Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2016
Phạm Thảo Nguyên - Thơ chữ Hán Nguyễn Du: Nguyễn Du, Người Tráng Sĩ
Trích đoạn bài Nguyễn Du Cuộc Đời Trong Thơ
Thuở Trời Đất Nổi Cơn Gió
Bụi
Năm 1786 dưới triều Lê Trịnh,Nguyễn Du đã đỗ tú tài, chưa thành danh, lên Thái Nguyên tập ấm chức quan võ Chánh thủ hiệu quân hùng hậu hiệu, từ người cha nuôi họ Hà mới mất. Cùng
năm, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất, diệt Trịnh, trả ngôi lại
cho vua Lê Cảnh Hưng. Cả nước chưa bị loạn lạc, triều đình nhà Lê vẫn còn, chỉ những cận thần tâm phúc của
chúa Trịnh như Nguyễn Khản, Nguyễn Điều... bỏ chạy. Còn những quan nhỏ như Nguyễn Du,
lại ở xa tận Thái Nguyên, chưa chắc bị ảnh hưởng. Sau đó Thăng Long
còn hân hoan cử hành lễ cưới công chủa Ngọc Hân, được vua cha gả cho Nguyễn Huệ. Khi vua Cảnh Hưng già mất đi,
cháu nội lên làm vua là Lê Chiêu Thống, ông vua này xin cầu viện nhà Thanh
1788. Và tới mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789
vua Quang Trung đại phá quân Thanh tại Đống Đa thì khác hẳn. Đó là một trận đại chiến long trời lở đất, quân Thanh đại
bại, bỏ chạy về Tầu, vua Lê Chiêu Thống và vài cận thần lúp súp chạy theo. Nhà Lê sụp đổ Nước nhà đổi
chủ. Nhà Tây Sơn trị vì.
Nguyễn Du cùng một số quan lại nhà Lê không muốn hợp tác với Tây Sơn, bỏ trốn sợ bị
truy đuổi. Đó là cái mốc rất quan trọng trong đời thi sĩ: Đang là quan lại nhà
Lê, dòng dõi đại thần đầu triều, thành kẻ không nhà phiêu bạt, đói rét
cô đơn. Ông nghèo đói tới nỗi phải nhận lòng thương hại của
người đời trong bài Khất Thực (Xin Ăn):
Cơ hàn bất
giác thụ nhân liên…
Đói rét bất ngờ nhận của cho…
Thoạt đầu Nguyễn Du rời bỏ kinh kỳ chạy về phía nam. Là một cậu chiêu (tên gọi con đại thần nhà Lê) nổi
tiếng văn học, thi sĩ chế nhạo mình là người rừng, khi trốn chui trốn lủi trong núi sâu rừng thẳm, dấu gốc tích, lập vườn
thuốc trong bài thơ Sơn Cư Mạn Hứng, (Sống Trong Núi Cảm Hứng):
Nam khứ Trường An thiên lý dư
Quần phong
thâm xứ dã nhân cư
Sài môn trú
tĩnh sơn vân bế
Dược phố xuân
hàn lũng trúc sơ…
Nam hướng kinh
thành ngàn dậm dư
Người rừng sống giữa núi thâm u
Ngày yên cửa
trúc mây ngàn phủ
Xuân lạnh dậu
tre vườn thuốc thưa…
Trong lòng lo
lắng cho các anh chị em nơi quê nhà:
Cố hương đệ muội
âm hao tuyệt
Bất kiến bình
an nhất chỉ thư
Các em quê cũ
bặt tin tức
Chẳng thấy bình an chẳng
được thư.
Xưa nay các nhà biên khảo
đều cho rằng sau khi vua Quang Trung phá tan giặc Thanh tại Đống Đa 1789, vua Lê chạy sang Tầu,
Nguyễn Du không theo kịp, đã về Quỳnh Côi quê vợ ngay. Tuy nhiên, học
giả Đào Duy Anh trong Thơ Chữ
Hán Nguyễn Du, trang 373 (1) chú thích bài thơ
trên: Không rõ lúc này Nguyễn
Du ở đâu mà vừa xa Thăng Long vừa xa quê hương.
Đúng vậy, bài thơ
này cho thấy Nguyễn Du xa quê, xa Thăng Long, hơn nữa còn xác nhận không phải thi nhân đang ở Quỳnh Côi, quê vợ, châu thổ sông Hồng,
đất bồi bằng phẳng bên bờ biển, mà đang lẩn trốn trong núi sâu phía nam. Những bài viết khác cùng
thời cũng tỏ ra là ông sống một mình cô đơn giữa những người xa lạ, như bài U Cư nói về tâm lý căng thẳng, phải tập
nuôi cái vụng dại (vờ vụng dại), giữ ý, e ngại người, đề phòng bị lộ thân thế:
Tha hương dưỡng
chuyết sơ phòng tục
Loạn thế toàn sinh cửu uý nhân…
Xa quê, nuôi dại
đề phòng tục,
Thời loạn sống còn, e ngại người…
Bài Bất Mị viết về đời sống trốn tránh nghèo khó một mình có quá nhiều đau khổ, thi
sĩ nghe tiếng chầy đập vải huỳnh huỵch nặng nề vẳng lên trong đêm khuya, hiện thực như tiếng chân của cái
lạnh, nó thật quá, từng bước từng bước tiến gần người đói rét:
Bất mị thính
hàn canh
Hàn canh bất
khẳng tận
Quan san dẫn mộng
trường
Chiêm chử thôi
hàn cận…
Mất ngủ nghe lạnh
trống canh
Lạnh hoài chẳng
hết trống canh chẳng tàn
Quan san dẫn mộng
ngút ngàn
Tiếng chày giục lạnh, lạnh càng gần thêm.
Nỗi niềm đau khổ như sâu
bọ, ẩn nấp trong góc sâu kín, nay ùa ra đầy đàn, bò lổm ngổm trong bếp nghèo
hoang lạnh, nào giun, nào dế, nào ếch, nào nhái:
Phế táo tụ hà
ma
Thâm đường xuất
khâu dận
Bếp vắng ếch nhái họp đêm
Góc sâu giun dế bò lên nhà ngoài…
Cùng với nỗi
đau tiếc nuối nước non nhà Lê vừa mất, bài Thu Dạ II:
Thiên lý giang
sơn tần trướng vọng
Tứ thời yên cảnh
độc trầm ngâm
Ngàn dậm giang sơn hoài tưởng nhớ
Bốn mùa sương khói ngậm ngùi đau.
Uất hận đầy lòng, thi
nhân muốn theo cách Khuất Nguyên “Hỏi trời” cho ra nhẽ. (Bất Mị). Nhưng tội nghiệp thay,
làm gì có ông trời nào mà hỏi! Nguyễn Du hiểu điều đó rõ ràng, chắc chắn như một
khoa học gia hiện đại, đưa mắt nhìn thẳng lên trời dõng dạc:
Thiên cao hà xứ
vấn?
Trời cao thăm thẳm hỏi nơi chốn
nào?
Luân lạc giang hồ:
Thế rồi, Nguyễn Du bỏ núi
sâu, ra sống giang hồ một mình trên sông nước, bãi bờ lau sậy, dưới một mái
tranh, hay trên chiếc thuyền nan nhỏ bé manh động dễ ẩn nấp, như Nguyễn Trãi
xưa. Nhưng Nguyễn Trãi viết nhiều thơ, bầy tỏ nhiều cảm xúc, về những đêm đậu thuyền cửa
biển. Còn Nguyễn Du trái lại, không biết vô tình hay hữu ý, không viết gì về những
xúc động thi sĩ với phong cảnh và đời sống
sông hồ, như muốn dấu đi, làm mờ nhạt đời sống này đi, đến nỗi người đời gần
như không biết đến, không để ý tới (vì an ninh chăng?). Tuy nhiên chỉ vớivài câu thơ nho nhỏ
mô tả tâm sự u uất trong hoàn cảnh luân lạc, thi tài vẫn làm người đọc xúc động
thâm sâu. Bài Mạn Hứng:
Lữ thực giang
tân hựu hải tân…
Bến sông, bãi
biển mãi ăn nhờ…
Rồi Xuân Dạ:
Giang hồ bệnh
đáo kinh thời cữu
Phong vũ xuân
tuỳ nhất dạ thâm…
Giang hồ bệnh
ám dây dưa mãi
Mưa gió theo xuân xuyên
thấu đêm…
Sống giang hồ dễ kiếm ăn,
dễ tránh tai mắt Tây Sơn, dễ liên lạc với anh em bạn hữu. Thực vậy, Nguyễn Du gập lại được Nguyễn Đại Lang, (Đại Lang = “anh
lớn”, dấu tên thật), một người thân xưa. Thi sĩ viết hai bài thơ
tình cảm sâu nặng tuyệt vời về những lần anh
Nguyễn tới thăm và những lưu luyến khi anh từ giã.
Bài thứ nhất Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang (Điều Còn Lại Sau Khi Anh Nguyễn từ Biệt) phác hoạ vài nét chấm phá về buổi gập lại anh Nguyễn
nơi rừng liễu: Uống rượu, tâm sự tới khuya. Vậy chắc anh phải thân thiết với
thi nhân lắm nên vừa gập nhau là chuyện trò thâu canh. Hơn nữa còn dám thổ lộ câu chia gan sẻ ruột “nam nhi
tu đối kiếm”, về nỗi lòngđau đớn không chịu
khuất phục Tây Sơn:
Tây phong quy
tụ liễu cao lâm
Khuynh tận ly
bôi thoại dạ thâm
Loạn thế nam nhi tu đối kiếm…
Rừng dương tay
áo gió lùa bay
Chén biệt cạn
đêm tâm sự đầy
Thời loạn thân
trai nhìn kiếm thẹn
Đó chính là Nguyễn Du nhận trách nhiệm của một vị quan võ, hổ thẹn
cho mình và cho cả quân đội triều Lê, chưa đánh đã thua trận Đống Đa. Thăng
Long bay mất ngay trước mũi, nhanh như một tiếng sét! Đưa tới việc nhà Lê sụp đổ, và thi sĩ lo việc nước! Tâm sự phù Lê giữa thời Tây Sơn này, ăn sâu trong lòng thi sĩ, như kim
trong bọc, dấu không nổi, tự nó chui ra trong thơ. Thi sĩ phải viết thêm hai ý
“bằng hữu” và “Cao sơn lưu thuỷ” (tiếng đàn tri kỷ của đôi Bá Nha, Tử Kỳ) quy
Nguyễn Đại Lang vào loại “bạn”, để che đậy cho mình và những “anh Nguyễn” ruột thịt của mình,
khỏi bị nghi là kẻ chống đối nhà cầm quyền Tây Sơn:
Cao sơn lưu thuỷ vô nhân thức…
Tha hương bằng hữu trọng phân tâm
Non cao nước
chảy không người hiểu
Quê người bạn hữu
xót chia tay.
Vì vậy trong bài
thơ này, “anh Nguyễn” được viết không như một người nhất định nào, mà tượng
trưng cho một số bạn hữu, anh em Nguyễn Du, mang lý tưởng “cần vương” tuy không còn tin tưởng
gì ở vua Lê, thờ chúa Trịnh nhưng Trịnh không còn, muốn phản Tây Sơn nhưng dân
chúng không theo vì đã quá
ngán chiến tranh... Khi anh Nguyễn từ biệt, biết bao thương nhớ: Chỉ còn lại vầng
trăng đêm chiếu rọi hai tấm lòng người phía “nam sông” (cùng “giang bắc”, “giang nam” là hai
“địa danh” được viết ra trong suốt thời
kỳ này):
Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt
Dạ lai thường
chiếu lưỡng nhân tâm
Còn mảnh trăng
khuya vòi vọi chiếu
Tấm lòng hai kẻ bến nam này
Bài thứ hai là Biệt Nguyễn Đại Lang gồm ba khổ thơ về ba lần tiễn anh Nguyễn trên
sông, trong tình thế mỗi ngày mỗi nguy hiểm hơn. Ngay từ cái tên, chữ “Biệt” đã có ý vĩnh
biệt, đi biệt, đi không bao giờ trở lại. Ý thơ toàn bài sâu lắng, đậm đặc cảm xúc:
Khổ1. Lần tiễn đưa thứ 1:
Ngã thả phù giang khứ
Tống quân quy cố khâu…
Tôi theo sông lênh đênh
Tiễn anh về núi cũ…
Câu 1: Ngã thả phù giang
khứ: Chỉ một câu thơ 5 chữ đặc biệt này, với hai chữ
“thả” và “phù” tuyệt chiêu (thả= buông thả, buông trôi; phù= bồng bềnh, trôi nổi; phù giang khứ = phù
giang + phù khứ), thi hào nói được
hết hoàn cảnh và tâm trạng của mình, của người phiêu bạt trên sông không bến đỗ: Tôi buông theo dòng sông lênh đênh mà đi, chuyến đi, hay đời tôi, lênh
đênh vô định.
Câu 2: Tiễn anh về núi cũ. Núi cũ (cố khâu) hai chữ thật nặng tình, chỉ ngọn núi thân yêu cũ của cả hai người (phải
chăng là Hồng Lĩnh?).
4 câu sau: lúc này Tây
Sơn vừa phá xong giặc Thanh, nước
nhà mới tạm yên: trên bờ, người có nơi trú ẩn, dưới
nước, cá được tung tăng bơi lội,
hươu nai nhẩn nha đi lại trong núi sâu:
Càn khôn dư thảo
ốc
Phong vũ túc
cô chu
Thu dạ ngư long trập
Thâm sơn mi lộc
du
Đất trời còn mái tranh
Gió mưa ẩn
thuyền lá
Đêm thu cá lặn
bơi
Núi sâu nai thong thả
Chàng quan võ trẻ còn quá
non nớt,thiếu hiểu biết về tình hình chính trị, quân sự, nhất là về sức mạnh của
Tây Sơn lúc đó, nên nức lòng hy vọng
gập lại anh Nguyễn ở Trung Châu, nơi giữa nước (nếu chiếm lại được Thăng Long!):
Hưu kỳ bất thậm
viễn
Tương kiến tại
Trung Châu
Ngày vui chẳng
lâu nữa
Trung Châu ta gập ta.
Khổ 2: Lần đưa tiễn
thứ 2:
Tống quân quy cố
khâu
Ngã diệc phù
giang hán…
Tiễn anh về núi
cũ
Tôi,
lãng tử nước mây
Câu 1: Lập lại câu 2 của
khổ 1, “tiễn anh về núi cũ” thắm đậm tình thân thiết.
Câu 2: Còn tôi là kẻ lang thang trên dòng sông vô định
(hán = một người hảo hán).
Tình cảm giữa hai người rất dung dị mà sâu đậm, được lột tả bằng hai
từ rất giản dị mà sâu xa: “nhất Tâm” (một lòng) vừa nói về lòng thương nhau
không thay đổi, và cả lòng trung với nhà Lê của hai người không bao giờ lay
chuyển, trong hai câu:
Thiên lý bất
tương văn
Nhất tâm vị
thường gián
Ngàn dậm không
nghe tiếng
Một lòng không hề thay
Vào giai đoạn thứ 2 này, nhà Tây Sơn sau những bận rộn
về đại thắng Đống Đa 1789, đã có thời
gian tổ chức bộ máy chính trị, quân sự. Việc đàn áp những người chống đối có hiệu quả rõ rệt, buộc họ phải chạy dạt đi, tan tác
như bầy chim vỡ đàn bay tứ tán:
Dạ hắc sài hổ
kiêu
Nguyệt minh hồng
nhạn tán
Đêm tối hổ gầm
thét
Trăng sáng nhạn xé bầy*
Cho nên:
Lưỡng địa các
tương vương
Phù vân ưng bất đoạn
Hai nơi cùng
mong nhớ,
Đừng ngừng trôi, hỡi mây!
Tứ thơ mới mẻ lạ thường.
Do quá thương nhớ, lo sợ anh Nguyễn gập nguy biến, và chỉ có mây là nguồn lưu chuyển duy nhất, hai người cùng nhìn được
để thương nhớ nhau, nên thi sĩ hết lòng mong
cầu việc dĩ nhiên nhất trên đời “Xin mây đừng ngừng trôi”, để có cảm tưởng anh Nguyễn đang yên ổn. Tình cảm giữa anh em bạn bè của cổ
nhân thường rất đằm thắm sâu nặng, hơn cả tình yêu.
Khổ 3: Sau mỗi lần gập nhau, anh Nguyễn đều trở về “núi cũ”. Lần tiễn đưa quan trọng
trong khổ 3 này viết gọn hơn: “quân quy” (“anh về”, phải chăng là về quê hương?).
Đây là thời điểm nguy hiểm nhất của việc cần vương: Giữa thời Tây Sơn hưng thịnh,
dân hai nước Việt và Tầu đều quá ngán sợ chiến tranh, chỉ còn một số cựu thần
nhà Lê muốn chống Tây Sơn, để “ rửa hận nam nhi”. Nguyễn Du khi viết bài này (vài
năm sau 1789) đã hiểu nổi dậy là vô ích,
biết việc cần vương đã tới bước đường cùng. Lời thơ nói tới “sống chết”, tới “còn mất”, chỉ còn nghĩa khí,
tình thâm đọng lại, chia sẻ cùng nhau:
Quân quy ngã
diệc khứ
Các tại loạn
ly trung
Sinh tử giao tình tại
Tồn vong khổ tiết đồng
Anh về, tôi cũng đi
Giữa cõi đời loạn ly
Sống chết tình ở lại
Được mất nghĩa cùng chia
Cảnh đưa tiễn cuối cùng hật bi hùng, đơn sơ cô đọng
như cổ thi, đi tới cái đơn giản tuyệt vời của mỹ cảm: “Tấm cửa liếp mở ra nguyên một đêm trăng, đưa
người nón rách ra đi trong gió thu”:
Sài môn khai dạ
nguyệt
Tàn lạp tẩu thu phong
Cửa mở đêm trăng
sáng
Gió thu nón rách đi
Phần kết buồn thăm thẳm:
Cả bầu trời mịt mù u ám! Anh Nguyễn đã “một đi”. Có bao giờ trở lại?:
Thiên lý bất
tương kiến
Phù vân mê thái không
Ngàn dậm,
không thấy nữa
Bầu trời mờ mây che.
Vậy thì anh Nguyễn là ai?
Tình thương giữa
anh Nguyễn và thi nhân quả là
rất sâu xa thắm thiết, thắt chặt trong hai bài thơ. Nhìn kỹ lại, Nguyễn Đại
Lang có những tính chất tương tự như Nguyễn Quýnh, người anh bạc mệnh của Nguyễn Du. Thực
vậy:
Nguyễn Quýnh (1759-1791),
còn có tên là Luyện, thọ ấm Mai Nhạc Bá, đỗ tú tài năm 1779, năm 1787 giữ chức
quản trấn Tả Đội triều Lê. Hai năm sau khi nhà Lê mất, 1791, Nguyễn Quýnh, cùng
nghĩa sĩ Nghệ Tĩnh nổi dậy chốmg Tây Sơn. Bị hiệp trấn Nguyễn Quang
Dũng vây ráp phóng hoả đốt làng Tiên Điền, Nguyễn Quýnh bị bắt, không chịu khuất phục nên bị giết (2). Tiên Điền bị san bằng để trừng phạt. Nay người làng
còn thuật chuyện quân Tây Sơn lấy mỡ
lợn tưới lên dinh cơ họ Nguyễn để đốt cho hết.
Trong bài thơ Bát Muộn, Nguyễn
Du kể lại việc nhận được thư
báo tin quê. Thi sĩ đọc tin thư âm thầm dưới
đèn, khóc “thiên lý lệ”:
Chỉ uế càn
khôn huyết chiến dư
Tang tử binh
điền thiên lý lệ
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư
…Trời đất đục
ngầu huyết chiến
Binh lửa quê
hương ngàn dậm lệ loang
Dưới đèn thân thích mấy thư trang…
“…Chinh chiến máu chảy ô uế vẩn đục cả đất trời. Quê
hương binh lửa”, nói cách khác, đó là: “Nổi loạn tại Tiên Điền,
chiến tranh, đốt phá, máu, người chết”, nghĩa là: “Cuộc nổi dậy đã bị đập tan,
Nguyễn Quýnh bị bắt, bị giết tại Tiên Điền”. Tin đó được gửi thẳng tới thi nhân, chứng tỏ Nguyễn Du có liên lạc mật
thiết với nhóm nổi dậy Nguyễn Quýnh.
Hai năm sau,
1793, Nguyễn Nể có lẽ cũng áy náy vì mình theo Tây
Sơn, nên đưa tiền cho Nguyễn Du và
Nguyễn Ức về tu sửa Tiên Điền bị tàn phá. Có thêm cháu Nguyễn Hành đang ở Thanh
Chương, Hà Tĩnh tới giúp. Xa quê nhà, luân lạc mỗi người một nơi đã lâu, lần đầu tiên sau chiến
tranh được trở về quê, ba chú cháu đã vô cùng đau đớn khi thấy cảnh nhà cửa đổ
nát, dinh cơ tan hoang, ngổn ngang nguyên bãi chiến trường
năm cũ, bao gồm vết tích nơi hành hình Nguyễn Qúynh. Công
việc phải làm là tụ họp dân phu tu sửa toàn thể gia trang từ ngôi từ đường, đến viết hoành phi câu đối thờ, xây lại nhà
cửa sơ sài cho con cháu ở, sửa
chữa lại Cầu Tiên, chùa Trường Ninh… và chắc chắn còn âm thầm đắp điếm lại mộ phần cho Nguyễn Quýnh. Thật ra, khi nổi dậy bị bắt, bị hành hình nơi đây, Nguyễn
Quýnh làm gì có mồ mả, hoạ chăng chỉ được “vùi nông một nấm”. Giữa những mất mát,
đau đớn, việc tu sửa dinh cơ cổ xưa của gia tộc bao đời để lại,
chú cháu Nguyễn Du dù cố gắng
bao nhiêu cũng chỉ là làm giả cái cũ mà thôi.
Xong việc, Nguyễn
Du vào Phú Xuân thăm Nguyễn Nễ, cũng là để báo anh rõ tình hình, rồi về thẳng
Quỳnh Côi vào cuối năm 1793. Nguyễn Nễ có thơ Tống Tố Như Đệ Tự Phú Xuân Quy Bắc Hoàn, nói rõ việc này. Trên đường về, qua Thanh Hoá tới Ninh
Bình, qua đèo Tam Điệp, tức Ba Dội, Nguyễn
Du đứng trên đỉnh đèo quay lại phía nam nhìn về hướng Tiên Điền. Tình cảm đau
xót nhớ tiếc quê cũ người xưa vẫn còn quá sâu đậm, chưa hề nguôi ngoai trong bài
thơ Tái
Du Tam Điệp Sơn (Lại qua Đèo Ba Dội):
Hành nhân hồi
khán xứ
Vô ná, cố hương sầu
Quay nhìn về
quê cũ.
Mất rồi, sầu ngất
ngây.
Học giả Đào Duy
Anh trong cuốn Thơ Chữ Hán Nguyễn Du (1983), thường có ý giữ thứ tự các bài thơ như sách cũ, đã in bài Biệt Nguyễn Đại
Lang (trang 68) ngay trước bài thơ viết trên đường trở về Quỳnh Côi “Tái Du Tam Điệp Sơn”(3). Hy vọng thứ tự đó đúng. Như vậy, Nguyễn Du viết bài Biệt Nguyễn Đại Lang trước khi rời
Tiên Điền ra về, thậm chí có thể là ngay
trong thời gian đang tu sửa Tiên Điền, đắp mộ Nguyễn Quýnh, là lúc xúc động về
cái chết của Nguyễn Quýnh dâng cao nhất. Phải chăng vì Nguyễn Đại Lang chính là Nguyễn Quýnh, nên bài thơ tạo cảm xúc mãnh liệt đến thế? (Trong cuốn Đọc Và Dịch
Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du, tôi đã cho rằng bài Biệt Nguyễn Đại Lang được viết
vào thời kỳ Hồng Lĩnh cùng với những bài thơ về gia đình: Giang Đình Hữu Cảm, nhớ Cha đã mất; Ký Mộng, nhớ vợ đã mất; Ức
Gia Huynh, nhớ anh Nguyễn Nể. Điều nàychắc là sai, xin sửa lại).
Ngoài ra, giả
thuyết “Nguyễn Đại Lang là một người
khác Nguyễn Quýnh”, tình và lý không đứng vững: Nguyễn Quýnh là anh cùng cha khác mẹ của thi hào,
anh em một nhà sống chung từ nhỏ, có chung một mối hận, một nỗi mất mát, một cõi lòng,
nhất là anh chết vì lý tưởng chung, bi thương, anh dũng như thế, không ai có thể
thay thế anh được. Làm sao một thi sĩ tột bực bén nhậy, một tâm hồn chất chứa đầy tình cảm thâm sâu, một lòng thương bao
la như Nguyễn
Du mà ta
biết, vào lúc bốc mộ cho anh
mình, trên quê hương yêu quý
đang tang thươngtan tành từng mảnh vụn, có thể
không viết bài Điếu Anh mà viết về người khác cho được?
Hơn nữa, nếu bài thơ viết về một nhân vật họ Nguyễn
khác không
phải là Nguyễn Quýnh, (không nổi dậy, không bị giết ở Tiên Điền) thì việc gì phải dấu
dưới tên Đại Lang? Trong khi với Nguyễn Quýnh, ngay từ ngày đầu tiên anh em được gập lại nhau giữa
thời “ly loạn” Tây Sơn, giữa nơi đất khách ẩn trốn, trong bài Lưu Biệt Nguyễn Đại
Lang, Nguyễn
Du đã không thể gọi anh bằng tên thật, vì phải che dấu tông tích cả hai anh em, (“Hai cậu chiêu con cố tể tướng triều Lê” âm mưu phù Lê, phản Tây Sơn.
Nếu một người bị lộ thì cả hai cùng bị). Vì vậy dùng một cái tên vô thưởng vô
phạt như “Đại Lang” tránh tên thật là điều dễ hiểu. Tới bài thơ thứ hai, thi hào vẫn gọi anh
là “Đại Lang” để kỷ niệm sâu sắc quãng đời cùng nhau chung sức, chung lý tưởng phù Lê (Cho dù nhà Lê đã vữa
nát từ lâu). Về phần mình ,Nguyễn Du vẫn không hề tỏ lộ mình thuộc tổ chức của
Nguyễn Quýnh, là điều có thể bị Tây Sơn bắt giam dễ dàng, bất cứ lúc nào.
Vì những lý do
trên, chúng tôi cho rằng Nguyễn Đại Lang chính là
Nguyễn Quýnh, bài thơ Biệt Nguyễn Đại Lang chính là bài thơ Điếu anh Nguyễn Quýnh. Mà cũng là bài
thơ điếu cuộc đời lý tưởng đi “trả nợ nam nhi” của chính Nguyễn Du.
Nguyễn Hành, cùng
đắp mộ Nguyễn Quýnh với chú Nguyễn Du, cũng viết một bài thơ Viếng chú Nguyễn Quýnh:
Đại đạo thành
nhân mỗi bất đồng
Lâm nguy khẳng
khái nghĩa duy ông
Nhất thân độc
nhiệm cương thường trọng
Vạn cổ do văn
tráng liệt phong
Cổ thỉ kim triều
hà truật bức
Hồi huy đương
nhật thâm thung dung
Thống tâm hối
nại kinh từ miếu
Độc lạp lưu thành
lệ mãn không .
Đạo lớn nên
người thường chẳng đồng
Lúc nguy, nghĩa
khí chỉ mình ông
Một mình gánh
lấy cương thường nặng
Muôn thuở vang
rền tiếng liệt trung
Nhìn lại chuyện
xưa đau xót quá
Nhớ sao ngày
trước dáng ung dung
Đau lòng chẳng
nỡ đi ngang miếu
Sáp nến chảy thành lệ ngập không
(Bài này chúng tôi chỉ có
bản phiên âm, thiếu chữ Hán, nên nhiều chữ có thể sai, quý vị độc giả nào có bản chính, xin gửi cho chúng
tôi, xin đa tạ).
Bây giờ chúng ta có thể nhìn lại cuộc đời Nguyễn Du suốt mười năm gió bụi (từ 1786
tới 1796) với chi tiết “Nguyễn đaị Lang”
là Nguyễn Quýnh anh thứ tư của Nguyễn
Du, người cầm đầu nhóm Phù Lê vùng Nghệ Tĩnh:
Năm 1786, Nguyễn Du rời
Thăng Long, lên Thái Nguyên giữ chức chức
quan võ Chánh thủ hiệu quân hùng hậu hiệu, tập ấm người cha nuôi họ Hà mới mất. Tháng giêng năm
1789 vua Quang Trung đại phá quân Thanh,
Nguyễn Du không theo kịp vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tầu, một mình chạy trốn xa Thăng Long vì sợ Tây
Sơn truy đuổi. Đang ẩn náu trong chốn giang hồ, luân lạc một mình, bơ vơ xa gia
đình, e sợ người lạ, bỗng gập lại được anh Quýnh. Đó là lần đầu gập lại được gia đình. Nguyễn Du chắc chắn rất vui mừng và từ nay không còn đơn độc nữa. Ta thấy rõ sự thân
mật đặc biệt của hai người trong bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang: Vừa gập nhau là
nói chuyện tâm sự thâu canh, với những ý tưởng sâu xa tận cùng lòng dạ: “nhìn
kiếm thẹn”. Từ nay có được người thân hoàn
toàn tin cậy, thêm nữa thấy anh đang kêu gọi nghĩa sĩ tụ họp
chống Tây Sơn đúng như lý tưởng của mình, chắc chắn Nguyễn Du đồng lòng nhất trí với anh. Sau đó, Nguyễn Quýnh thường
đến bàn bạc mưu tính với em, coi em như một người mưu sĩ ở ẩn hay một chi nhánh
nghĩa quân để phân tán, che dấu lực lượng. Ta thấy Nguyễn Quýnh rất thương yêu Nguyễn
Du, luôn luôn bảo vệ em, tránh mọi nguy hiểm cho em, như chỉ tự mình đi qua cạm
bẫy, lưới giăng của Tây Sơn tới
nơi em trú ẩn, mà không cho Nguyễn Du về
Tiên Điền với mình, dù rất mong muốn.
Trong bài thơ Tiễn Nguyễn
Sĩ Hữu Nam Quy, được viết trong thời kỳ
gió bụi, sau câu thơ thứ 3, khen ngợi bạn về Hồng Lĩnh, thi sĩ than rằng mình chẳng
làm nên việc gì, mà lại không về nhà. Đào Duy Anh
giảng: “Nguyễn Du nói mình chưa thực hiện
được hoài bão nên chưa có thể về quê Hồng Lĩnh để Nguyễn Sĩ Hữu về trước”. (4)
Hồng Lĩnh hữu
nhân lai tố chủ
Bạc đầu vô lại bất hoàn
gia
Hồng Lĩnh có
người về đứng chủ
Bạc đầu vô lại chẳng về
nhà…
Đúng vậy, Nguyễn Du lúc
này còn trẻ, mới nổi tiếng danh sĩ về văn chương thơ phú, nhưng còn non nớt về
chính trị quân sự. Nguyễn Nể anh cùng mẹ, đang là quan Tây Sơn, khi nhớ thương
em luân lạc một mình, làm thơ : Hoài Tố Như Đệ, cũng cho rằng thi sĩ tài cao nhưng chưa có trải nhiệm
sống:
Tự hữu lăng
vân chí
Hoàn vô thiệp thế tài
Chí cao mây
xanh thắm
Tài chưa trải nghiệm sâu.
1790 Nguyễn Nể đi sứ Tầu lần
thứ nhất cho Tây Sơn trở về. Nguyễn Du được
tin quay lại Bắc Thành (Thăng Long) tìm gập anh, được anh bao bọc,thi sĩ thường đi lại thăm anh, tuy vẫn ở nhà trọ, sống cuộc đời thanh niên hoạt
động ngoài vòng cương toả của Tây Sơn. Lúc này thi sĩ có được những kỳ ngộ như với Nàng Cầm, đệ nhất danh cầm ở Long Thành (Tiểu Dẫn, Long Thành Cầm
Giả Ca), và cả nữ sĩ Hồ Xuân Hương ở
Nghi Tàm, Hồ Tây.
Năm 1791, Nguyễn Quýnh trước khi khởi nghĩa chống Tây Sơn ở
Tiên Điền, tới bàn bạc, từ biệt Nguyễn
Du. Cuộc nổi dậy thất bại, Nguyễn
Quýnh bị giết, Tiên Điền bị triệt hạ.
Nguyễn Du vì có liên hệ với
Nguyễn Quýnh, sợ Tây Sơn truy bắt, tìm
cách lánh về Quỳnh Côi, Thái
Bình quê vợ (có thể lúc này ông mới lấy bà họ Đoàn),
nương nhờ anh vợ là Đoàn Nguyên Tuấn đang làm quan cho Tây Sơn.
Năm,1793, Nguyễn
Nể trước khi vào Phú Xuân làm việc
tại viện Cơ Mật,
và sửa soạn đi sứ Tầu lần thứ 2 (1795, 1796), đưa tiền cho Nguyễn Du, Nguyễn
Ức và Nguyễn Hành về Tiên Điền tu sửa quê hương bị tàn phá và xây đắp mộ chí
cho Nguyễn Quýnh.
Nguyễn Du
viết bài thơ bất hủ Biệt Nguyễn Đại
Lang khoảng thời gian này. Thi sĩ đã thu góp, tinh giản những lần Nguyễn Quýnh tới thăm bàn
việc nước, đúc kết vào ba
lần đưa tiễn tiêu biểu. Đây là một bài thơ trác tuyệt đầy tình cảm và nghĩa
khí, giản dị mà bi hùng, đơn sơ mà thăm thẳm xuyên qua suốt phần đời phù Lê chống Tây Sơn của cả hai anh em
Nguyễn
Quýnh, Nguyễn Du.
Năm 1795 bà vợ họ Đoàn bị bệnhmất. 1796 Nguyễn Du rời Quỳnh Côi, dự tính đi
theo chúa Nguyễn, việc bại lộ, bị quận công Nguyễn Thận bắt giam, việc chống đối Tây Sơn của Nguyễn Du đã rõ ràng, không cần che dấu nữa. Thi hào viết Mi Trung Mạn Hứng (Hứng
trong tù) dùng điển Chung tử gẩy Nam âm, và Trang Tử thơ Việt ngâm, tỏ rõ ý tưởng không bao giờ quên nước cũ, triều Lê xưa, và
cõi lòng vô cùng thống khổ vì thương nước thương nhà:
Tứ hải phong
trần gia quốc lệ
Bốn bể giãi dầu thươngkhóc
nước
Cuối năm 1796,Nguyễn Nể
đi sứ lần 2 cho Tây Sơn về, tới xin bạn đồng liêu, quận công Thận, vì yêu mến tài thơ phú của
Nguyên Du, đã thả thi hào ra sau mười tuần tù ngục
(khoảng 100 ngày).
Không sợ bị Tây Sơn truy
đuổi nữa, thi hào về ở hẳn Hồng Sơn. Tại đây, Nguyễn
Du viết Tạp
Thi I. Đây là lần duy nhất, người cựu thần nhà Lê
nhận mình là tráng sĩ, một tráng sĩ
thua trận, trắng tay, đau khổ ngút trời:
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang
nhiên
Trắng đầu tráng sĩ khổ trông trời
Việc nước việc nhà hỏng cả
đôi.
Đúng ra
trong suốt thời gian gió bụi, Nguyễn Du đã sống giang hồ lẩn trốn cần vương với tấm lòng tráng sĩ.
Thi hào thực sự tham dự công cuộc phù Lê. Đến lúc mọi việc lỡ cả, mới viết chữ tráng sĩ, đúng vai trò lý
tưởng của mình một lần, rồi không bao giờ nhắc lại nữa.
Sau này Nguyễn Hành viết bài Thướng Thúc Phụ Đông Các Học
Sĩ (Kính gửi chú Đông Các học sĩ) có nói tới phần đời giang hồ phù Lê này của
Nguyễn Du:
Giang hồ, long miếu nhiêu song
đạo
(Giang hồ, đền miếu hai đường đủ).
Giang hồ (tham dự cần vương chống Tây Sơn) và long miếu (=triều vua= làm quan, cho nhà Nguyễn) là
hai điều đều đầy đủ (nhiêu=đầy đủ). Ta biết Nguyễn Du làm quan 18 năm đầy đủ,
thì giang hồ chống đối cũng tương đương đầy đủ không kém.
PTN
Thư Mục
Đào Duy Anh, Thơ Chữ
Hán Nguyễn Du, NXB Văn Hoc, HN 1988, tr373 chú giải về Sơn Cư Mạn Hứng
Đinh Sỹ Hồng, Họ Nguyễn Tiên
Điền Và Khu Di Tích Nguyễn Du, Ban Quản Lý Di Tích Nguyễn Du, NXB Nghệ An,
2005, trang 39 về người bắt và giết Nguyễn Quýnh.
Đào Duy Anh, sdd
trang 68, Biệt Nguyễn Đại Lang trước Tái Du Tam Điệp Sơn
Đào Duy Anh, sdd
trang 375 dòng 15, Nguyễn Du cho biết vì chưa thực hiện được hoài bão nên chưa thể về Hồng
Lĩnh.
Thơ Việt dịch trong bài này phần nhiều trích trong cuốn Đọc Và Dịch Thơ Chữ
Hán Của Nguyễn Du, Thảo Nguyên tức Phạm Thảo Nguyên, 2007, 2009.
Phụ Lục
1/ LƯU BIỆT NGUYỄN ĐẠI
LANG
留別阮大郎
西風歸袖柳高林
傾盡離杯話夜深
亂世男兒羞對劍
他鄉朋友重分襟
高山流水無人識
海角天涯何處尋
留取江南一片月
夜來常照兩人心
Phiên âm:
Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang
Tây phong quy tụ liễu cao lâm
Khynh tận ly bôi thoại dạ thâm
Loạn thế nam nhi tu đối kiếm
Tha hương bằng hữu trọng phân khâm
Cao sơn lưu thủy** vô nhân thức
Hải giác thiên nhai hà xứ tầm?
Lưu thủ giang nam** nhất phiến nguyệt
Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm.
Chú thích
* Cao Sơn Lưu Thủy = Non Cao Nước Chảy: Vào đời nhà Chu, Bá Nha, Tử Kỳ là hai người bạn tri âm, hiểu ý chí của nhau qua khúc nhạc Non Cao Nước Chẩy của Bá Nha. Khi Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn không tấu nữa vì cho rằng không còn ai hiểu tiếng đàn của mình.
** Giang nam: chỉ vùng phía nam sông, có thể là sông Hồng, đất Quỳnh Côi chăng ? Sau này, Nguyễn Du dùng chữ Nam Hà chỉ miền Trung ngày nay
Thơ dịch:
Sau buổi chia tay anh Nguyễn
Rừng dương tay áo gió lùa bay
Chén biệt cạn đêm tâm sự đầy
Đời loạn thân trai nhìn kiếm thẹn
Quê xa bạn hữu xót chia tay
Non Cao Nước Chẩy không người hiểu
Góc biển chân trời, đâu gập đây?
Còn lại trăng khuya vòi vọi chiếu
Tấm lòng đôi bạn đất nam này.
2) Biệt Nguyễn Đại Lang
別 阮 大 郎
一
我 且 浮 江 去 送 君 歸 故 丘
乾 坤 餘 草 屋 風 雨 宿 孤 丹
秋 夜 魚 龍 蟄 深 山 麋 鹿 遊
休 期 不 甚 遠 相 見 在 中 洲
二
送 君 歸 故 丘 我 亦 浮 江 漢
千 里 不 相 聞 一 心 未 嘗 間
夜 黑 豺 虎 驕 月 明 鴻 鴈 散
兩 地 各 相 望 浮 雲 應 不 斷
三
君 歸 我 亦 去 各 在 亂 離 中
生 死 交 情 在 存 亡 苦 節 同
柴 門 開 夜 月 殘 笠 走 秋 風
千 里 不 相 見 浮 雲 迷 太 空
Phiên âm:
Biệt Nguyễn Đại Lang
(tam thủ)
I
Ngã thả phù giang khứ
Tống quân quy cố khâu
Càn khôn dư thảo ốc
Phong vũ túc cô chu
Thu dạ ngư long trập
Thâm sơn mi lộc du
Hưu kỳ bất thậm viễn
Tương kiến tại trung châu *
II
Tống quân quy cố khâu
Ngã diệc phù giang hán* *
Thiên lý bất tương văn
Nhất tâm vị thường gián
Dạ hắc sài hổ kiêu
Nguyệt minh hồng nhạn tán***
Lưỡng địa các tương vương
Phù vân ưng bất đoạn.
III
Quân quy ngã diệc khứ
Các tại loạn ly trung
Sinh tử giao tình tại
Tồn vong khổ tiết đồng
Sài môn khai dạ nguyệt
Tàn lạp tẩu thu phong
Thiên lý bất tương kiến
Phù vân mê thái không
*Trung Châu: Nơi giữa nước chỉ Thăng Long, kinh thành cũ nơi ông đã sống cùng các anh em suốt thời niên thiếu
** Hán: một gã, một người.
Phù giang hán: Kẻ trôi nổi lang bạt trên sông nước.
***Nguyệt minh hồng nhạn tán : Quân Tây sơn có mặt mọi nơi, kiểm xoát ráo riết làm những người muốn phù Lê sợ hãi. Lấy ý thơ Vương Duy trong bài Điểu Minh giản (Chim kêu trong khe núi)
Nguyệt xuất kinh sơn điểu (Trăng xuất hiện chim kinh hãi).
Trong khe núi, trăng sáng chỉ ló ra khỏi núi mà làm chim núi kinh sợ
Thơ dịch:
Chia xa anh Nguyễn
I
Tôi theo sông lênh đênh
Tiễn anh về núi cũ
Trời đất còn mái tranh
Gió mưa ẩn thuyền lá
Đêm thu cá lặn bơi
Rừng sâu nai thong thả
Ngày vui chẳng lâu nữa
Trung châu ta gập ta.
II
Tiễn anh về núi cũ
Tôi, lãng tử nước mây
Ngàn dậm vắng tin tức
Một lòng chưa hề thay
Đêm tối hổ gầm thét
Trăng sáng nhạn hoảng bay*
Hai nơi cùng mong nhớ
Đừng ngừng trôi, hỡi mây!
III
Anh về, tôi cũng đi
Giữa cõi đời loạn ly
Sống chết tình ở lại
Được mất nghĩa cùng chia
Trăng đêm cửa liếp mở
Gió thu nón rách đi
Ngàn dậm ta xa cách
Trời mịt mù mây che.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét