Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2016
Nguyễn Huệ Chi - Trở lại câu chuyện so sánh Kim Vân Kiều truyện với Truyện Kiều của ông Đổng Văn Thành(*) (Tiếp theo và hết)
![]() |
Tác giả Nguyễn Huệ Chi - ảnh: Uyên Nguyên |
Một chỗ khác, ông Đổng Văn Thành còn kỳ công trích dẫn cả một
đoạn dài để làm bằng chứng cho hình tượng Từ Hải “ôm chí lớn ngút trời” trong Kim
Vân Kiều truyện: “Có một hảo hán họ Từ tên Hải, hiệu là Minh Sơn hòa thượng,
người đất Việt đến chơi. Người này có lòng ưu ái, phóng khoáng đại lượng, ôm
chí lớn lao, coi giàu sang nhẹ tựa lông hồng, xem người bằng vai như cỏ rác.
Khí tiết hơn hẳn người cùng lứa, cao lớn hùng vĩ trùm đời, hiểu rõ lược thao,
giỏi giữ ngay thẳng. Thường nói: ‘Trời cho ta tài năng ắt cho ta sử dụng. Hữu
tài vô dụng là trời phụ ta vậy. Nhược bằng hoàng thiên phụ ta thì ta cũng phụ lại
hoàng thiên. Đại trượng phu ở đời phải làm sao cho được lỗi lạc, lập được những
sự bất hủ trên đời, sao có thể chết già bên cửa sổ như những kẻ sống vì miếng
ăn? Còn nếu có tài mà vô mệnh, anh hùng không có đất dụng võ, không để lại được
tiếng thơm cho trăm đời thì phải tự mình tạo ra mệnh. Khinh suất gây binh đao
nơi ngòi đầm chỉ tổ để lại nỗi sỉ nhục đến vạn năm. Nếu không được như thế thì
bầu nhiệt huyết trong người này làm thế nào sử dụng được?’ Hồi nhỏ học hành
nhưng không thành đạt bèn bỏ đi buôn, của cải sung túc, thích kết giao với bạn
bè”(30). Trích xong, ông đem so sánh với đoạn Nguyễn Du mô tả Từ Hải
trong Truyện Kiều mà theo ông, từ một người “chí lớn ngút trời” đã bị
“thay đổi thành võ sĩ giang hồ lưu lạc khắp nơi”:
Câu 2165 “Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi.
Râu hùm hàm én mày ngài,
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Đội trời, đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng”
Về phần chúng tôi, cân nhắc giữa cả hai đoạn, chúng tôi thấy
dụng ý của hai nhà văn có chỗ khác nhau. Giới thiệu Từ Hải, Nguyễn Du trước
tiên chưa muốn để lộ thân thế của Từ mà hãy để Từ đột ngột hiện ra với diện mạo
và phong thái một con người phi phàm, gây một ấn tượng đặc biệt cho cả Thúy Kiều
và người đọc. Chỉ bằng mấy câu thơ ước lệ ông đã làm điều đó hết sức thành
công. Để cho hình tượng của Từ càng được thăng hoa, nhà thơ không chịu trần tục
hóa người anh hùng thành kẻ đi buôn như Kim Vân Kiều truyện, vì đi buôn
thì có khác gì Thúc Sinh là người “quen thói bốc rời”, Kiều đâu có lạ. Ông cấp
cho họ Từ một hành tung đi mây về gió, một con người đầy lãng mạn, nâng cao
thêm trí tưởng tượng của độc giả: “Giang hồ quen thú vẫy vùng / Gươm đàn nửa
gánh non sông một chèo”. Về phần Thanh Tâm Tài Nhân, nhà văn lại làm ngược
với những thao tác của Nguyễn Du. Ông không bận tâm gì nhiều đến hình dạng, cốt
cách của Từ Hải (đó cũng là đặc điểm chung dễ thấy ở tất cả mọi nhân vật khác
trong Kim Vân Kiều truyện), nhưng chỉ sau vài câu vào đề ngắn gọn, ông
cho Từ nói ra một lời bộc bạch chí khí, tỏ ra mình luôn ôm ấp trong lòng ý muốn
“vá trời lấp biển”. Hiềm nỗi, câu nói đầy khí phách, ý tứ tiền hô hậu ủng kia lại
không phải là diễn ngôn “sống” của một Từ Hải bằng xương bằng thịt, chỉ là lời
nói lặp lại trong sách vở, kể từ Mã Viện đời Hán cũng đã nói không khác là bao,
nên trở thành một thứ văn lắp ráp khuôn sáo, nghe ra vẫn có vẻ “phường tuồng”,
cũng giống như đoạn tả cảnh Từ đánh nhau với quan quân vừa dẫn ở trên mà chắc họ
Đổng phải cân nhắc, soát xét kỹ càng mới chọn trích. Điều kỳ hơn nữa là tiếp
ngay sau lời bộc bạch, nhà văn nói toẹt luôn nghề nghiệp của Từ Hải là “học
hành dang dở nên đành bỏ đi buôn, của cải sung túc, thích kết giao bầu bạn”. Thế
thì những lời “thổ lộ can tràng” của Từ cũng đã có gì làm bằng cứ, mới chỉ là nằm
trong mộng ước mà thôi. Về mặt nghệ thuật, một cách “tỏ chí” ồn ào kiểu đó làm
sao thể hiện được khí phách vừa ngang tàng vừa tự nhiên bằng một cái vẫy tay
đĩnh đạc và một lời nói đầy tự tin của chàng Từ Hải trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du khi đứng trước Thúy Kiều: “Lại đây xem lại cho gần / Phỏng tin được
một vài phần hay không”. Có cần tự giới thiệu gì nhiều về mình đâu, song chỉ
một cử chỉ thế là đủ chứng tỏ con người ấy rồi đây sẽ làm nên một sự nghiệp
kinh thiên động địa.
Xin nói thêm, cũng do không chú ý đến ước lệ thi ca, khi đọc
câu thơ “Một tường tuyết trở sương che” ông Đổng Văn Thành tưởng là Nguyễn
Du đang tả cảnh mùa đông thật, liền chê nhà thơ tả sai thời tiết(31),
có biết đâu đấy cũng là một biện pháp tu từ để nói về những ngăn trở do phép
nhà nghiêm ngặt khiến Thúy Kiều và Kim Trọng chỉ sống cách nhau một bức tường
mà không biết được tin nhau: “Tin xuân đâu dễ đi về cho năng”. Không nắm
được ngôn ngữ tượng trưng của thi ca thành ra cứ lâm tình trạng “ông chằng bà
chuộc”, âu cũng là một nỗi khổ tâm trong đối thoại với ông.
Nhưng ước lệ trong xây dựng nhân vật không ngăn trở Nguyễn
Du có những đổi mới thật sự trong khi tiếp thu Thanh Tâm Tài Nhân. Nhà thơ đã
chuyển đổi có ý thức loại hình tiểu thuyết đạo lý sang loại hình tiểu
thuyết tâm lý. Các nhân vật của Truyện Kiều không phải là cái cớ để
Nguyễn Du thuyết minh một quan niệm về đạo đức, mặc dù ở cuối truyện ông có nói
“Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Bút lực của nhà thơ giúp họ sống giữa
cuộc đời như những con người chịu mọi xô đẩy của hoàn cảnh thực, trong đó có
các biến thái của quá trình tâm lý bên trong. Không những ông hơn Thanh Tâm Tài
Nhân trong việc tìm kiếm các dạng thái tinh tế của độc thoại nội tâm, dường như
người kể chuyện trong thơ ông cũng không đứng ngoài nhân vật mà nhiều lúc nhập
thân vào nhân vật, từ phía trong nhân vật mà phát ngôn; không đẩy nhân vật đi
theo phác đồ định sẵn mà tự nhân vật “ma đưa lối quỷ dẫn đường” vô thức tìm lấy.
Thúy Kiều gặp Kim Trọng, “Người quốc sắc kẻ thiên tài / Tình trong như đã mặt
ngoài còn e”, đấy mới là thông báo khách quan của người kể chuyện. Nhưng “Chập
chờn cơn tỉnh cơn mê / Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn” thì đã là hoạt
động tâm lý xẩy ra ngay trong thời khắc hiện tại của cả đôi bên, người kể chuyện
đã đứng ở điểm nhìn bên trong nhân vật mà nói. Trong cuộc hội ngộ giữa Kiều -
Kim bên nhà Kim Trọng, tình yêu cũng theo tâm lý mà thay đổi. Lúc đầu Kiều còn
nói những lời kiểu cách, tỏ ra nàng còn e ngại: “Nàng rằng: Trộm liếc dung
quang / Chẳng sân ngọc bội cũng phường kim môn”. Kim Trọng cũng hứa một
cách kiểu cách không kém: “Ví dù giải kết đến điều / Thì đem vàng đá mà liều
với thân”. Nhưng rồi sau một ngày trò chuyện không dứt, cả hai đã bước được
một bước rất dài, mọi e dè lo lắng không còn, tâm trạng giữa đôi bên thật sự cởi
mở: “Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng”. Lời thông báo này cũng
không còn là lời thông báo bên ngoài mà đã nằm ngay trong nhân vật. Kiều quay về
nhà, thấy cha mẹ chưa về, lại “xăm xăm băng lối vườn khuya” trở sang. Nhìn thấy
Kim Trọng đã thiu thiu ngủ trong khi mình vẫn một lòng một dạ vì yêu, nàng
không khỏi có chút hờn dỗi: “Bây giờ rõ mặt đôi ta / Biết đâu rồi nữa chẳng
là chiêm bao”. Người kể chuyện đến đây tế nhị ẩn hẳn đi, để cho nhân vật tự
phơi trải lòng mình. Cho đến sau khi hai bên đã thề nguyền, Kiều đã đánh đàn
cho Kim Trọng nghe, không còn chút mặc cảm nào giữa trai tài gái sắc, người kể
chuyện lại xuất hiện trở lại, thông báo tiếp một bước biến đổi tâm lý cao hơn:
“Hoa hương càng tỏ thức hồng / Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu”...
Quả là với quan niệm tính cách được biểu hiện thông qua các
trạng thái tâm lý, Nguyễn Du đã không cố định hóa tính cách nhân vật như Thanh
Tâm Tài Nhân. Ông Đổng Văn Thành thắc mắc: vì sao nàng Kiều trong Truyện Kiều
đối với Thúc Sinh và Từ Hải vẫn nặng tình như đối với Kim Trọng, mà lẽ ra theo
đúng nguyên tác Kim Vân Kiều truyện, “Thúy Kiều chỉ thực sự yêu có một
mình Kim Trọng, còn đối với Thúc Sinh và Từ Hải thì chủ yếu chỉ cảm cái ơn họ
chuộc mình ra khỏi lầu xanh”(32). Đây cũng chính là lý do khiến ông
chê nhiều đoạn trữ tình ngoại đề của Nguyễn Du “đã làm tổn hại đến sự hoàn chỉnh
và thống nhất của nhân vật” mà ở trên chúng tôi nói phần sau sẽ xin lý giải(33).
Bây giờ đã đến lúc có thể nói rõ: Nguyễn Du không hề buộc chặt nhân vật Thúy Kiều
vào một thứ “phẩm tiết kiên trinh” như Thanh Tâm Tài Nhân. Được Hoài Thanh coi
là người “đi guốc trong ruột nhân vật”, Nguyễn Du hiểu hơn ai hết mối tình với
Kim Trọng dầu sao cũng chỉ là mối tình đầu của Kiều. Với thời gian xa cách chừng
ấy năm, lại trải biết bao nhiêu bầm dập, trong tâm lý Kiều ví thử vẫn cứ còn giữ
nguyên vẹn tình cảm với Kim Trọng như thuở nào để suốt ngày mình dằn vặt mình
thì thật ít ai hiểu nổi. Chúng tôi khác ông Đổng Văn Thành, không thể nào coi Kim
Vân Kiều truyện là một tác phẩm hiện thực, một phần cũng chính vì lẽ ấy.
Nhưng Nguyễn Du thì mới đúng là một ngòi bút hiện thực tâm lý, khi ông cho nàng
Kiều nhớ đến Kim Trọng như nhớ đến một kỷ niệm cũ, không còn thắm nữa nhưng vẫn
chưa phai: “Xót thay chút nghĩa cũ càng / Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”.
Nguyễn Du cũng không thể buộc Thúy Kiều hờ hững với Thúc Sinh vì trong hoàn cảnh
đang sống dưới địa ngục trần gian của nhà mụ Tú Bà, Thúc Sinh không chỉ là người
phò nguy cứu nạn, mà còn là con người hết sức đa tình, đã hiến dâng cho nàng cả
tâm hồn và của cải, cả tình yêu “đá vàng” lẫn tình yêu xác thịt: “Miệt mài
trong cuộc truy hoan / Càng quen thuộc nết càng dan díu tình”. Kiều giờ đây
không còn ở cái tuổi cài trâm e lệ như thuở mới yêu Kim Trọng. Nàng đã thất thân
với Mã Giám Sinh rồi với Sở Khanh, lại đã lăn lóc chốn lầu xanh, mùi đời đã trải.
Bắt nàng cứ thờ ơ lạnh nhạt trước một mối tình chứa chan hạnh phúc như của
chàng Thúc e chỉ là giả dối nếu không là ngốc nghếch về tâm lý. Thế nhưng mối
tình của Thúy Kiều đối với Thúc Sinh, cũng như sau này đối với Từ Hải, vẫn khác
mối tình đầu giữa nàng với Kim Trọng. Một bên e ấp, trong sáng, thuần túy tình
yêu platonique, một bên dạn dĩ, tỉnh táo, vừa là ơn nghĩa, vừa biết tính toán
thiệt hơn, nên tuy có nhớ nhung: “Cầm tay dài ngắn thở than / Chia phôi ngừng
chén hợp tan nghẹn lời” vẫn đinh ninh những chuyện rất thực tế: “Đôi ta
chút nghĩa đèo bòng”. Cũng vậy, với Từ Hải, người đã cứu mình khỏi chốn bùn
nhơ một lần thứ hai, lại giúp mình đền ơn trả oán phân minh, cho mình được sống
những ngày hả hê nhất, mà nói Kiều lấy Từ không phải vì tình thì dễ chỉ có
Thanh Tâm Tài Nhân mới nghĩ ra được, và cũng dễ chỉ có Đổng Văn Thành mới coi
đó là một “tính cách nhất quán” đáng trọng của nàng Kiều. Kiều của Nguyễn Du
phát triển theo xu thế tâm lý cuộc đời thực đã không thể làm như vậy. Nàng yêu
Từ Hải với tấm lòng của người tri kỷ: “Khen cho con mắt tinh đời / Anh hùng
đoán giữa trần ai mới già”, cũng là với cái nghĩa của người chịu ơn sâu nặng:
“Thưa rằng lượng cả bao dung / Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”. Vì
thế nàng vẫn dành cho Từ Hải một góc trong trái tim thương nhớ sau khi đã hồi
tưởng hết cha mẹ, các em, đến người tình cũ: “Cánh hồng bay bổng tuyệt vời /
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”. Không thể nói với những mối tình gắn
bó sau này, Kiều đã tự đánh mất mình, như cách nói “làm tổn hại đến sự hoàn chỉnh
và thống nhất của hình tượng nhân vật” của Đổng Văn Thành. Chính Kim Trọng là
người hiểu rất rõ tâm hồn của nàng trước sau vẫn toàn vẹn: “Chữ trinh kia
cũng có ba bảy đường”. Đặt vấn đề “tính nhất quán” của tính cách Thúy Kiều
không trên cơ sở nhìn sâu vào những va động của hiện thực đã vùi dập nàng xuống
tận bùn đen và nàng đã phải chống trả bằng mọi cách để tìm đường sống, tình cảm
cũng ba chìm bảy nổi, có lẽ về mặt thấu tình đạt lý còn thua cả một người chỉ
biết sách vở mà ít trải đời như Kim Trọng. Đó là vấn đề thứ tư chúng tôi thấy bất
cận nhân tình trong lập luận của ông Đổng Văn Thành.
5. Sau tất cả những lời chỉ trích Truyện Kiều
nặng nhẹ tùy lúc tùy nơi, ông Đổng Văn Thành dồn sự phê phán của mình vào một mục
tiêu lớn nhất: ông “kết tội” Nguyễn Du đã xuất phát từ lập trường giai cấp quý
tộc của bản thân mà có những “xuyên tạc và xóa nhòa mối quan hệ đối lập giai cấp”
(把 階 級 對 立 的 闗 係 加 以 歪 曲 惑 冲 淡) vốn rất rõ
trong Kim Vân Kiều truyện. Ông đưa ra khá nhiều “thiết chứng”: a.
Kim Vân Kiều truyện nói việc bán mình của Thúy Kiều là do “bọn cướp bị bắt
câu kết với quan lại” “bóp nặn bức hại gia đình họ Vương mà sinh ra”, thế mà
nhà thơ lại “sửa thành thằng bán tơ”, biến câu chuyện “đòi đút lót” vốn là
“hành động tàn bạo của lũ công sai và người đầu bọn” thành một “việc nghĩa” của
ông lại già họ Chung: “Cũng trong nha dịch lại là từ tâm / Thấy nàng hiếu trọng
tình thâm / Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay / Tính bài lót đó luồn đây /
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”(34); b. Đem việc Hoạn
Thư vả miệng bẻ răng hai tên gia nô mách lẻo tiêu biểu cho hành động “áp bức
giai cấp” đổi sang vả miệng bẻ răng hai người quen chỉ còn thuần ý nghĩa ghen
tuông(35); c. Ngay hai tên Ưng, Khuyển, trong nguyên tác gọi
rất rõ là Hoạn Ưng và Hoạn Khuyển để “ngụ ý chúng là lũ ưng khuyển của nhà
quan” mà Nguyễn Du cũng đang tâm bỏ mất chữ “Hoạn” ở đầu, “làm mờ nhạt hàm
nghĩa phê phán thân phận chó săn cho kẻ quyền quý của chúng”(36); d.
Nguyễn Du còn “giảm tội” cho mụ mẹ Hoạn Thư và Hoạn Thư bằng thủ pháp miêu tả
giảm đẳng hành vi thâm độc của họ đối với nàng Kiều; bà mẹ không “đánh nàng đến
máu chảy trôi chày” (“Hai bên thị nữ dạ ran, tức thì vật Thúy Kiều xuống đất,
người giữ tay để đánh vào tay, người giữ chân để đánh vào chân, kẻ đè đầu để
đánh vào đầu, một người át giọng quất đánh, một người quỳ xuống ghi số. Một gậy
vụt xuống Thúy Kiều kêu lên một tiếng, mông đít như lửa đốt, hồn xiêu phách
tán. Cái gậy tre vô tình kia cứ dồn vào một chỗ, chỉ dăm ba gậy thì Thúy Kiều
đã nứt da bật máu”(37)) mà chỉ truyền đánh ba chục roi; cô con cũng
không dọa nàng một cách hùng hổ: “Nếu mày còn loanh quanh giấu giếm nữa, ta sẽ
cho mày một trận đòn ở đây đã, rồi tống cổ trả mày về bên cụ lớn đánh cho kỳ chết”(38),
lại không trực tiếp đứng ra tra vấn nàng về lai lịch mà để cho Thúc Sinh tra hỏi,
và khi nghe đến tiếng đàn tuyệt kỹ của nàng thì lại “Khôn uy dường có bớt
vài bốn phân”(39); đ. Nhưng tệ hại nhất là ở đoạn báo ân
báo oán của nàng Kiều, một dịp “trả thù giai cấp” đúng thời cơ nhất thì Nguyễn
Du lại “nhẹ nhàng bỏ qua Hoạn phu nhân, căn bản không hề cho người đi bắt mụ
đó”(40). Riêng “đối với “thủ phạm” bức hại Thúy Kiều là Hoạn Thư,
Nguyễn Du lại cũng khoan dung, để cho lọt lưới: “... Tha ra thì cũng may đời
/ Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen / Đã lòng tri quá thì nên / Truyền quân lệnh
xuống trướng tiền thả ngay”. Đến nỗi “lần bị điệu đến này, Hoạn Thư chẳng
những không xây xát một mảy lông mà còn nhờ chồng là Thúc Sinh được thơm lây.
