Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2015
Phạm Toàn - Không có “mạt sử” – chỉ thiếu cách làm
(Nhóm Cánh Buồm)
Năm 1989, nhà văn Anh Justin Wintle là cây bút đầu tiên người nước
ngoài được đến thăm Việt Nam.
Nói ông “được đến thăm” là một cách “chép Sử” thời đương đại khá
trung thực, nếu ta biết rằng Việt Nam mình thời đó vừa thoát ra khỏi cuộc
chiến, và những thói quen thời chiến vẫn còn sâu đậm; – trong tâm lý người bình
thường, bất cứ người nước ngoài nào nếu không là “ông bà Liên Xô” thì đều có
thể bị coi là “gián điệp”; – cũng tình trạng đó trong tâm lý những người trên
mức bình thường không thể không dẫn đến tình trạng một đất nước bế quan tỏa
cảng; với những ai năm nay ở tuổi 70 đến 90, điều đó chẳng lạ!
Justin Wintle đã thăm Việt Nam, đã gặp gỡ rất nhiều người từ người
bình thường đến những người trên mức bình thường, và năm 1991, ông xuất bản tập
sách nhan đề Romancing Vietnam (Pantheon xuất bản lần đầu tháng 1 năm
1991) – dịch là “Tiểu thuyết hóa nước Việt Nam” chắc là được nhỉ? Trong cuốn
sách của ông có một chi tiết liên quan đến chủ đề “nóng bỏng” mấy bữa nay kể từ
cuộc “Hội thảo Diên Hồng” về môn học Lịch sử, như nhiều tờ báo chạy tít. Chi
tiết đó như sau. Tác giả gặp một nhà Sử học Việt Nam, chính xác là giáo sư Trần
Quốc Vượng. Giáo sư than phiền nỗi Việt Nam thiếu tự do. Justin Wintle đã phản
biện lại theo cách rất Ăng-lê, “Ông nói không có tự do, nhưng ông có Viện Khảo
cổ học đấy thôi?”
Tôi nhớ lại chi tiết này khi gần đây đọc được vô
số phản ứng về chuyện “khai tử” môn Lịch sử ở trường phổ thông, thậm chí trên
báo mạng còn thấy xuất hiện khái niệm rất là bi đát, “thời mạt sử”.
Một vài khái niệm
Xin được phép nhắc lại một vài khái niệm chính người viết bài này
đã phát biểu (và công bố trong một bài về nhà viết tiểu thuyết lịch sử Nguyễn
Triệu Luật).
Trước hết ta có khái niệm Lịch sử. Lịch sử khác với Khoa học lịch
sử, mà thường vẫn được gọi tắt là Lịch sử, hoặc là Sử, hoặc là Sử học, và trong
nhà trường cách gọi tên còn tùy tiện hơn nữa: khi là Môn Sử, khi là Sử cộc lốc,
khi lại là Lịch sử (nhập nhèm giữa “cái” Lịch sử, với khoa học về “cái” Lịch sử
đó).
Lịch sử là một hiện tượng không biết nói, hoàn toàn không nói
được, có thể gọi một cách hình tượng là “thằng Câm”. Nó vốn không cất lời lên
được, nó “nói” qua cửa miệng kẻ khác, và khi đó, nó bị hai điều kiện khiến cho
“thằng” Lịch sử trở thành kẻ câm hoàn toàn: điều kiện khách quan chính là
“thằng” Thời gian – thời gian quá dài đã che khuất vô vàn tài liệu, mà ngay cả
những chứng cứ khai quật và đo đếm hết sức khoa học có khi cũng khai báo sai
tới hàng nghìn năm tuổi.
Còn yếu tố chủ quan là con người thì vừa khiến “thằng Lịch sử” khi
thì bị câm, khi thì khai báo sai lệch. Khi một “chuyện” gì đó xảy ra, người đời
không kịp ghi lại, rất nhiều khi còn không kịp hiểu. Do đó mà trong khi Lịch sử
là một dòng chảy tự nhiên chứa đựng những chuyện có thực của loài người, thì
các nhà Sử học ngay cả khi hành động “khách quan” nhất thì cũng thường chỉ có
điều kiện bám vào những sự kiện lịch sử nhất định để ghi lại, để phân tích theo
nhận thức chủ quan, sa đà vào những vùng sự kiện hợp khẩu vị, hợp với sở trường
sở đoản, hợp với quyền lợi riêng nữa, để trở thành nhà Sử học chân chính một
cách tự nhiên, hoặc để thành nhà Sử học có muốn chân chính cũng chật vật.
Nhiều “thành tích nghiên cứu” kiểu ấy lại được chọn và đưa vào nhà
trường, tùy theo ý đồ và tùy theo cả cái gout, cái taste riêng
nữa. Thế nên, nghệ sĩ Charles Chaplin trong “Tiểu sử tự viết” dù chỉ nói
tâm trạng của riêng mình, nhưng cũng vô tình nói được những “nhận thức chủ
quan” của những kiểu sử gia nào đó: “Giờ đây, nhà trường với tôi là đoạn
khởi đầu của những chân trời mới: lịch sử, thơ ca và khoa học. Nhưng [...].
Lịch sử là một bộ lưu trữ tính ác và bạo lực, một sự liên tục các cảnh bầy tôi
giết vua còn vua thì giết hoàng hậu, giết anh em con cháu; [...]. Nền giáo
dục đã làm tôi hoang mang, vì các kiến thức và các sự kiện là những thứ tôi thật
ít quan tâm. (Ch. Chaplin, Autobiography, Penguin xuất bản, 1962,
trang 40).
Những nghệ sĩ đau đáu chuyện đời không làm sử gia có cách của họ
là làm ra những tác phẩm nghệ thuật có đề tài lịch sử, ở đó chứa đựng những
thông điệp gửi cho người đời. Thông điệp của nghệ sĩ là một cách bổ sung, đôi
khi uốn nắn, nhiều khi chỉnh đốn cho những công trình “chủ quan” – hoặc thiếu
khách quan hoặc không thể đủ sức khách quan – của các Sử quan.
Tiểu thuyết “Thiếp chàng đôi ngả” của Nguyễn Triệu Luật là
một thông điệp về mối lo mất nước vào tay quân xâm lược nhà Minh bên Tàu. Người
chồng vốn là quý tộc họ Trần báo cho vợ biết quyết định đổi họ theo họ Hồ để
đoàn kết chống nguy cơ ngoại xâm đang cận kề. Người vợ và chồng “thiếp chàng
đôi ngả” từ đó. Chàng ra trận. Chàng bị chết trận. Một tên giặc Tàu cũng chết
trận. Ngòi bút tuyệt vời Nguyễn Triệu Luật đã mô tả hai cái xác chết ấy bỗng
vùng dậy đâm chém nhau một lần cuối cho tới khi cả hai cùng gục xuống chết thêm
một lần nữa. Dường như trong tiểu thuyết này, Nguyễn Triệu Luật muốn mọi người
không chỉ thấy “họ Hồ chính sự phiền hà” và vì thế mà nên nhìn nhận
những cải cách “phiền hà” của họ Hồ sao cho khách quan hơn.
Tiểu thuyết lịch sử “Chín mươi ba” của Victor Hugo lại mang
một kiểu thông điệp khác. Một mặt Hugo tiếp tục ca ngợi hùng khí của Cách mạng
1789 mà năm 1793 là năm bi hùng nhất hạng. Tinh thần cực đoan của cuộc Đại cách
mạng ấy thể hiện trong việc ông giáo Cimourdain (một thầy tu trở thành chính ủy
quân cách mạng vô thần) dù hết lòng yêu học trò cũ Gauvain là tiểu đoàn trưởng
dưới quyền mình, vẫn tuyên án tử hình chàng sĩ quan trẻ về hành vi vô nguyên
tắc đã thả ông nội anh là hầu tước Lantenac. Sau khi tuyên án và thi hành án xử
tử hình Gauvain, Cimourdain đã rút súng tự vẫn, “và đôi linh hồn đồng điệu
đau thương ấy cùng cất cánh bay, bóng đen của linh hồn này hòa trong ánh sáng
của linh hồn kia». Tinh thần cực đoan ấy là Nhân đạo hết mực, Cách
mạng hết mực, Trách nhiệm hết mực, cho dù những giá trị Nhân đạo, Cách mạng và
Trách nhiệm nhiều khi như là không tương thích với nhau – thông điệp của nhà
văn V. Hugo là thế.
Thế nhưng, ở nhà trường, học sinh không thể trông chờ vào tác phẩm
nghệ thuật để có những kiến thức chính xác, khoa học, và lắm khi đầy tồn nghi,
thậm chí đầy mâu thuẫn của những sự kiện lịch sử và những bài học lịch sử rút
ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác phẩm nghệ thuật (đề tài lịch sử) dù
hấp dẫn đến bao nhiêu cũng chỉ là những gợi cảm – trong khi Khoa học Lịch sử
phải mang đến cho học sinh những nhận thức không mập mờ. Khốn thay – và đây là
bi kịch của những nhà sư phạm tổ chức việc học Khoa học Lịch sử trong nhà
trường.
Có thể hình dung điều trớ trêu này, sẽ có vô số nhà viết Sử dù
hăng máu tại Hội nghị Diên Hồng về môn học Lịch sử đấy, nhưng chính các vị đó
sẽ lại cắn bút (hoặc cắn bàn phím) bó tay trước những cấm kỵ và kiêng cữ công
khai hoặc hàm ẩn.
Hành động học
Nhóm biên soạn sách giáo khoa thiện nguyện Cánh Buồm đã xử lý đúng
khái niệm hành động học theo đó mà hoàn thành dễ dàng việc biên
soạn bộ sách 10 cuốn cho hai môn Tiếng Việt và Văn bậc Tiểu học. Nhóm có ít
người và eo hẹp nguồn lực nên chọn đột phá làm mẫu vào những môn học khó
nếu không nói là khó nhất – theo đánh giá của Nhóm, là các môn Khoa học xã hội
và nhân văn – mà trong bối cảnh nước ta, đó là bốn môn: Tiếng Việt, Văn, Đạo
đức, và Khoa học Lịch sử. Nhóm chọn cách “làm mẫu” không với ý nghĩa
coi sản phẩm của mình là “mẫu mực”, mà là những gợi ý đột phá về cách làm,
như được nói rõ trong bản “Tường trình” tại Ủy ban Văn hóa - Giáo dục - Thanh
Thiếu niên Nhi đồng của Quốc hội ngày 16 tháng 7 năm 2014 (được lưu tại www.canhbuom.edu.vn).
Xưa nay, sách giáo khoa Lịch sử cho học sinh phổ thông thường chỉ
có trần trụi những sử liệu – những thứ vật liệu “khô khan” phù hợp với những
đầu óc nghiên cứu. Các nhà biên soạn sách học Lịch sử thường không chú ý đến
những hành động học của người học sao cho phù hợp với từng lứa tuổi ở từng bậc
học.
Bậc Tiểu học, là bậc dùng tình cảm để đến với phương pháp học Lịch
sử. Lên bậc Trung học cơ sở, học sinh dùng cả tình cảm và lý trí để đến với
những kiến thức Lịch sử. Bậc Trung học phổ thông là nơi dùng tư duy triết học
để tập đi sâu vào Khoa học Lịch sử, chuẩn bị cho bậc học cao hơn hoàn toàn mang
tính tự nghiên cứu.
Các bậc học tuy khác nhau, nhưng có bốn hành động học chung
nhau, hoặc cũng có thể gọi đó là những việc làm của học sinh khi học
Lịch sử. Đó là:
- Việc 1: Tiếp nhận sử liệu. Sử liệu được tiếp nhận
như là những “vật tự nó” đối với mọi người. Việc đọc, và nhất là đọc thầm, được
dùng để học sinh tự làm việc này.
Những sử liệu này có thể rất khác nhau. Tại Pháp, riêng ở Paris có
tới tám bộ sách giáo khoa Lịch sử (theo bài báo điều tra của Nguyễn Thị Từ Huy,
bản dịch của Phạm Toàn, đã đăng trên báo Tia sáng).
Ở những vùng “khó khăn”, có thể lấy sử liệu từ những giáo trình
chính thống và chính thức. Không sao hết!
- Việc 2: Nhập thân vào sử liệu. Công việc
này sẽ tiến hành thuận lợi nếu học sinh học sách Văn của nhóm Cánh Buồm. Cách
học này giúp các em được luyện các thao tác tưởng tượng qua trò chơi đóng vai,
qua kịch câm và kịch nói. Học sinh sẽ dễ dàng vào vai các nhân vật lịch sử
trong những bối cảnh có kịch tính.
Đó là bậc tiểu học. Lên bậc Trung học cơ sở, học sinh vẫn chơi
đóng vai, ngoài ra cũng bắt đầu nhập thân trong những tranh luận tại những cuộc
Hội thảo do các em tự tổ chức.
Ta có thể hình dung là lên bậc cao hơn học sinh sẽ mang đến một
chất lượng khác cho cùng một việc làm nhập thân vào sử liệu.
- Việc 3: Tự rút ra bài học lịch sử: Phải có
những bài tập để học sinh tự rút ra bài học lịch sử chứ không chép những kết
luận do giáo viên hoặc sách đưa ra.
Đây là một vài thí dụ về những bài tập gợi ý cho học sinh tiểu
học:
· Em đi thăm đền thờ Hai Bà Trưng ở Hạ Lôi, em khấn Hai Bà một
điều gì, em ghi lời khấn đó vào vở.
· Các em tự soạn và diễn một vở kịch ngắn Nguyễn Trãi liên hệ với
người của Lê Lợi mời gia nhập nghĩa quân ở Lam Sơn.
· Ngày Tết, em đi ngang gò Đống Đa, em nói với Sầm Nghi Đống một
điều gì, hãy ghi lại.
- Việc 4: Sưu tầm – tự làm giàu tri thức Lịch sử. Đây chính
là phần tự học thêm, các tài liệu sưu tầm đi từ tranh ảnh, phim, cho đến những
tư liệu nghiên cứu. Một khi học sinh ngay từ bậc tiểu học đã thích sưu
tầm tư liệu lịch sử cho riêng mình, thì đoan chắc các em sẽ tiếp tục hứng thú
và ngày càng củng cố kỹ năng đó khi học lên bậc học bên trên.
Bốn hành động học (thực hiện qua những việc làm mang tính giáo
khoa) như trên sẽ giúp học sinh thích nghi với mọi trình độ của chương trình
học. Mỗi cung cách làm chương trình học đều thể hiện một tầm lý tưởng của nhà
sư phạm. Các nhà sư phạm ấp ủ một thế giới với những học sinh cũng yêu môn Lịch
sử như mình, xin đừng đợi chờ một hoàn cảnh đẹp như mơ (như những cơn mơ khi
đang Hội nghị Diên Hồng bên ngoài trời nắng bên trong có máy lạnh chạy ro ro).
Đừng chờ những điều kiện chỉ có trong tưởng tượng. Hãy sống trong cuộc sống
thực với mọi rắc rối của nó!
Lời cuối
Nhóm Cánh Buồm đang hoàn thành nốt sứ mệnh soạn sách Tiếng Việt và
Văn cho bậc trên Tiểu học. Đó là cột xương sống của chương trình Khai Dân
Trí của nhóm.
Nhóm Cánh Buồm đã khởi động soạn bộ sách Giáo dục Lối sống bậc
Tiểu học nhằm tổ chức cuộc sống đạo đức thực của trẻ em mang tư duy Đồng
Thuận. Sách đang được hoàn thiện và dạy thử ở vài cơ sở thực hành của chúng
tôi.
Nhóm Cánh Buồm cũng đã khởi động soạn bộ sách Giáo dục Lịch sử bậc
Tiểu học theo định hướng những hành động học Lịch sử như đã trình bày
bên trên. Tiếc rằng đề án nhỏ này cứ hoạt động được ít lâu lại tan, mà nguyên
nhân chính là không có người một lòng một dạ đeo đuổi một công việc vô cùng khó
khăn. Một công việc vừa đòi hỏi một trình độ khoa học không thể thấp, lại vừa
đòi hỏi một tầm trải nghiệm để biết cách vượt qua mọi rào cản một cách đàng
hoàng.
Xin đừng bi quan: có thể có mạt vận nhưng không thể có mạt sử. Vấn
đề là tìm ra cách làm cho môn khoa học làm lay động lòng người đó. Phải tìm ra
cách làm để thành công mà không cần đến quá nhiều người hùng thất trận. Thời
hiện đại, chẳng cần thêm người chết trước khi tới đích.
Xin nhắc lại, nhắc cho chính mình, để tự mình ghi khắc: không có
mạt sử, chỉ chưa tìm ra cách làm.
Để vận không mạt, và sử không mạt.
Hà Nội, 25 tháng 11 năm 2015
P.T.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét