Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2015
Nguyễn Hưng Quốc - Vấn đề dạy môn Lịch sử ở Việt Nam
Trong bài “Tại
sao cần học lịch sử?”,
tôi nêu lên sự kiện: Đó là môn học, theo ghi nhận của báo chí trong nước, thầy
cô không muốn dạy còn học trò thì không muốn học. Tại sao nên ra nông nổi như vậy?
Tại sao ở những nước khác, lịch sử thu hút sự chú ý của khá đông học sinh và
sinh viên, nhưng ở Việt Nam thì, từ trung học đến đại học, ai cũng hờ hững và
tránh né? Câu trả lời, theo tôi, nằm ở hai yếu tố chính: chương trình và cách
thức giảng dạy. Không có đủ tài liệu về chương trình và cách thức giảng dạy,
trong bài này, tôi thử nhìn môn lịch sử tại Việt Nam qua góc độ các bài thi tốt
nghiệp cũng như thi tuyển vào đại học.
Đây là đề thi Tốt
nghiệp Trung học Phổ thông của môn sử năm 2012:
I. PHẦN CHUNG CHO
TẤT CẢ THÍ SINH (7,0 điểm)
Câu 1. (3,0 điểm): Trình bày nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa
lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam.
Câu 2. (4,0 điểm): Nêu nội dung cơ bản của Hiệp định Pari năm
1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Hiệp định trên đã tạo
điều kiện thuận lợi gì để nhân dân ta tiếp tục đấu tranh giải phóng hoàn toàn
miền Nam?
II. PHẦN RIÊNG
– PHẦN TỰ CHỌN (3,0 điểm)
Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu 3.a hoặc 3.b)
Câu 3.a. Theo chương trình Chuẩn (3,0 điểm): Nêu tình hình
kinh tế, khoa học - kỹ thuật của nước Mĩ trong giai đoạn 1945-1973. Việc áp dụng
những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại có tác dụng gì đối với sự phát triển
của nền kinh tế Mĩ?
Câu 3.b. Theo chương trình Nâng cao (3,0 điểm): Trình bày nội dung các
chiến lược phát triển kinh tế của nhóm năm nước sáng lập ASEAN sau khi giành được
độc lập đến năm 2000. Vì sao từ những năm 60-70 của thế kỷ XX, các nước này có
sự chuyển hướng trong chiến lược phát triển kinh tế?
Còn đây là đề thi
tuyển sinh đại học môn Lịch sử năm 2012:
I. PHẦN CHUNG
CHO TẤT CẢ THÍ SINH (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm):
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp đã tác động như thế nào
đến nền kinh tế Việt Nam?
Câu 2 (2,0 điểm):
Từ năm 1919 đến năm 2000, lịch sử Việt Nam đã trải qua những thời kỳ nào? Khái
quát nội dung chính của thời kỳ lịch sử diễn ra sự kiện quân và dân ta đập tan
tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp.
Câu 3 (3,0 điểm):
Cuối tháng 3-1973, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã có quyết định gì để hoàn
thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam? Quyết định đó được đề ra dựa trên những
cơ sở nào? Tóm tắt diễn biến của chiến dịch Hồ Chí Minh (tháng 4-1975).
II. PHẦN RIÊNG
(3,0 điểm)
Thí sinh chỉ
được làm một trong hai câu của phần riêng (câu 4a hoặc câu 4b)
Câu 4a. Theo
chương trình Chuẩn (3,0 điểm): Khái quát chính sách đối ngoại của Nhật Bản
trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Câu 4b. Theo
chương trình Nâng cao (3,0 điểm): Từ năm 1950 đến năm 2000, vị thế ngày càng
nâng cao trên trường quốc tế của Ấn Độ được thể hiện như thế nào trên lãnh vực
kinh tế, khoa học - kỹ thuật và chính sách đối ngoại?
Thật ra, ngoài
hai đề thi ở trên, tôi cũng đọc khá nhiều đề thi khác; tuy nhiên, vì tất cả đều
có cấu trúc khá giống nhau nên để tránh dài dòng, tôi không trích thêm.
Qua hai đề thi ấy,
chúng ta có thể rút ra một số nhận xét:
Thứ nhất, môn sử
lớp 12 bao gồm hai phần chính: Việt Nam và thế giới trong thế kỷ 20. Trong lịch
sử Việt Nam, hai ưu tiên chính là cuộc chiến tranh chống Pháp và cái gọi là chiến
tranh chống Mỹ, ở đó, điều người ta muốn làm nổi bật lên là vai trò lãnh đạo của
đảng Cộng sản. Ở phương diện này, môn lịch sử không khác mấy với môn chính trị
với đặc điểm quan trọng nhất là tuyên truyền cho các thành tích của đảng Cộng sản.
Thứ hai, cấu trúc
các câu hỏi rất đơn giản và đơn điệu: “Nêu lên”, “trình bày”, “tóm tắt”, “là
gì?’ và “như thế nào?”. Cả năm loại câu hỏi này chỉ cần một điều kiện duy nhất
là nhớ thuộc lòng. Để thấy rõ khuyết điểm này, thử làm một sự so sánh: Trong
các đề thi môn sử tại Úc,
hệ thống từ vựng dùng để đặt câu hỏi rất đa dạng, từ nhận diện (identify) đến
giải thích (explain), đánh giá (evaluate), thảo luận (discuss), phân tích
(analyse) và tranh luận (“to what extent do you agree with this statement). Nói
cách khác, trong khi ở Úc cũng như hầu hết các nước Tây phương khác, qua các kỳ
thi của môn sử, điều người ta chú ý nhất ở học sinh là khả năng nhận diện vấn đề,
phân tích, đánh giá và tổng hợp các tài liệu, tranh biện với một số nhận định
nào đó, thì ở Việt Nam, điều duy nhất người ta đòi hỏi ở học sinh là nhớ những
gì được viết trong sách giáo khoa cũng như những lời giảng của các thầy cô
trong lớp.
Thứ ba, với cách
đặt câu hỏi trong các kỳ thi như thế, về phương pháp giảng dạy và học tập, giáo
viên không cần làm điều gì khác ngoài việc đọc cho học sinh chép câu trả lời của
từng vấn đề có thể xuất hiện trong các đề thi. Và học trò cũng không cần đọc
thêm bất cứ điều gì ngoài chương trình giảng dạy trong lớp. Điều này giải thích
tại sao cả thầy lẫn trò đều chán môn lịch sử: Nó hoàn toàn không có chút sáng tạo
nào cả. Điều này cũng làm cho những lời kêu gọi thay đổi phương pháp giảng dạy
và học tập ở Việt Nam đều trở thành vô ích bởi tất cả những sự thay đổi đó, cho
dù hay đến mấy, cũng mất hết tác dụng trước cách ra đề thi chỉ tập trung vào việc
học thuộc lòng như thế.
Thứ tư, với cách
đặt câu hỏi như vậy, người ta cũng có thể nhận diện triết lý giáo dục môn sử tại
Việt Nam: nhồi sọ. Chỉ là nhồi sọ. Ở Tây phương, triết lý giáo dục của môn sử
cũng như hầu hết các môn học khác là nhằm phát triển đầu óc phê phán (critical
mind) của học sinh, giúp học sinh biết tìm kiếm tài liệu, đánh giá mức độ khả
tín của tài liệu, phân tích và tổng hợp các tài liệu ấy nhằm chứng minh cho một
luận điểm mà mình tin tưởng và muốn thuyết phục người khác. Bởi lịch sử nào
cũng gắn liền với hiện tại, người ta còn muốn học sinh, khi tìm hiểu quá khứ,
còn nhận thức rõ hơn về tình hình chính trị và xã hội trong hiện tại, do đó, kỹ
năng ứng dụng kiến thức vào đời sống rất được coi trọng. Ở Việt Nam thì khác.
Khi chỉ yêu cầu học sinh khả năng nhớ thuộc lòng, người ta chỉ muốn biến học
sinh thành những con vẹt, chỉ biết tiếp nhận tất cả những gì được thầy cô giáo
truyền thụ. Cách dạy như thế, dưới mắt nhìn của phương Tây, bị xem là lạc hậu,
thậm chí, phản giáo dục.
Với một môn học
phản giáo dục như vậy, giữ nguyên hay “tích hợp” với các môn khác, thật ra,
cũng chả có gì quan trọng.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét