi trận
hành hình. Chính trong giây phút ấy vị linh mục cảm nhận sự thông cảm hoàn toàn
với “một Đức Chúa Trời của riêng mình.”
Trong Sao Chúa Mãi Im, tác giả đã
nhờ những trang lịch sử để đưa ra sự đụng chạm mãnh liệt giữa nước Nhật và giáo
hội Thiên Chúa giáo. Đằng sau hai thế lực có tính cách “đời” ấy phải là hai sức
mạnh khác, tiềm ẩn hơn, đã ám ảnh tác giả và đã làm thành chủ đề chính suốt
cuộc đời sáng tác của ông. Đó là cái tinh túy của tinh thần Nhật Bản và tinh
thần Thiên Chúa giáo, cả hai ông đều hiểu rõ với tư cách vừa một công dân Nhật
mang trong mình truyền thống ngàn đời của đất nước, vừa là một người Công giáo.
Có lẽ nhiều lần trong tâm hồn tác giả đã vang lên câu hỏi: Những cái tinh túy
trong tinh thần của những nền văn hóa khác nhau trên quả đất này, rốt cuộc vẫn
không khác gì nhau, thế thì tại sao trong lịch sử đã và đang diễn ra những bi
kịch ghê gớm làm điêu đứng bao nhiêu con người? Những cái nhân danh nọ kia có
đáng cho bao nhiêu điều bi thảm như thế xảy ra hay không? Đâu là mẫu số chung
cho tâm hồn tất cả chúng ta, trong đó những loại đức tin khác nhau có thể hòa
lẫn vào nhau như bao nhánh sông đều chảy vào một dòng sông cái?
Có lẽ Bên Giòng Sông Hằng đã được
thành hình trong một khắc khoải như thế nơi Endo Shusaku. Ông đã đi chọn một
hình ảnh đặc trưng về tâm linh là dòng sông Hằng của Ấn Độ để làm nơi hòa giải cho
những xung đột nơi chính ông — hay là những nhân vật Nhật Bản của ông cũng thế
—, coi dòng sông như một người trọng tài mà ông tin có đủ uy tín và đức độ để
bao dung những khác biệt. Trong xứ Ấn Độ quê hương thăm thẳm của bao vấn đề tâm
linh của nhân loại, dòng sông Hằng là một tượng trưng chứa đựng trong lòng nó
những sạch và dơ, đau khổ và giải thoát, đã được nhiều người mệnh danh là dòng
sông thiêng có khả năng làm êm dịu đi, nếu không nói là giải quyết, những khắc
khoải của kiếp người. Nhiều cây bút trên thế giới đã tìm nó, viện dẫn nó, kể cả
những nhà thơ Việt Nam.
Đón em suốt
bãi sông Hằng
Cát muôn kiếp mải nhớ lần gặp xưa
Cát muôn kiếp mải nhớ lần gặp xưa
Tô Thùy Yên
Mặt trời
thức dậy trên sông Hằng
ngày đầu
tiên một thiên niên kỷ mới
mặt sông rực
rỡ ánh bình minh
lòng sông
sâu thẳm
chuyên chở
kiếp nhân sinh
...
Người về đây
làm hạt bụi ban sơ
chìm vào bát
ngát
Ngàn vạn năm
qua
Dòng sông
chảy mãi
Hạt bụi còn
là
Khánh Hà
Nhưng không ai quy tụ về đây
nhiều câu chuyện, nhiều vấn đề như tác giả Viễn Đằng Chu Tác. Mỗi nhân vật của
ông có một câu chuyện riêng, xảy ra tại Nhật Bản, tại Mãn Châu, trên đất Pháp,
trong rừng già Miến Điện... độc lập với nhau, nhưng tất cả gặp nhau trong một
chuyến du lịch từ Nhật sang Ấn Độ để đến với dòng sông Hằng, và hình như được
nối kết lại trước dòng sông thiêng cuộn chảy.
Trước hết là câu chuyện của cô Mỹ
Tân Tử và anh chàng Đại Tân, được xem như hai nhân vật chính trong cả cuốn
truyện. Chàng là một thanh niên thật thà, mộ đạo, làm ngứa mắt cô bạn sinh viên
rất tân thời Mỹ Tân Tử, và nàng quyết định quyến rũ chàng làm người tình của
mình để “phá” chơi. Con người thật thà ấy sa vào bẫy tình thật, nhưng trò chơi
của Mỹ Tân Tử sớm kết thúc để cô nàng còn... đi lấy chồng, và Đại Tân, tỉnh cơn
mộng tình, đi tu linh mục tại một nhà dòng mãi tận tỉnh Lyon bên Pháp.
Kế đến là “trường hợp của ông Cơ
Biên.” Vợ ông mất vì bịnh ung thư, nhưng trước khi chết đã trối trăn cùng ông:
“Em... biết chắc... em sẽ được tái sinh ở một nơi nào đó trong thế giới nầy. Mình
nhớ đi kiếm em... gặp em... Mình hứa đi! Mình hứa đi mình!”
Trường hợp ông Chiểu Điền là một
nhà văn viết cho nhi đồng, một người từ nhỏ đã yêu súc vật, và suốt đời viết
văn của ông, các con chim nuôi trong nhà đã là những người bạn tâm sự của ông.
Cho đến khi bệnh nặng, phải mổ, các con vật vẫn hiện diện bên cạnh ông, và ông
nghĩ chúng đã cứu mạng ông...
Ông Mộc Khẩu lại là một trường hợp
có liên quan đến đại chiến thế giới thứ hai, khi ông là một người lính Nhật bại
trận trong rừng già Miến Điện, đã phải ăn thịt đồng đội để sống còn. Và nhiều chục
năm sau, đó vẫn là một ám ảnh không nguôi trong tâm trí ông.
Cô Mỹ Tân Tử, ông Cơ Biên, ông
Chiểu Điền, ông Mộc Khẩu cùng nhau đi thăm Ấn Độ trong một chuyến do hãng du
lịch tổ chức. Mỗi người một tâm trạng, một mục đích thầm kín riêng và phản ứng
mỗi người một cách trước xứ Ấn Độ nghèo mà huyền bí. Ông Cơ Biên theo đuổi một
mục tiêu mơ hồ là tìm người mà có thể vợ ông đã đầu thai,
nhưng làm sao tìm cho ra? Nhưng
người gặp chuyện không ngờ nhất chính là cô Mỹ Tân Tử: cô đã gặp Đại Tân ở Ấn
Độ. Chính trường hợp Đại Tân và sự kiện mọi người tập hợp nhau bên bờ con sông
thiêng mới là chủ đề chính được tác giả ấp ủ.
Trong tác phẩm Sao Chúa Mãi Im,
những khó khăn trong sự hội nhập của Kitô giáo vào Nhật Bản cách đây ba bốn thế
kỷ là do nguyên do chính trị, lịch sử, còn bây giờ, với Bên Giòng Sông Hằng, sự
khó khăn ấy vẫn còn, nhưng hoàn toàn do tính-cách-nhật-bản của người Nhật, mà
đại diện là anh chàng Đại Tân thiệt thà, chân chất qua tận Pháp để tu thành
linh mục. Hãy nghe một vài đoạn đối thoại, Đại Tân tâm sự với Mỹ Tân Tử khi hai
người gặp nhau tại Lyon, nơi Đại Tân đang tu.
- Tôi ở đây đã ba năm rồi. Đã quá
chán cái lề thói suy nghĩ của người nước này. Lề lối suy nghĩ, mà họ bóp méo vê
tròn làm sao cho thích hợp với ý muốn của họ, thật là nặng nề với một người có
não trạng Á đông như tôi. Tôi không thể hòa đồng được. Ngày nào cũng như ngày
nấy, cứ bứt rứt vì những chuyện như thế. Khi tôi trình bày những chuyện như thế
với các thầy cùng lớp và với các cha
giáo, họ nhắc nhở cho tôi biết rằng đã là chân lý thì không còn phân biệt chân
lý của người Tây phương hay Đông phương. Họ cho là, chẳng qua vì tôi bị chứng
loạn thần kinh chức năng, bị ẩn ức mặc cảm gì đó.
... Tôi không thể phân biệt
Thiện, Ác rạch ròi như những người ở đây được. Tôi nghĩ là trong Thiện có Ác
mai phục, trong Ác có Thiện nằm vùng. Có thế Chúa mới dùng ngón ảo thuật của
Ngài được. Mặc dù tôi là kẻ tội lỗi, Ngài cũng đã uốn nắn tôi, đưa tôi vào đường
cứu rỗi.
... Đối với Giáo hội, tư tưởng
của tôi là tư tưởng rối đạo. Tôi đã từng bị quở trách như thế. Cô đừng nên tách
biệt, phân biệt cho ra đầu ra đuôi bất cứ cái gì. Chúa thì không như thế.
... Trong dòng, họ vẫn cho tôi là
kẻ có khuynh hướng rối đạo, nhưng vẫn chưa đuổi tôi ra khỏi tu viện. Có điều là
tôi không thể lừa dối với chính mình được. Sẽ có ngày tôi trở về Nhật Bản - tôi
sẽ đào sâu suy tư về một Kitô giáo ứng hợp với tâm thức Nhật Bản.
Có một sự không đồng nhất, không
hài hòa giữa đức tin của Đại Tân và cái hệ thống mà anh đang ở trong để thể
hiện lòng tin ấy. Chàng cảm thấy Tình Thương đích thực rộng lớn hơn bất cứ
khuôn khổ tổ chức nào, giống như vị linh mục trong Sao Chúa Mãi Im đã thốt lên
trong cơn bách hại: “Nhưng con biết, Đức Chúa Trời mà Giáo hội dạy, khác với
Đức Chúa Trời của con.” Chính vì thế, Đại Tân đã đi Ấn Độ, và đã hành xử không
theo tư thế của một linh mục Công giáo dù lúc bấy giờ chàng đã là linh mục.
Chàng sống như một tiện dân Ấn, đến với các tiện dân khác, và nhất là chuyên đi
thu nhặt các xác chết vô thừa nhận để mang đến bãi hỏa thiêu trên bờ sông Hằng.
”Nếu Người ấy trú ngụ trong thành
phố này, tôi tin là Người cũng sẽ cõng những người gục chết đó đến bãi hỏa
táng, giống như Người đã từng vác thập tự giá vậy.”
Đó là lời Đại Tân nói với Mỹ Tân
Tử khi hai người gặp nhau lại tại Ấn Độ, nơi cái thành phố có dòng sông Hằng
chảy qua. Tại đây ông linh mục người Nhật ấy đã bị nhà thờ của tôn giáo ông xua
đuổi, và nếu không giả trang thành kẻ tiện dân để làm những điều ông thấy cần
làm thì chính người Bà La Môn cũng sẽ xua đuổi ông nữa, vì Ấn giáo tuyệt đối
cấm những người khác tôn giáo đi vào bãi hỏa táng của họ. Ông đã thể hiện Tình
Thương theo cách của ông, tâm thức ông trực tiếp hòa nhập với một tâm linh rộng
lớn không cần thông qua một giáo hội, một tổ chức, một luật lệ do con người đặt
ra, những thứ không sớm thì muộn cũng sẽ trói buộc, xiềng xích, điều kiện hóa
những Đức Tin bao la phơi phới nơi những người như ông.
Endo Shusaku với Bên Giòng Sông
Hằng đã đưa đến tột đỉnh chủ đề mà ông cưu mang suốt cuộc đời viết văn của ông,
chính trong tác phẩm này người ta mới thấy được thị kiến về một TÂM-THỨC-MỚI
chuyên chở được muôn dòng sông tư tưởng và tôn giáo. Với một nội dung linh
hoạt, hấp dẫn, rất thời đại, ông đã thành công đưa ra một vấn đề muôn thuở, mà
có lẽ hơn lúc nào hết con người của thời đại này phải lo vun đắp, đó là Tâm Linh
nơi mỗi chúng ta.
* Bên Giòng Sông Hằng,
Endo Shusaku, Nguyễn Văn Thực dịch, Thế Kỷ xuất bản năm 2000.
_
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Phạm Phú Minh đã nhìn ra được sợi chỉ đỏ xuyên suốt hai tác phẩm, hay nói cách khác, nhìn ra tiến trình tư tưởng của Endo Shusaku từ Sao Chúa Mãi Im đến Bên Giòng Sông Hằng. Chưa phê bình gia nào thấu thị tới mức này. Bạn nào ở Nhật và giỏi tiếng Nhật, dịch bài này gởi cho báo Nhật, chắc độc giả Nhật sẽ rất ngạc nhiên thú vị.
Trả lờiXóaNhân đây xin đính chính:
Trả lờiXóaNơi trang 91 của tác phẩm BGSHằng có câu: ”Tuy chỉ mới thấy phong cảnh Landes lần đầu…”
Chữ ”Landes” trong nguyên bản viết là ”randon chihò (chihò: địa phương)”. Tôi đã dịch sai, vì lande (không phải Landes) được phiên âm ra thành randon (ranđồn) từ lande (tiếng Pháp); và từ này có nghĩa là vùng đất hoang có những bụi cây thấp, mà Đào Đăng Vĩ dịch là truông, là đồng hoang. Do đó, câu trên sẽ thành ”Tuy chỉ mới thấy truông lần đầu…”
PS: Người Nhật không đọc được âm ”l”, nên phải đọc âm ”l” thành âm ”r”.