Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2015
Nguyễn Hoài Vân - Sartre, triết gia của Tự Do
![]() |
Jean-Paul Sartre |
Nếu phải dùng một chữ
để tóm tắt tư tưởng của Sartre thì tôi sẽ chọn "Tự Do".
Sartre là triết gia của tự do. Điều này càng nặng ý nghĩa trong một
giai đoạn mà người ta đặt trên mọi
hành vi của con người đủ loại quy định, từ di truyền, tiến hóa, vô thức,
chiều đi "tất yếu" của lịch sử, cấu trúc của văn minh,
văn hóa, của
tương quan xã hội, chưa kể
dòng cuốn của giáo dục, của truyền thống, cũng như sức nặng của
môi trường, từ môi
trường thiên nhiên đến môi trường tâm lý...
Nếu tất cả đã được
quy định, thì tự do không có chỗ đứng, và chúng ta chỉ là những con rối trong
tay định mệnh, không hơn gì cây soài phải cho ra trái soài, con chó phải sủa "gâu gâu", người Việt Nam phải "gì cũng cười", như
lời Nguyễn Văn Vĩnh, người Pháp phải thích rượu nho,
người Ý mê tán gái, và người Phi Châu giỏi
chạy bộ... Trước những quy định được coi như đương nhiên ấy, Sartre, mặc dù không chối bỏ chúng, đã đem con người
ra khỏi cái hệ thống chằng chịt che khuất và bóp nghẹt tính Nhân Bản, đến
một bầu trời tự do, trong đó mỗi
cá nhân là một sự trở thành, như một trang giấy trắng, trên đó người
ta
có thể tự do viết lên câu chuyện của cuộc đời mình.
Quy định duy nhất còn
tồn tại, là con người bị "kết án phải tự do". Đồng thời nó lại
phải tự giải phóng mình. Mâu thuẫn này đến từ ý thức. Sự vật trong trời đất chỉ có thể "là
cái chúng là", hiện hữu của chúng là "hiện hữu tự nó".
Tảng đá, hoa hồng, con mèo, không thể là gì khác. Con người cũng có thể
chỉ là "cái nó là" : thày giáo, ca sĩ, thày tu, bác sĩ, v.v... với những
quy định trói buộc mình trong một vai trò, như diễn
viên của một vở kịch.
Tuy nhiên, ý thức cho phép con người đem hư vô vào sự hiện hữu đã
được
quy định ấy, tức đem cái « không hiện hữu » vào thực tại. Một cách cụ thể, ý thức
cho phép hình dung cái không có. Ta gọi đó là tưởng tượng
hay dự phóng ... Người
yêu của tôi không có mặt trong gian phòng này. Mặc dù vậy, tôi chỉ nghĩ đến
nàng. Mọi thứ ở đây trở thành hư vô,
không hiện hữu. Chỉ có nàng hiện hữu
trong tâm trí tôi. Hay đúng hơn
là trong tâm trí tôi chỉ có sự vắng mặt, sự « không hiện hữu » của nàng. Rồi, tôi
thả hồn đến với nàng, mường tượng giây phút gặp lại nàng, sẽ thế
này, thế khác … Đó là mầu nhiệm của tự do.
Chính bản thân tôi cũng
mang khả năng "là cái mình không là". Linh mục có thể điên cuồng yêu đương, bác sĩ có thể làm thơ
con cóc, tổng bí thư có thể tiểu bậy đầu đường, Đạt Lai Lạt Ma có thể lắc lư nhảy rock ... Đó là "hiện hữu vì nó", cho phép tự do trở thành, để nhân sinh là một dự phóng, một câu chuyện được
viết lên từ hư không.
Vấn đề nằm ở chỗ
chúng ta vừa là "cái mình là", "hiện hữu tự mình", như
một sự vật, hành
động không khác diễn viên của một vở
kịch, vừa là "cái mình không là", “hiện hữu vì
mình", hư vô hóa mọi vai trò đã được định trước.
Hai khía cạnh ấy diễn bày mâu thuẫn đã nói ở trên,
đồng thời, vì chỉ có con người mang
mâu thuẫn này, nên đó chính là ngọn lửa chiếu ra ánh sáng Nhân Bản nơi con người : Hiện Sinh là một lý thuyết Nhân Bản.
Ý thức tự do cũng là
ý thức rằng : « cái tôi là » không có lý do gì để hiện hữu. Nói
cách khác, tôi, như một « hiện hữu vì mình », không phải chịu bất
cứ ràng buộc
hay quy định nào (nếu không thì không
còn tự do !), nên tôi hoàn toàn có thể hiện hữu hay không, có thể thế này
hay thế khác. Sự hiện hữu "vì mình" của tôi, như thế, hoàn toàn ngẫu
nhiên, cũng như sự không hiện hữu của tôi. Rồi sự tước đoạt ý nghĩa của
hiện hữu cá nhân, lan đến hiện hữu của sự vật chung quanh, cũng bị xóa
đi mọi ý nghĩa. Kết quả là một cảm giác chóng mặt đến « buồn nôn », tựa
của một tiểu thuyết thường được
trích dẫn …
Như đã gợi
ý ở trên, sự tự do của ý thức mâu thuẫn với thực tế của bản thân. Tôi là đàn ông hay đàn bà, cao hay thấp, xấu hay đẹp, giàu hay nghèo, dân nước
này hay nước khác … là những thực tế mà tôi đã
không chọn lựa. Nếu sự tự do cho phép tôi luôn có thể vượt lên khỏi những quy
định vừa nói, nếu con người tự nó là một sự siêu việt, luôn có khả năng
thoát khỏi những trói buộc của một sự nhận dạng cố định, để tạo nên một khoảng
cách, để "hư vô hóa" những gắn bó với cái « nó là », thì có một yếu tố khiến
khả năng ấy bị hóa giải. Đó là cái nhìn của người khác.
Người khác nhìn bạn như cái bạn
« là », tức khía cạnh thực tế của bản thân bạn. Ý thức cái nhìn ấy
đem bạn trở về với cái thực tại bị quy định, xóa bỏ khoảng cách của "hiện
hữu vì nó" (không bị quy định), với « hiện hữu tự
nó » (bị quy định).
Sartre lấy thí dụ một người
nhìn trộm qua ổ khóa : ý thức của anh ta thoát khỏi thực tế bản thân, và
trở thành ý thức những gì anh ta đang nhìn. Chợt có người bước đến
trông thấy anh ta. Khi ấy, anh ta bị lôi về với thực tại : anh ta là một thày giáo, đang lom khom nhìn qua ổ khóa. Cái nhìn của tha nhân, đem chúng ta trở
lại ngục tù của một thực tại bị quy định. Đó là ý nghĩa của
câu : « địa ngục là tha nhân ». Thật
vậy, tha nhân hiện diện như những
hiện hữu "có lý do", vì được
quy định, trong khi hiện hữu « vì mình » của tôi như một hư không. Nó vô ích, ngẫu
nhiên, không có lý do gì để tồn tại. Tôi có thể cảm thấy cần phải lẩn tránh mặc
cảm này để khoác cho mình một chiếc áo, mang một mặt
nạ, ẩn trốn sau một vai trò, để
hy vọng rằng với nó, tôi « có quyền » hiện hữu như một
nhân vật cần thiết, được Thiên Chúa hay xã hội tạo nên, được
giao phó cho một sứ mạng. Sartre gọi con
người ấy là một kẻ đểu giả, lừa
dối người, và tự lừa dối mình …
Trong phần sau của cuộc
đời ông, Sartre tìm cách đem thuyết Hiện Sinh ra khỏi ranh
giới cá nhân, để hội nhập nó vào xã hội. Tác phẩm chủ yếu của giai đoạn ấy là Phê
Bình Lý Trí Biện Chứng.
Biện chứng là một
chuỗi phủ định, cũng như
sự phủ định cái tôi thường
hữu, "hiện hữu tự nó", hiện hữu như một sự vật, đã được phân tích
trong "Hiện hữu và Hư
Vô". Ở đây, con người
kết hợp với những người khác qua hành động tập thể, để phủ định một cấu trúc xã
hội, và hình thành một hệ thống tương quan
mới. Tổng hợp của những hành động tập thể ấy, là lịch sử. Qua lịch sử, ý
nghĩa của hành vi của con người
trong bối cảnh xã hội, có thể được nhận diện.
Lập lại Marx, Sartre cho rằng con người làm nên lịch sử, nhưng trong điều kiện đã được định
trước.
Điều kiện ấy là sự thiếu thốn. Vì sợ thiếu thốn nên người ta làm việc, rồi
tích lũy, chiếm đoạt, đưa đến bất công và đấu tranh. Thiếu thốn luôn ẩn tàng dưới
mọi hành động tập thể, chẳng hạn như đấu tranh. Vì thế, dù đấu tranh khởi đi từ
"tự do hành động", sự tự do ấy cũng sẽ "hư vô hóa" chính nó, để tình đồng chí
huynh đệ biến thành áp đặt, kỷ luật, thậm chí thanh trừng sắt máu. Tương tự như thế, những lý tưởng tự do cao đẹp của các cuộc cách mạng
cũng biến thành cái "nó không là", với độc tài, giết chóc, tàn sát, lưu đày tập thể.
Rồi, cùng với cảm giác thiếu thốn, môi trường xã hội và thiên nhiên, như "nó là", hiện hữu "tự
nó", luôn được cảm nhận như
một đe dọa đối với sự hiện hữu "vì nó" của con người. Tự do bị đe dọa, hành động của con
người bị
điều kiện thực tế đảo ngược,
khiến nó không làm được điều nó đã muốn, và không muốn những gì nó đã phải làm
(lời các cựu chiến binh khi quay lại nơi đã bị họ tàn phá).
Trong điều kiện ấy, con người làm sao lấy lại
được sự tự do của mình trong lịch sử ? Câu trả lời là: bằng cách Hiểu Biết những
cơ chế
của hành động tập thể, bắt đầu từ sự thiếu thốn, thâm nhập sâu xa vào tâm thức.
Khi ấy, trong đấu tranh, tôi ý thức được những động cơ của đối phương, những kẻ cũng đấu tranh
như tôi, tôi hiểu được kẻ thù từ bên trong đầu óc họ. Như thể tôi tự đồng hóa với
họ...
Quan điểm về lịch sử của Sartre được coi như không phù hợp với những quan sát của
Nhân Chủng học, đưa đến một cuộc tranh cãi rất được chú ý với Claude Lévy
Strauss, mà chúng ta có thể bàn đến trong một dịp khác.
Mặt khác, nhiều người, như Merleau Ponty, cũng nhận xét là Sartre
đã không biện minh được cho sự tổng hợp những ý thức cá nhân « hiện hữu vì
nó », tức những "định mệnh" riêng rẽ, phức biến và đa dạng,
trong một dòng chảy duy nhất là lịch sử. Trong "Hiện Hữu và Hư Vô", sự vật hiện hữu qua ý thức của
mỗi cá nhân, một cách độc lập, tự do, không quy định. Vậy, làm sao dòng lịch sử,
với bản chất là liên tục lưu
chuyển, có thể có được một ý nghĩa đồng nhất, khi nó phải tổng hợp sự cá biệt,
gián cách, của muôn triệu ý thức nơi mỗi con người ?
Những khó khăn kiểu này nhiều khi đã đưa
Sartre đến tự mâu thuẫn. Tuy nhiên, phải chăng sự « hư vô hóa » quan
điểm của chính mình như thế, chính là điều kiện để suy tư là một sự trở thành
không bị trói buộc, và đó chính là "Hiện Sinh"?
Trong cuộc sống của Sartre, nhiều mâu thuẫn cũng
đã được ghi nhận. Từ triết gia của tự do cá nhân, ông trở thành "bạn đường"
của đảng Cộng Sản. Từ thân Liên Sô, Cuba, Trung Hoa… gọi « những kẻ chống
Cộng là đồ chó », ông trở thành người vận động tích cực cho việc đón
nhận thuyền nhân Việt Nam. Sartre từ bạn, trở thành đối thủ, trước khi làm hòa
với Aron, cũng như với Camus (khi ông này qua đời)… Thật ra, một số mâu thuẫn
có thể đến từ tính khí cá nhân hơn là triết lý, như việc Sartre không ngớt hô
hào « trí thức dấn thân » nhưng lại « rất ít dấn thân » trong thời
Quốc Xã (thậm chí từng chiếm chỗ dạy học của một đồng nghiệp gốc Do Thái)...
Dù sao, một trong những ấn tượng mà Sartre còn để lại ngày hôm nay, có lẽ vẫn là thái độ không nhân nhượng,
không những đối với
các trào lưu tư tưởng thời thượng, mà cả với suy tư của chính mình.
Nguyễn Hoài Vân
11/12/2015
Đọc thêm :
Vì sao Sartre từ chối
giải Nobel ?
Lý do Sartre từ chối
giải Nobel được thấy rõ trong "Les Mots" (Lời
Nói). Ông coi sách vở
như những
nấm mồ, và tủ sách như một
nghĩa trang. Tư tưởng được đưa vào sách vở để chết và rữa nát trong đó. Chết, vì không còn được
cập nhật, không còn có thể "tiến hóa". Rữa nát vì tất cả những gì nói
ra vào một thời điểm sẽ bị phủ định, gạt bỏ, một phần hay toàn thể, sau đó.
Giải Nobel tưởng thưởng toàn bộ công trình,
tác phẩm của một nhà văn. Nếu Sartre nhận giải Nobel, thì ông phải tự coi như mình đã chết, đã được cho vào
mồ, vào nghĩa địa, như những quyển sách đã mất tác giả. Sartre cho rằng mình vẫn
sống, vẫn hiện hữu, và hiện hữu, đối với ông, là một tiến trình, một "dự
án" luôn được cập nhật, hôm nay khác với hôm qua, ngày mai khác ngày hôm
nay.
Ông không thể chấp nhận để người ta nhét vào
một ngôi mộ, sau khi đậy nắp quan tài với một giải thưởng tôn vinh "toàn bộ" công
trình văn học và tư tưởng
của mình, như thể nó đã chấm dứt, nó chỉ là thế !
Điều ấy phản lại thái độ "Hiện
Sinh".
Nguyễn Hoài Vân
27/10/2014
Vô Thức không có thật
? Quan điểm của Sartre
Cần nói ngay là Vô Thức
ở
đây được quan niệm như nơi người ta dồn
nén những gì ý thức không muốn nhận biết. Dồn nén là một trong bốn cơ chế của sự
hình thành Vô Thức, theo thuyết Phân Tâm của Freud.
Sartre cho là muốn dồn
nén bất cứ điều gì thì điều ấy đã phải được ý thức, và được phê phán. Vì thế, cái Vô Thức mà Freud mô tả, chỉ
là một phần của ý thức mà người ta chọn không nhìn đến, vì không đủ can đảm chấp
nhận những gì nó chứa đựng. Đó chẳng qua là kết quả của sự dối trá với chính mình.
Hiểu như thế, con người
không còn bị bị quy định bởi những thế lực "bí mật" mai phục trong
bóng tối của Vô Thức nữa, mà có thể nhìn thẳng vào tương lai, tự do viết lên câu chuyện của cuộc đời
mình. Điều này không có nghĩa là con người không phải chịu rất nhiều quy định
khác (đến từ di truyền, tiến hóa, môi trường, xã hội, v.v...) nằm trong cái mà Sartre gọi là "hiện hữu tự nó".
Trong lãnh vực trị liệu,
Freud tìm trong Vô Thức những dồn nén tích tự từ quá khứ, như căn nguyên của
các chứng bệnh tâm lý. Sự phân tích, tìm kiếm này có thể kéo dài nhiều năm.
Woody Allen cho biết "giai đoạn khó khăn nhất trong phân tâm
trị liệu là ... tám năm đầu !"
Khi đã loại bỏ khái
niệm Vô Thức như Freud quan niệm, thì nhà tâm lý trị liệu có thể không cần lục
tìm căn nguyên của trục trặc tâm lý trong quá khứ nữa, mà trực
tiếp hướng đến tương lai, để giúp bệnh nhân xây dựng một "dự
án". Các phương pháp tâm lý trị liệu hiện đang thịnh hành đều áp dụng quan
điểm này. Thí dụ trước một người sợ những không gian đóng kín,
người ta sẽ không ra công
"phân tâm", tìm trong quá khứ một biến cố chấn thương nào đó, lần lên đến lúc sơ
sinh, hay cả trong bụng mẹ, mà đề nghị một chương trình luyện tập từ từ cho người
ấy quen dần, và không còn sợ những nơi đóng kín nữa. Thường chỉ mất khoảng 10
tuần, hay ít hơn.
Sự đối chọi này có thể
được coi như đối chọi giữa quá khứ và tương lai, hay giữa "định mệnh"
và tự do. Charles Pepin tưởng tượng một mẩu đối thoại giữa Sartre và Freud như sau :
Freud bảo : "làm
sao ông có thể nghĩ mình chữa lành bệnh chỉ bằng cách vạch ra cho bệnh nhân một
chương trình, một dự án ?"
Sartre trả lời :
"như thế vẫn còn hơn là ném vào mặt họ một định mệnh !"
Nguyễn Hoài Vân
26/10/2014
(*) Vô thức cũng có
thể được quan niệm như một "tập hợp giải pháp", hay đơn thuần như một
"nơi tàng trữ" (nghĩa chữ "Alaya" trong Sanskrit), hoặc một
tập hợp những hoạt động "không được ý thức" của bộ óc với 150 ngàn tỷ
kết nối giữa các tế bào thần kinh.
Vài trích dẫn nổi tiếng :
"Con người là một đam mê vô ích"
Trong Hiện Hữu và Hư
Vô, con người mang khát vọng hướng đến trạng thái « tự nó - vì nó » từc
vừa có sự yên ổn tiện nghi của « tự nó », vừa thỏa mãn nhu cầu tự do
với hiện hữu « vì nó ». Khát vọng ấy chính là đạt đến một trạng thái
tương đương với sự hiện hữu của … Thiên Chúa ! Khỏi nói là nó không thực tế,
nên chỉ là « một đam mê vô ích ».
« Hiện hữu có trước bản chất »
Nếu bản chất có trước,
thì nó đã quy định hiện hữu, hiểu như « hiện hữu vì nó », hoàn toàn tự
do, không bị quy định. Vì thế bản chất chỉ có thể đến sau hiện hữu.
"Những kẻ chống
Cộng là đồ chó"
Theo Sartre mỗi giai
đoạn lịch sử được giải thích bởi một lý thuyết tổng hợp những vận động của xã hội
loài người. Trong giai đoạn mà ông quan sát, lý thuyết ấy là học thuyết Marx,
biểu hiện bằng lý tưởng Cộng Sản. Vì thế, những người không ý thức
được dòng vận chuyển ấy của lịch sử, mặc
nhiên nằm ngoài cái gọi là « loài người được tóm tắt bằng lịch sử »,
tức không nhận diện được « nhân tính » của mình như thành phần của lịch
sử loài người biết ý thức chính nó.
"Địa ngục là tha nhân"
Theo Sartre, tha nhân
nhìn chúng ta như sự vật, như « hiện hữu tự nó », được ấn định sẵn,
« phải như thế ». Điều này xóa bỏ tự do, xóa bỏ khoảng cách giữa
« hiện hữu tự nó » và « hiện hữu vì nó », không bị quy định,
nền tảng của tính Nhân Bản. Tha nhân tạo nên một thế giới trong đó sự hiện hữu
ngẫu nhiên, « vì nó », không lý do, không chịu quy định, của chúng
ta, không có chỗ đứng. Giữa những con người mang những vai trò rõ rệt, những con người hiện hữu
vì vai trò ấy chúng
ta như kẻ lạ mặt, lạc lõng, bơ vơ ... Đó là địa ngục.
Quan điểm này bị thay
đổi nhiều trong Phê Bình Lý Trí Biện Chứng, khi Sartre phân
tích hành động tập thể.
Cần nói là nó hoàn toàn bị lật ngược với
Levinas, qua khái niệm « hiện hữu vị tha », hiện hữu vì tha nhân (xem
bài phê bình phim Gran Torino :
http://tho-van-phim.blogspot.fr/2015/11/gran-torino.html).
"Sự chết không bao giờ đem lại ý nghĩa,
mà ngược lại tước bỏ mọi ý nghĩa của cuộc sống"
Đâu là ý nghĩa của cuộc sống đối với một triết
gia hiện sinh ? Ý nghĩa ấy chỉ có thể nằm trong sự trở thành, trong câu
chuyện được viết lên vào mỗi giây phút, tức như thể nó không cần phải kể bất cứ
gì.
Sự chết thì chỉ có ý nghĩa như kết cuộc của một
câu chuyện. Ý nghĩa của nó là ý nghĩa của câu chuyện được kể lại. Vì thế, ngoài
khía cạnh hiển nhiên là sự chết cắt đứt dòng trở thành của cuộc sống, ý nghĩa
mà người ta gán cho nó không những hoàn toàn xa lạ với thái độ hiện sinh, mà
chính là sự triệt tiêu cái ý nghĩa của cuộc sống được hiểu như « không cần phải kể bất cứ gì » mà
chúng ta vừa bàn đến.
"Mọi hiện hữu sinh ra không lý do, kéo
dài vì hèn nhát và chết bởi tình cờ"
Bối cảnh của câu này
là tiểu thuyết « Buồn Nôn ». Roquentin, nhân vật chính, nhìn sự vật
trần truồng, vô nghĩa, hay nói đúng hơn là không còn được che đậy bởi những cái
gọi là « ý nghĩa » được người đời tạo nên. Không còn ý nghĩa, không
còn « để làm gì », không còn « tại sao », đó là sự phục thù
của thực tại trên mộng tưởng hư huyễn của con người. Hiện hữu chỉ hiện hữu vì nó
hiện hữu. Sự chấm dứt hiện hữu cũng thế.
Tuy nhiên, chính vì
thế giới mang tính ngẫu nhiên, vì không có gì được định trước, nên tất cả đều
có thể xảy đến. Một điệu nhạc, một gặp gỡ, một hương thơm, một ánh mắt, vị ngọt
của một quả nhãn, cảm giác mát rượi của một ly bia, cảnh hoàng hôn … đều có thể
thay đổi tất cả. Buồn nôn không còn nữa, cuộc sống từ nặng nề trở nên thanh
thoát, và khoảng thời gian đang sống (hiện sinh) có được một biện minh.
Con người mang trong
nó khả năng thoát khỏi địa ngục. Trước sự vô nghĩa, nó biết trả lời bằng :
Tự Do. Và Roquentin gián đoạn luận án dang dở của mình, để viết một tiểu thuyết …
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Trẻ con và chó chết. Một triết gia ngựa con háu đá, tự nhận existentialisme là parasites của mác xít, phát truyền đơn cho Maoist...
Trả lờiXóa