Hai vợ chồng nhận “gấm trăm cuốn bạc nghìn cân” của Thúy Kiều trả ơn Thúc Sinh,
chở nặng mà về”(41). Ông Đổng Văn Thành phân tích “khuyết điểm giai
cấp tính” của Nguyễn Du ở phần cuối cùng này rất sát sao, chặt chịa: “Sở dĩ
Nguyễn Du viết như thế đương nhiên xuất phát từ sự đồng tình với những nhân vật
thuộc giai cấp quý tộc là giai cấp xuất thân của mình. Ông đã tìm mọi cách che
đậy cho tội áp bức của giai cấp ấy, sửa chữa cuộc đấu tranh giai cấp nghiêm túc
đó thành cuộc tranh chấp thuần túy giữa vợ cả vợ lẽ ghen tuông với nhau trong
gia đình. Thúy Kiều đòi hỏi trả thù nhưng khi thấy kẻ thù thì lại khâm phục tài
ăn nói và khen ngợi cô ta biết sửa lỗi lầm”(42). Sau hết, ông dành
cho Nguyễn Du một lời “kết án” nghiêm khắc: “Cách cải biên ấy rõ ràng đã bóp
méo, xuyên tạc nghiêm trọng nội dung có tính chính trị sâu sắc của nguyên tác”(43).
Về nhiều chi tiết Đổng Văn Thành “mời ra” làm đối chứng trước
“tòa án văn chương” do ông thụ lý, cũng phải nhắc lại, có chỗ ông lại rơi đúng
vào cái vòng “bất kham” của chữ nghĩa mà chúng tôi đã gọi là “ông chằng bà chuộc”
ở một phần trước. Câu chuyện thằng bán tơ chẳng hạn, thì giữa Kim Vân Kiều
truyện nào có thấy khác gì Truyện Kiều? Kim Vân Kiều truyện nói
thằng bán tơ vốn là ăn cướp giả danh, trọ trong nhà ông dượng, khi bị bắt thì
khai liều, liên lụy đến gia đình ông dượng và cả gia đình Vương Viên Ngoại bấy
giờ đang ăn giỗ ở đấy. Nguyễn Du cũng chỉ nói “Phải tên xưng xuất là thằng
bán tơ”, ta hiểu thằng bán tơ là đầu mối, chứ nhà thơ có đổ tất cả tai họa
của gia đình Kiều cho thằng bán tơ đâu. Xem lại các bản Kim Vân Kiều truyện
hiện lưu giữ tại Việt Nam, chủ yếu là bản do Quán hoa hiên tàng bản (A.559)
chúng tôi không thấy có đoạn sau đây được ông Đổng Văn Thành tóm lược: “Dương
Binh mã thuộc Ty Binh mã trong thành chỉ dựa vào lời phạm nhân khai là có dính
dáng đến Vương Viên Ngoại, không cần xét thật giả đã lập tức lợi dụng khẩu cung
gian dối này làm cớ, sai ngay bảy tám tên sai nha xông vào nhà họ Vương vơ vét
của cải, dùng cực hình tra hỏi”(44). Phải chăng nói như Nguyễn Đăng
Na, có hai loại văn bản Kim Vân Kiều truyện khác nhau, loại in từ trước
thế kỷ XX và loại in từ thế kỷ XX về sau, trong đó, loại thứ hai như “các bản
do Đinh Hạ hiệu điểm hoặc bản do Xuân phong văn nghệ xuất bản... về cơ bản cũng
gồm 20 hồi như các bản Quán hoa hiên, Đại Liên [in trước thế kỷ XX]... nhưng
dài hơn, có nhiều chi tiết hơn”(45), “điều này tạo nên sự phức tạp,
thậm chí rối loạn khi nghiên cứu so sánh giữa Đoạn trường tân thanh [Truyện
Kiều] với Kim Vân Kiều truyện”(46). Duy trong trường hợp
đang bàn thì chẳng phải vì Nguyễn Du dựa vào một bản thuộc loại thiếu nhiều chi
tiết (do ông sống trước thế kỷ XX không được tham khảo các bản đầy đủ in về
sau) mà đi đến “rối loạn nhận định” như ông Đổng Văn Thành nghĩ. Nguyễn Du vẫn
lên án quan lại sai nha gay gắt đấy chứ:
Câu 575 “Hàn huyên chưa kịp dãi dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước kẻ tay đao,
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
Một dây vô lại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung cửi, tan tành gối may.
Đồ tế nhuyễn của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”...
Thậm chí, nhà thơ còn châm biếm bọn chúng sâu cay nữa là
khác:
Câu 997 “Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
Trong yêu cầu cô đúc của nghệ thuật thi ca, thiết tưởng thế
là quá đủ, còn nếu thấy liều lượng “chưa đã” thì... cũng đành phó mặc sở thích
riêng của mỗi người, miễn ta chấp nhận với nhau không phải Nguyễn Du cố tình giảm
nhẹ tội cho đám công sai. Có điều, trong bọn “đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi” ấy
lại nẩy ra một Chung Công (Chung công sai = Chung Sự) có tấm lòng từ ái. Trong
đời thực vẫn có những hiện tượng “trớ trêu” là thế, và đó mới là chân lý cuộc sống
muôn mặt, không hề giản đơn như ta tưởng. Thanh Tâm Tài Nhân nắm bắt được điều
này kể cũng là sành đời lắm, Đổng tiên sinh thường vẫn bắt bẻ Nguyễn Du rời xa
nguyên tác, chẳng lẽ đến chỗ đáng gọi “khả thủ” này lại bắt họ Nguyễn phải sửa
đi? Việc vòi vĩnh ba trăm lạng, theo Kim Vân Kiều truyện đúng là do bọn
lính tráng đến nhà Vương Viên Ngoại đề xuất trước, nhưng chính Thanh Tâm Tài
Nhân đã ghi nhận vai trò quyết định của Chung Công trong việc tính liệu “lót đó
luồn đây” với khoản tiền bạc kia: “Già Chung này tuy làm việc chốn quan nha
nhưng suốt đời ăn chay, việc gì làm được mới làm, việc gì không làm được thì nhất
quyết không dám làm xằng [...]. Đồng tiền của cô là đồng tiền thế nào mà tôi
dám phung phí. Ba trăm lạng bạc này hãy để ở nhà tôi, tôi đưa hai ông con nhà đến
tận mặt quan, xin giấy chiếu làm chứng cho nhà cô được vô can, rồi sau mới đem
tiền đến. Gặp mấy tên cướp, tôi sẽ bảo rõ không được vướng đến nhà cô, rồi cho
chúng một số. Còn bọn chúng tôi có mười người đầu mục liên quan đến tra xét vụ
này, tôi sẽ chia bạc cho họ, và bảo cho họ biết việc ở nhà họ Vương do tôi đảm
bảo, nếu có hơi tăm gì ở nha môn thì nhờ họ che giấu”(47). Thanh Tâm
Tài Nhân còn để cho Chung Công ân cần giúp đỡ Thúy Kiều nhiều việc trong những
ngày gia đình nàng bấn loạn, và vào hôm nàng cùng Mã Giám Sinh về Lâm Truy,
chính Chung Công đã đến tận trường đình đưa tiễn, mở một tiệc nhỏ thết hai người
cùng gia đình họ Vương rồi mới ra về. Nguyễn Du không chủ tâm biến Chung Công từ
người xấu thành người tốt – hay ngược lại – cho ra vẻ khác với Kim Vân Kiều
truyện khi thấy không cần “vẽ rắn thêm chân” trong hư cấu nghệ thuật; nếu
việc ấy là có lỗi, xin ông Đổng Văn Thành cứ trách cứ Thanh Tâm Tài Nhân.
Cả việc Nguyễn Du gọi hai tên gia nô của Hoạn Thư là Khuyển,
Ưng chứ không gọi dài dòng là Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển có lẽ một phần cũng do sự
ràng buộc của câu thơ lục bát: “Sửa sang buồm gió lèo mây / Khuyển Ưng lại
chọn một bầy côn quang”. Một phần nữa, dùng hai chữ Khuyển và Ưng vừa đủ
nói rõ thú tính của hai kẻ tay sai vừa hàm ý chúng là chó săn chim mồi của họ
Hoạn, thế thì bỏ tiền tố “Hoạn” trong tên của chúng không có hại, mà đưa vào
thơ đôi khi lại giảm ý vị, có thể bị coi là “bới bèo ra bọ” cũng nên. Một người
thơ như Nguyễn Du tất biết “bỏ” và “lấy” thế nào thì mới thích hợp với ngôn ngữ
của thơ.
Một tình tiết nữa là việc Hoạn Thư bẻ răng hai tên mách lẻo.
Đấy là hai tên gia nô hay hai người quen của họ Hoạn thì cũng đều chứng tỏ uy
thế gớm ghê của cô con gái viên quan Bộ Lại, xét cho cùng cũng đều là “áp bức
giai cấp” như ông Đổng Văn Thành nói cả. Mà bẻ răng hai tên gia nô là chuyện
trong nhà họ Hoạn, thời Trung cổ các gia đình quyền quý Trung Hoa làm việc đó
nào có gì lạ, có khi họ còn gây nhiều tội ác tày trời nữa ấy chứ, bẻ răng vẫn
còn là quá nương tay. Song đến người quen mà cũng đè nghiến ra bẻ răng thì cái
hành vi hống hách của cô gái họ Hoạn này mới thật là quá quắt. Thử hỏi giữa
Thanh Tâm Tài Nhân và Nguyễn Du, ai xử lý tình tiết thâm trầm hơn ai?
Sau những gì thuộc về cách hiểu một số tình tiết trong Truyện
Kiều cần nói lại cho thanh thỏa, dưới đây mới là điều cốt yếu chúng tôi
mong muốn bàn với ông Đổng Văn Thành. Qua những ý kiến đánh giá của ông về Kim
Vân Kiều truyện và Truyện Kiều, chúng tôi nghĩ, nên trao đổi thêm về
phương pháp luận nghiên cứu văn học của ông. Đối với Đổng Văn Thành, bài
học rút ra từ các tác phẩm quá khứ tuồng như chủ yếu là vấn đề đấu tranh giai cấp.
Từ đầu chí cuối chỉ thấy ông phân loại thành phần cho nhân vật của Kim Vân
Kiều truyện và coi đây là cuốn tiểu thuyết “miêu tả rõ ràng, nổi bật sự đối
lập giữa các giai cấp” – một “giới hạn chính trị có tính nguyên tắc”(48)
của Thanh Tâm Tài Nhân. Xem xét một lĩnh vực vô cùng đa nghĩa như văn học mà chỉ
bó hẹp trong một tiêu chí là đấu tranh giai cấp, liệu có phải là dùng một thước
đo chưa thích đáng, là dùng “dao mổ trâu” để giải phẫu cơ thể phức tạp của con
người hay không? Đành rằng con người không thoát ly quan hệ giai cấp, nhưng con
người còn rất nhiều quan hệ khác, là “tổng hòa mọi mối quan hệ xã hội” nói như
K. Marx. Và ngày nay chúng ta đã có thể bổ sung thêm: không những là sự tổng
hòa mọi quan hệ xã hội, con người còn thường xuyên mở rộng giới hạn giao tiếp của
mình ra những quan hệ nằm ngoài xã hội nữa. Có bao nhiêu cái chưa biết trong cuộc
đời này và vũ trụ này không liên quan gì đến xã hội, con người vẫn cứ phải tham
dự như một chủ thể. Đối tượng của tiểu thuyết là con người, là sự sống nhiều mặt
của con người, thế nên tiếng nói trong tiểu thuyết rộng hơn quan hệ giai cấp rất
nhiều. Cũng không thể coi tiếng nói của tiểu thuyết là một tiếng nói đơn nghĩa
mà phải nói như Milan Kundera, nhà văn đương đại nổi tiếng người Pháp gốc Tiệp,
đó là một thứ “ngôn ngữ tương đối và nước đôi”(49) trong ý nghĩa
tích cực của nó. Con người trong tiểu thuyết có cái phần là con người giai cấp,
nhưng còn có vô số phần khác là con người nhân loại, con người mang tính người
thuần túy, con người siêu hình, hư vô, con người sinh lão bệnh tử, thậm chí con
người sinh vật với các nhu cầu “vật-người” ở giữa thế gian này. Cái gọi là “cái
đẹp” hay chủ nghĩa nhân bản mà văn học có nhiệm vụ chiếm lĩnh bao gồm tất cả những
phương diện ấy.
Ông Đổng Văn Thành thích tiếp nhận những nhân vật của Thanh
Tâm Tài Nhân dưới góc độ chúng là hiện thân của tính giai cấp, song người khác
vẫn có thể tìm ra từ các nhân vật đó nhiều phương diện đa đoan, lý thú hơn. Đặc
biệt, với Nguyễn Du, nhà tâm lý bậc thầy, nhân vật của ông không bao giờ lại là
những mô hình khô cứng, thuyết minh cho một tín điều nào cả. Nhân vật của ông
là sự sống được cụ thể hóa nên phong phú ý nghĩa. Hoạn Thư vừa có thể ác nghiệt
với Kiều vì máu ghen của “con quan Lại bộ” “Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen”,
vừa có thể nghe tiếng đàn Kiều gảy mà chợt động tâm, cái phần người trỗi dậy,
và biệt đãi với Kiều hơn hẳn đám tôi đòi khác; đến khi xem rõ lời khai về cuộc
đời chìm nổi của Kiều thì lại càng động tâm hơn chút nữa, “Khuôn uy dường
cũng bớt vài bốn phân”. Lại khi cần tra vặn chuyện chồng cũ của Kiều, là việc
cô ta đã biết tỏng, một thoáng xấu hổ nào đó chợt hiện ra ám ảnh khiến cô đành
đẩy sang cho Thúc sinh “Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao”... Đó mới
là “người”, là “cái hiền minh lưỡng lự”(50) của tiểu thuyết chứ sao!
Cũng vậy, khi Kiều trả thù, có thể nàng vẫn căm phẫn bà phu nhân già họ Hoạn,
nhưng một bà già tuổi tác như bà ta lại cũng có thể làm cho nàng – vốn là một
cô gái hết sức nhạy cảm – động lòng trắc ẩn. Ngay Kim Vân Kiều truyện
tuy có cho điệu bà ta đến nhưng rồi cũng tha kia mà. Trong các bộ luật hiện đại
của nhiều nước văn minh, có điều luật đặc cách đối với những kẻ phạm pháp đã
già nua không bắt phải thi hành án. Thời đại Thúy Kiều là thời Gia Tĩnh triều
Minh, luật lệ còn man rợ, nhưng Nguyễn Du cứ để cho Kiều không thèm truy xét bà
mẹ Hoạn Thư, chứng tỏ cái nhìn viễn kiến vượt lên trước thời đại của nhà thơ.
Riêng Hoạn Thư, trong Kim Vân Kiều truyện bị treo lên xà nhà đánh đủ một
trăm roi, thì trong Truyện Kiều lại được biệt đãi. Phải nhìn vào cuộc đối
thoại giữa hai con người tình địch và diễn biến tâm lý Thúy Kiều trong thời điểm
ấy. Khi nói với Thúc Sinh nàng đã hiểu giữa mình và Hoạn Thư là hai đối thủ
không vừa “Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau”. Hoạn Thư bị dẫn ra, nàng chủ
động lên tiếng trước, lời lẽ xã giao, lịch sự, nhưng chứa đầy thách thức: “Thoắt
trông nàng đã chào thưa / Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây / Đàn bà dễ có mấy
tay / Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan / Dễ dàng là thói hồng nhan / Càng cay
nghiệt lắm càng oan trái nhiều”. Nàng có ngờ đâu Hoạn Thư “hồn lạc phách
xiêu” mà vẫn trấn tĩnh được, đáp lại thật nhũn nhặn, và lại biết giữ thể diện,
nhận phần lỗi về mình “Trót lòng gây việc chông gai / Còn nhờ lượng bể
thương bài nào chăng”, đồng thời cũng khéo léo nhắm vào những chỗ yếu của
lòng người để khơi gợi đối thủ: “Rằng tôi chút phận đàn bà / Ghen tuông thì
cũng người ta thường tình / Nghĩ cho khi các viết kinh / Với khi khỏi cửa dứt
tình chẳng theo / Lòng riêng riêng những kính yêu / Chồng chung chưa dễ ai chiều
cho ai...”. Kiều phải thừa nhận Hoạn Thư là người “Khôn ngoan hết mực
nói năng phải lời”. Cuộc đối thoại chấm dứt bằng sự tha bổng là điều ai
cũng thấy trước, một thách đố cam go, trong đó Hoạn Thư đã đánh rất trúng tâm
lý người đối thoại: “Tha ra thì cũng may đời / Làm ra thì cũng ra người nhỏ
nhen”. Chỉ tiếc vì không hiểu tiếng Việt, ông Đổng Văn Thành đã không thể
theo dõi hết các biến thái tâm trạng trong màn đấu lý căng thẳng mà hấp dẫn vốn
là một trong những đoạn thành công nhất của Truyện Kiều.
Từ một vài phân giải sơ lược của chúng tôi về giá trị Truyện
Kiều của Nguyễn Du, chúng tôi nghĩ, chỗ khác nhau cơ bản giữa chúng tôi với
ông Đổng Văn Thành là cách nhìn nhận sức mạnh đích thực của tiểu thuyết. Tiểu
thuyết không phải bày ra trước chúng ta một câu chuyện thật ly kỳ để chúng ta
thưởng thức cho thỏa thích mà khi đọc xong không cần bận tâm đến nữa vì đó là
chuyện đã được nói rồi, không có gì khám phá mới mẻ, và cũng chẳng liên quan đến
vận mệnh của một người nào. Tiểu thuyết cũng không phải treo một tấm gương đạo
đức cho người ta nhìn ngắm với lòng ngưỡng mộ và noi gương học hỏi, lại cũng
không nhất thiết phải là bài học đấu tranh sát sườn giữa thiện và ác, giữa thống
trị và bị trị, giữa bóc lột và nô lệ... để rút kinh nghiệm cho “trận cuối cùng”
của nhân loại trên con đường hành hương về miền đất hứa. Đó là những loại tiểu
thuyết đã từng xuất hiện một thời, dưới các cơ chế toàn trị, nhưng cũng đã biến
đi rất chóng. Tiểu thuyết tự nó giữ một vị trí khiêm tốn hơn nhiều lắm. Nó là
những chuyện bịa, dắt người ta vào vô số cuộc phiêu lưu không định hướng, và
cũng không răn dạy gì to tát cho bất kỳ ai. Nhưng những điều mà nó mách bảo, dù
chỉ rất ít vẫn là những điều con người không thể nào lường trước. Đó mới là
năng lực khám phá sự sống kỳ điệu của nhà tiểu thuyết tài năng. Tiểu thuyết
không nói với con người cái tất định mà là cái đang diễn ra ở phía trước mình,
nó khiến con người không sao bình yên được vì bỗng nhiên như tìm ra một thứ ánh
sáng khác lạ soi vào cuộc đời, làm đảo lộn mọi sự vật hàng ngày mà người ta ngỡ
đã quá quen thuộc. “Mỗi cuốn tiểu thuyết nói với độc giả: Sự vật ở đời phức tạp
hơn anh tưởng”(51). Nó nói về sự mong manh của thân phận con người
trước rất nhiều ngả của dòng đời tuôn chảy, đặt cho con người những mối hoài
nghi, những băn khoăn thấp thỏm về chính cõi người. Nó gợi lên những câu hỏi nước
đôi, những giấc mơ và sự thật, hiện hữu và cái phi lý của hiện hữu. Nó giúp con
người tự phân thân, tách mình ra để nhìn lại cái bề ngoài của mình tưởng không
liên quan đến mình. Nó cũng giúp con người tự khám phá vào thế giới bên trong
sâu thẳm và nhiều khi đối với mình là cả một kho bí ẩn. Tiểu thuyết vì thế,
không đẩy con người quay về quá khứ mà hướng con người đi tới.
Trong một chừng mực nào đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du
đã làm được vai trò có vẻ nhỏ nhoi nhưng thực đáng giá đó của một cuốn tiểu
thuyết. Mượn lại một câu chuyện xảy ra vào triều Minh xa lắc, Nguyễn Du đã làm
cho bao nhiêu thế hệ người Việt từ hơn hai thế kỷ nay mê man say đắm, vì ông đã
làm cho nàng Kiều hóa thân vào từng thế hệ, trở thành nỗi ưu tư, sầu khổ, thành
“cái tôi” dằn vặt, những dấu hỏi về vận số, thành khát vọng sống của mọi giới
người, nói như Mộng Liên Đường Chủ nhân: “Tố Như Tử dụng tâm đã khéo, tả cảnh
như hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông cả sáu cõi, tấm
lòng nghĩ suốt nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”(52). Chính khả năng hướng
tới hiện đại của nhà thơ đã quy định số phận khác nhau giữa Kim Vân Kiều
truyện và Truyện Kiều. Toàn bộ câu chuyện kể của Thanh Tâm Tài Nhân,
không phải không hay, rất hấp dẫn là khác, nhưng đó là một câu chuyện của quá
khứ, từ rất lâu rồi không còn để một ngờ vực băn khoăn gì cho con người hiện tại.
Số phận của nó đã thực sự kết thúc. Còn tác phẩm của Nguyễn Du, mỗi lần đọc lại
vẫn cứ đưa lại một vài khám phá mới mẻ lần đọc trước chưa thấy – “một mẩu của sự
sống” (un fragment de la vie) mà theo Herman Broch, chỉ có tiểu thuyết mới khám
phá ra được. Nó vẫn còn hiện diện ở giữa cõi nhân gian, vẫn là cuốn tiểu thuyết
đối thoại hàng ngày với chúng ta.
Công lao của Thanh Tâm Tài Nhân không nhỏ. Không có Thanh
Tâm Tài Nhân thì ắt hẳn không thể có Truyện Kiều của Nguyễn Du như cái
hình thức mà nó tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù có thể có một truyện thơ khác.
Nhưng cũng lại phải nói cho công bằng, chính nhờ Truyện Kiều của Nguyễn
Du ngày một nổi tiếng, vượt ra khỏi biên giới nước mình, mới là một động cơ để
những học giả như ông Đổng Văn Thành cố gắng làm cho Kim Vân Kiều truyện
được độc giả trong và ngoài Trung Hoa quan tâm trở lại. Sự đời có nhân có quả
chính là như vậy.
Hà Nội, ngày 17 tháng 11 năm 2005 – Boston, ngày 21 tháng
12 năm 2015
Chú thích
30. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1553. Nguyên
văn: “來 了 一 個 好 漢 。[姓] 徐 名 海。號 明 山 和 尚。越 人 也。開 濟 豁 達。包 含宏 大。 等 富 貴 若 弁 毛。 視 儔 列 如 草 莽。氣 節 邁 倫。高 雄 蓋 世。深 明 搯 略。 善 操 奇 正 。[嘗] 曰。天 生 吾 才 必 有 吾 用。有 才 無 用。天 負 我 矣。設 若 皇 天 負 我。我 亦 可 負 皇 天。大 仗 夫 處 世 當 磊 磊 落 落。建 不 朽 于 天 壞。安 能 隨 肉 食 者 老 死 牖 下。縱 有 才 無 命。 英 雄 無 用 武 之 地。[不 能] 流 芳 百 世。亦 當 自 我 造 命。弄 兵 黃 池。遺 聇
萬 年。 不 然。這 腔 子 內 活 潑 潑 的 熱 血。如 何 得 發 付 也。早 年 習 儒 不 就。棄 而 為 商。財 用 充 足。最 好 結 交 朋 友”; Tập 5, trnv. 93-94. Trong các bản Kim
Vân Kiều truyện chữ Hán ở thư viện Việt Nam, đoạn này có bị lược đi một số
câu.
31. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1566. Nguyên
văn: “書 中 王 翠 翹 和 金 重 相 識 于 清 明 節 。 不 久 便 進 入 熱 戀 阶
段 。 前 後 整 個 戀 愛 歷 程 不 超 過 半 年 。 阮 攸 冩 二 人 戀 愛 環 境 時 却 出 現 了 冬 境 的 描 冩: 墻 頭 霜 濃 雪 厚”; Tập 5, trnv. 104.
32, 33. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1570.
Nguyên văn: “從 原 故 事 的 描 冩 看。王 翠 翹 真 正 愛 的 是 金 重。對 束 守 和 徐 海 主 要 是 感 其 贖 身 之 恩” và “因 為 詩 人 過 分 追 求 主 觀 感 情 的 寄 托 而 損 害 了 人 物 形 象 的 完 整 與 統 一”; Tập 5, trnv.
108.
34. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1558-1559.
Nguyên văn: “可 是 到 阮 攸 筆 下。同 官 吏 句 結 的 犯 人 响 馬 賊 被 改 成 了 “絲 商”。王 家 被 抄 劫 刑 訊 的 原 因 被 歸 結 為 “事 起 絲 商 誣 告。羅 織 罪 愆”。應 捕 和 公 差 的 暴 行 并 非 為 了 逼 索 賄 賂。而是 “雖 是衙 役。但 秉 慈 心。 体 諒 她 至 情 重 孝。不 禁 憐 憫 深 深 。 他 暗 中 安 排 辯 法 索 銀 三 百。作 為 結 案 罰 金”; Tập 5, trnv. 99.
35. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1560. Nguyên
văn: “阮 攸 把 這 兩 個 無 辜 奴 才 的 不 幸 遭 遇 改 移 到 宦 氏 的 兩 個 “熟 人” 身 上。冩 她 對 自 己 的 “熟 人” 翻 臉 為 仇。 撒 潑 施 虐。 雖 然 也 表 現 了 她 的 嫉 妒和 狠 毒。但 階 級 壓 逼 的 意 義 就 被 抽掉 了”; Tập 5, trnv. 100.
36. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1561. Nguyên
văn: “小 説 對 宦 氏 母 女 派 豪 奴 惡 仆 劫 持 翠 翹 的 強 盗 行 為 十 分 憤 慨。特 為 所 派 去 的 豪 奴 取 名 為 “宦 鷹” 和 “宦 犬” 以 寓 “宦 門 鷹 犬” 之 意。阮 攸 把 二 豪 奴 改 名 為 “阿 鷹” “阿 犬”。冲 淡 了 對 其 權 貴 走 狗 身 份 的 批 判 含 義”; Tập 5, trnv. 100.
37. Nguyên văn: “兩 邊 了 頭 應 一 聲 。把 翠 翹 拖 翻 在 地 。拏 手 的 打 手 。拏脚 的 打 脚。按 頭 的打 頭。一 個 喝 聲 打 杖。一 個 跪 下 記 數。 劈 空 一 板 打 將 下 去。翠 翹 呌 喞 喲 一 聲。臀 上 絕 火 燒 。魂 魄 已 不 失 了。那 無 情 竹 板 下 下 打 在 一 處 。不 須 三 五 板 。皮 破 血 流”.
38. Nguyên văn: “若 胡 支胡 掩。我 這 裡 上 了 板 子。發 還 老 夫 人 處。活 活 敲 死”.
39. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1561-1562.
Nguyên văn: “冩 宦 氏 把 翠 翹 帶 回 家 中 折 辱。更 是 溫 情 脉 脉: 小 姐 談 到 絲 竹 宮 商。她 受 命 抱 琴 演 奏 。 水 流 嗚 咽 動 人 腸。小 姐 頓 生 憐 惜。威 稜 梢 歛 鋒 芒。不 僅 如 此。[阮 攸] 還 删
掉 宦 氏 刑 訊 翠 翹 來 歷 細 節。改 為 宦 氏 囑 束 生 向 她 根 查 來 歷”; Tập 5, trnv.
101.
40. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1562. Nguyên
văn: “冩 到 後 來 翠 翹 復 仇。 輕 輕 放 過 了 宦夫 人。根 本 沒 有 派 人 抓 她”; Tập 5, trnv. 102.
41. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1562-1563.
Nguyên văn: “宦 氏 這 次 被 帶 來。不 僅 未 傖 一 根 豪 毛。還 跟 丈 夫 束 生 借 光。夫 婦 倆 领 到 王 翠 翹 對 束 生 報 恩 的 “千 兩 銀。百 匹 錦” 滿 載 而 歸”; Tập 5, trnv. 102.
42, 43. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1563.
Nguyên văn: “阮 攸 之 所 以 這 樣 冩。當 然 是 出 于 對 自 己 出 身 的 貴 族 階 級 人 物 的 同 情。千 方 百 計 掩 飭 其 階 級 壓 逼 的 罪 行。把 一 場 嚴 肅 的 階 級 斗 爭 修 改 成 了 單 純 的 妻 妾 爭 風 吃 醋 的 家 庭 糾 紛。聲 青 要 復 仇 的 翠 翹。見 了 仇 人 反 而 佩 服 其 辯 才 而 贊 其 善 改 過。這 種 修 改。顯 然 是 對 小 説 原 作 深 刻 政 治 性 內 容 的 嚴 重 歪 曲 和 算 改”; Tập 5, trnv. 102.
44. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1558. Nguyên
văn: “中 城 兵 馬 司 的 楊 兵 馬 只 據 犯 人 供 詞 中 對 王 員 外 牽 連 他 句 把 儿。便 不 察 真 偽 利 用 這 點 假 供 詞 做 借 口。立 即 派 了 七 八 個 做 公 的 闖 入 王 家 劫 掠 財 物。 刑 訊 勤 索”; Tập5, trnv.
98.
45, 46. Xin xem Nguyễn Đăng Na. “Lời dẫn về văn bản”. In đầu
bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh,
Sđd; tr. 21.
47. Nguyên văn: “我 老 终 身 雖 在 衛 門。却 吃 一 口 長 素。做 得 的 做 。做 不 得 的 定 不 去 結 案 [...] 姑 娘 你 為 令 尊 賣 身 是 甚 麼 錢。怎 敢 花 費。 我 三 百 銀 子。放 在 我 家。先 同 令 尊 令 弟 見 了 本 官。 當 面 討 個 執 炤。與 你 家 無 干。然 後 將 銀 送 去。就 見 响 馬。我 與 他 説 明。不 許 攀 址 你 家 。把 銀 子 與 他。我 們 這 夥 干 理 有 十 個 頭 目。把 銀 分 他。説 王 家 事。是 我 管 的。凡 各 衛 門。有 甚 風 聲。都 求 列 位 遮 葢”.
48. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1560. Nguyên
văn: “小 説 原 作 對 階 級 對 立 的 描 冩 是 很 鮮 明 突 出 的 và 原 則 性 的 政 治 界 限”; Tập 5, trnv.
99.
49, 50, 51. Milan Kundera. Nghệ thuật tiểu thuyết.
Nguyên Ngọc dịch. Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001; tr. 13, 14 và 26.
52. Tựa Truyện Kiều, 1820. Trần Trọng Kim dịch.
Nguyên văn: “素 如 子 用 心 之 苦。敘 事 之 神。冩 景 之 工。談 情 之 切。自 非 眼 浮 六 合。心 貫 千 秋。未 必 有 始 如 此 力 也”.
Ông Đổng Văn Thành董文成, sinh tháng 2 năm 1941, năm
1981 tốt nghiệp Thạc sĩ tại Khoa văn học Trung Quốc, Trường Đại học Liêu Ninh 辽宁大学, sau đó được phong dần đến chức
Giáo sư và Phó chủ nhiệm Phòng văn học Cổ đại Đại học Liêu Ninh.