Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2015
Hoàng Quân - Phượng Xưa
![]() |
Johannesburg, 10.2009 |
Trưa
vàng, cỏ biếc, trời xanh,
Môi
ai chín đỏ đầu cành phượng xưa.Trần
Dạ Từ
“Kính thưa quý khách, chúng ta sắp sửa đáp
xuống phi trường Tambo. Thành phố Johannesburg
chào đón quí khách với nhiệt độ 20 độ C….” Tôi choàng tỉnh, sau hơn mười tiếng
đồng hồ mệt mỏi của chuyến bay xuyên lục địa. Phi cơ cứ một lèo xuôi nam, từ
Munich xuống Johannesburg, cùng kinh tuyến, nên không chênh lệch giờ. Cất cánh
tối chủ nhật, sáng thứ hai có mặt đúng giờ cho họp hành, hội nghị. Nếu bay về
hướng đông thì tôi đã gần tới Bangkok, đã có chút hơi hướm quê nhà Á Châu.
Nơi đây, Johannesburg, nước Nam Phi, là hai
thế giới trong một thành phố. Công ty tôi có quy định rất nghiêm ngặt về chuyện
đi lại trong nước Nam Phi. Để bảo đảm vấn đề an ninh cho nhân viên, văn phòng
luôn sắp xếp người đón đưa chu đáo. Tôi đảo mắt nhìn quanh. Bắt gặp một người
đưa cao tờ giấy có những mẫu tự ngoằn ngoèo, trông có vẻ giống tên tôi. Tôi thở
phào nhẹ nhõm. Thấy tôi đến gần, người đàn ông nhoẻn miệng cười. Màu da đen sẫm
làm răng anh ta như trắng hơn. Tôi liên tưởng ngay đến quảng cáo kem Hynos
trong trí nhớ của một đứa bé ngày còn ở tiểu học. Sau khi nhận mặt người quen,
anh ta lịch sự thăm hỏi thường tình, rồi nhanh nhẹn kéo phụ va-li cho tôi. “Hi, Miss Thi. How are you?” “Sao? Chuyến bay của cô
thoải mái chứ.” Tôi mỉm cười: “Cám ơn anh. Cũng tạm.” Đó là chuyến bay đêm, a night flight, mà các đồng nghiệp hay
gọi đùa là nightmare flight. Anh ta tự
giới thiệu: “Chào cô, tôi là Moffat. Tôi sẽ đưa cô về RadissonBlue. Cô cứ lo check-in.
Tôi sẽ trở lại một tiếng đồng hồ sau đó, đón cô đến văn phòng”. Tôi chào
Moffat. Tự nhiên trong đầu đặt liền cho anh ta tên Mô-Phật. Anh ta có khuôn mặt
tròn tròn, hiền hậu, cũng đôi chút dáng dấp của các chú tiểu, có điều nước da màu
bánh gai hơn là màu bánh mật. Tôi vẫn hay luôn sáng tác những mẹo vặt “bồi
dưỡng” trí nhớ ngắn hạn của mình. Phải làm như vậy, để nhớ tên, nhớ số, nhớ
những chi tiết lặt vặt, mình không có cơ hội ghi chép. Những lầm lẫn, hoặc quên
có thể gây ra những tình huống vụng về, khó xử.
Đang những ngày
đông đến sớm ở Munich, đôi ngày có mưa tuyết ướt lạnh, buổi sáng sương muối rét
cóng, tôi thấy lòng mình như rộn lên niềm vui, giữa bình minh của thành phố
Johannesburg, trong nắng sớm thật nhẹ nhàng.
Tôi lịch sự hỏi
thăm về những chuẩn bị của Nam Phi cho mùa giải túc cầu thế giới năm 2010.
Mô-Phật như trúng đài, kể lể huyên thuyên, chỉ trỏ khắp nơi. “Cô xem này, đây
là đường xe điện ngầm, dẫn ra phi trường, dự định sẽ xong đầu năm tới. Cô có
thấy bên kia không? Một cái cầu được xây song song, mới giải quyết được lượng
xe cộ đông đảo.” Tôi dạ nhịp yes, yes, I
see, khơi thêm đôi ba câu hỏi để đáp lại tấm thịnh tình của Mô-Phật. Bỗng
nhiên, mắt tôi như reo lên mừng rỡ, khi thấy những tàng hoa màu tím, như ngợp
trời, điểm ít lá xanh, thật đẹp. Tôi vội đổi đề tài:
- Moffat, mấy cây
hoa màu tím là hoa gì mà xinh quá vậy?
Moffat vui vẻ:
- Jacaranda đó cô ạ. Hoa mùa hè đấy.
Tôi nghĩ ngay đến
phượng hồng, hoa học trò của Việt Nam . Tai tôi nghe lan man những lời
cắt nghĩa của Mô-Phật. Nhưng trí tôi lại bâng khuâng, lãng đãng đâu đâu với
những câu hát …những chiếc giỏ xe chở đầy
hoa phượng, em chở mùa hè của tôi đi đâu… Phải rồi! Hoa mùa hè là phượng.
Hoa học trò màu tím là phượng tím. Tại sao không! Sau này, tôi mới vỡ lẽ ra là
mình quá lạc hậu. Biết bao nhiêu người xuýt xoa gọi Jacaranda là phượng tím tự hồi nảo, hồi nao. Chứ tôi nào phải là
người đặt tên cho Jacaranda đâu. Khi
xe chạy gần những hàng cây, tôi kịp thấy những lá lăn tăn giống lá hoa phượng.
Qua nhiều ngõ phố, những hàng phượng tím hai bên đường như chụm đầu tình tự với
nhau. Trời ơi, giá mà bây giờ có thể níu cành, ngắt vài cánh hoa, chiếc lá,
thích thú mê tơi. Tôi mằn mò quanh quẩn hỏi thăm Mô-Phật, muốn được xuống xe,
chụp một tấm hình đứng cạnh phượng tím. Moffat lắc đầu quầy quậy:
- Không được đâu cô
ơi. Cô nhìn thấy không? Sát sau hàng cây là những hàng rào, có ghi rõ công ty
bảo vệ an ninh. Nếu cô lại gần, họ có thể nổ súng. Hậu quả ra sao, ráng chịu. Vì
người ta đã ghi rõ đó rồi.
Thấy tôi có vẻ thất
vọng, Mô-Phật an ủi:
- Hôm nào làm việc
xong ở đây, cô thu xếp đi chơi Pretoria một bữa. Ở đó cơ man là Jacaranda. Thể nào cô cũng toại nguyện.
- Ừ, đành vậy. Chắc
tôi phải tìm dịp đi Pretoria mới được.
Buổi chiều ở phòng
họp, sau khi trình bày cho đồng nghiệp nghe những phương án quản lý tín dụng, vừa
lúc tôi đề nghị nghỉ giải lao, là lúc điện thoại di động của tôi reo. Đám bạn
đồng nghiệp đùa, ai chắc cũng sắp xếp giờ giấc rồi.
- Thi đó hả? Nguyên
đây, Nguyên Việt Nam, Nguyên Quảng Ngãi đây.
Tôi ngạc nhiên quá
đỗi. Nghĩ thầm, trời đất, ở đâu mà Nguyên có số điện thoại của tôi. Tôi vui,
nhưng không nén nổi tò mò:
- Biết rồi, nhớ ra
rồi, khỏi phải kê khai lý lịch. Mà sao Nguyên có số điện thoại của Thi vậy?
Tiếng Nguyên cười
thích thú:
- “Théc méc” làm
chi. Thi có rảnh để nói chuyện không?
Tôi vội giải thích:
- Rảnh thì không. Thi
đang đi làm ở Nam Phi, nhưng nói chuyện vẫn được.
Nguyên hối hả:
- Đang ngồi chung
với đám bạn bè cũ. Tụi nó chọc ghẹo Nguyên và thách là Nguyên có dám gọi cho
Thi hay không.
Xem ra cuộc điện
đàm còn nhiều điều hấp dẫn, tôi đưa tay ra dấu với đồng nghiệp xin thêm vài
phút.
Nguyên huyên
thuyên:
- Có nhiều bài hát Nguyên
thích lắm Thi ạ, bài Đường Xưa, bài Phượng Hồng…nhưng bây giờ Thi cho phép Nguyên
hát vài câu tâm đắc thôi nghen.
Ủa, sao mà trùng
hợp dữ vầy ha. Mới sáng nay, khi say mê ngắm những hàng phượng tím của Johannesburg , trí tôi đã
reo lên, nhớ ngay đến những câu:Cánh phượng hồng ngẩn ngơMùa hè đến trường khắc nỗi nhớ trên câyAi cũng hiểu chỉ một người không hiểu,Nên có một gã khờ ngọng nghịu đứng làm thơ...
Nguyên ê a hát:
- Ai về sau dãy núi Kim Bôi, nhắn giùm tim tôi
chưa phai nhoà...
Tôi phì cười, cắt
ngang:
- Ủa, Nguyên định
giới thiệu cho trung tâm ca nhạc mời Thi đóng vai sơn nữ hả?
Giọng Nguyên bỗng
nghiêm chỉnh, đổi cách xưng hô:
- Mình không biết
tại sao. Mình rất thích bài hát này. Mỗi khi nghe những lời ca này, mình lại
nghĩ đến bạn...…Mà thôi, chắc Thi đến giờ phải làm việc há? Cho mình hát một
câu nữa nghe: Hỡi người xa xăm đó, biết
nhau thì xa nhau…
Tôi vẫn giữ tiếng
cười. Nói Nguyên, cho tôi gởi lời thăm bạn bè, chúc tất cả vui vẻ. Tôi nhủ
thầm, hên quá, mình chưa xài điện thoại có hình. Không thôi, chắc Nguyên sẽ
thấy tôi bổi hổi, bồi hồi.
Trở về phòng họp,
trí tôi lan man, không tập trung được. Cũng may, tôi đã “nhuyễn như cháo” mấy
đề tài tôi trình bày, nên không lạng quạng. Sau màn thảo luận, hỏi đáp như
thường lệ, tôi thở phào nhẹ nhõm, khi mọi người bảo không còn thắc mắc gì nữa.
- Vậy chúng ta kết
thúc buổi hội thảo hôm nay nhé.
Yogi rủ rê:
- Thi đi ăn tối với
tụi mình chứ?
Tôi thoái thác:
- Cám ơn Yogi. Hôm
nay mình hơi mệt. Để tối mai nha.
Tôi chỉ muốn ăn qua
loa, dành thì giờ nghỉ ngơi và cho đầu óc rong chơi một chút. Từ vuông cửa sổ
phòng khách sạn, tôi nhìn mông lung xuống thành phố bên dưới. Trong nắng chiều
tà, những tàng phượng tím đẹp quyến rũ lạ lùng. Cuộc sống đôi khi có những tình
cờ kỳ diệu. Bao lần đến đây, Johannesburg ,
mảnh đất ở phương nam châu Phi vẫn tạo nhiều ấn tượng trong tôi. Nhưng mãi lần
này, tôi mới thấy những hàng phượng tím. Những cây Jacaranda đã bao năm khoe sắc ở thành phố này, chứ đâu phải mới rộ
nở cho tôi ngắm lần này đâu! Thật lạ, thấy phượng tím, bỗng dưng tôi lại nhớ
mấy câu hát trong bài Phượng Hồng,
một bài hát dường như hơi thời thượng đối với tôi. Bài hát ra đời khi tôi đã
sống xa Việt Nam .
Lẽ thường, với tâm hồn “cổ” của tôi, thấy phượng, tôi tất nghĩ đến Yêu người! Yêu Phượng! Yêu hoa đầu mùa, Yêu
mầu rực rỡ, yêu em mù loà ... Vậy rồi, vài tiếng đồng hồ sau, nhận điện
thoại của Nguyên, của người bạn ấu thơ, để nghe nhắc đến bài hát Phượng Hồng. Một cảm giác mang mang,
bâng khuâng, khó tả trong hồn. Hoàng hôn ở thành phố của Nam Phi, nơi lục địa
xa lắc quê nhà, tôi đang chầm chậm những bước lần qua lối xưa, tìm về ký ức của
mấy chục năm trước.
Thời mẫu giáo ở
trường thầy Thống, tôi đã tỏ ra là học sinh chăm chỉ khi bập bẹ học đánh vần.
Những năm tiểu học, tôi đều đặn hãnh diện mang những bảng danh dự đủ màu đem về
nhà trình Ba Mạ. Xong lớp Năm, đám học trò tiểu học phải thi vào trung học. Ba
Mạ cho tôi theo học luyện thi đệ thất ở trường thầy Khiêm. Thời ấy, đa số các
học sinh lớp Năm ở Nữ Tiểu Học, Nam Tiểu Học đều “vâng lệnh song thân”, đi dùi
mài kinh sử ở các trung tâm luyện thi thị xã Quảng Ngãi. Khi vào trường thầy
Khiêm, con gái học chung với con trai. Nguyên là một trong những khuôn mặt nổi
bật trong đám nam sinh trường thầy Khiêm. Nguyên nổi, nhờ học rất giỏi, mà phá
phách cũng kinh khủng. Mấy gốc mận, gốc ổi, oằn thân vì những trò leo trèo của
đám con trai. Chúng truy những trái mận chua, ổi chát. Đã đời, chúng săn đâu đó
vài con sâu, cho ngo ngoe dọa, tụi con gái sợ hãi, mặt mày xanh lét. Nguyên có
khi “thò què, thọt quẹt” lấy dây thun, quấn giấy tròn, bắn tụi tôi. May, các
thầy giáo cấm tiệt không cho đem ná gỗ vào trường. Chớ không, những màn ẩu đả với
món vũ khí này, chắc hẳn khốc liệt lắm. Từ nhỏ, tôi có “tật” thích mình học
giỏi và nể người học giỏi. Cho nên, tôi để ý đến Nguyên, luôn muốn làm sao giỏi
cho bằng. Nguyên chọc phá tôi đã quạu. Nhưng Nguyên học giỏi quá, làm tôi “nực”
hơn. Cứ như vậy, thuở đó, hai đứa tôi “trộm nhìn nhau” ra vẻ... tình thù rực
nắng. Hình như toàn bộ học sinh luyện thi ở trường thầy Khiêm đều đậu vào hai
trường trung học công lập, nam sinh vào Trần Quốc Tuấn, nữ sinh vào Nữ Trung
Học. Từ đó, chúng tôi... đường đời hai lối. Tôi hết xụ mặt vì bị địch thủ bắn
dây thun. Tôi thôi ấm ức vì đối thủ nhanh tay hơn, tìm ra đáp số của bài toán
đố hóc búa “vừa gà, vừa chó, bó lại cho tròn, đếm đủ 100 chân” hoặc phép tính
động tử cùng chiều, nghịch chiều... Tôi hân hoan vào trường Nữ Trung Học, yêu
kính thầy cô, mến thân bè bạn ở ngôi trường con gái gần bốn năm. Sau biến cố
1975, trường Nữ Trung Học dành cho học sinh trung học đệ nhất cấp, tên gọi
trong chế độ mới là trường cấp II. Còn học trò trung học đệ nhị cấp, tức là cấp
III, chuyển sang bên trường Trần Quốc Tuấn, nam nữ học chung. Niên khóa
1975-1976, tôi vào lớp 10B, trường Trần Quốc Tuấn. Học môn chính là Văn và Anh
Văn. Tôi gặp lại Nguyên, học lớp 10C, ban Toán Lý. Học khác lớp, khác ban, nên
tôi chẳng ngó ngàng gì đến “cố nhân”, để mà “kình” nhau chuyện học hành như
thuở học luyện thi. Vả lại, vừa sau biến động 1975, cuộc sống êm đềm của gia
đình tôi đang trải qua nhiều bất trắc. Đang là một học trò chỉ một đam mê học
hành, tôi có nhiều trăn trở, âu lo khác, tôi đâm ra thờ ơ sách vở. Ba tôi đang
đâu đó nơi trại cải tạo. Nhà sách của Mạ tôi đã “cống nộp”. Giờ chỉ còn quán cà
phê là phương tiện sinh nhai của cả gia đình. Nhà không còn người giúp việc,
tôi phải đảm trách việc “chạy bàn”. Quán cà phê của nhà tôi rất đông khách. Và
rất nhiều nam sinh Trần Quốc Tuấn. Lúc đó tôi mới là con bé 15, 16 tuổi, cái
tuổi với những tự ái vặt, kỳ quái. Tôi không ngại cực thân, nhưng đôi khi hơi tủi
phận. Vì mình phải bưng bê phục vụ cho đám bạn, mà lúc gặp trên trường, mình
nghinh nghinh, làm mặt lạ. Nguyên thỉnh thoảng đến quán cà phê cùng các bạn
khác. Tôi tảng lờ, như chưa gặp những trang công tử này bao giờ. Mặt mày nhăn
nhó khó thương. Có lần, một tên trong đám “cá độ”:
- Đứa nào chọc cho
cô hàng cà phê cười, là tao đãi một chầu.
Tôi mặc kệ, lạnh
lùng dằn mấy tách cà phê xuống bàn. Tiếng tên khác lên giọng:
- Thi hỏng nói,
hỏng cười. Ờ, mà sao hông cười một nụ để bán cho được hàng.
Tôi nín cười không
được, nên vội tuôn ra sau nhà, bật cười rích rích. Rồi lại khoác bộ mặt lựu đạn
ra đối đầu với khách hàng.
Hết năm lớp 10, nhà
tôi bị tịch thu. Lý lịch đen ngòm. Mấy chị em tôi phải “di dân” vô Sài Gòn để
có cơ hội cắp sách đến trường. Từ đó, hình ảnh Nguyên bị dồn chung với những kỷ
niệm thời học luyện thi, mờ nhạt, dần trôi vào quên lãng.
Cách đây nhiều năm,
trong lần về Việt Nam
cùng đại gia đình, tôi có vài “sự kiện lịch sử” đáng nhớ. Ngày nọ, tôi “ế độ”,
bạn bè tôi lặn đâu mất tiêu. Nói theo giọng nam của đứa em họ:
- Ủa, bữa nay chị
hỏng có “mục”, có “nhọt” gì hết trơn dzẩy?
Chị tôi gạ, theo
chị đến nhóm họp bạn của chị:
- Nghi học lớp chị nói,
em hắn là bạn của mi!
Tôi lơ đễnh:
- Em ảnh tên gì
vậy?
- Ô, chị quên hỏi.
Để chị gọi Nghi, rủ em hắn đến chơi luôn.
Khi đến họp bạn,
chị tôi dẫn tôi đến gặp anh Nghi. Tôi không hề nhớ chút gì. Anh Nghi thân
thiện:
- Ngồi chơi đi em.
Để anh gọi Nguyên, hối nó mau mau tới đây.
Ồ, ồ, có phải
Nguyên hồi tiểu học không hè, tôi nghĩ thầm. Anh Nghi điện thoại, nói nói, cười
cười một hồi, rồi đưa điện thoại cho tôi:
- Nguyên muốn gặp
em nè.
Tôi bỗng rụt rè:
- Dạ, Thi đây.
Một tràng cười
khanh khách:
- Trời đất, gì mà
dạ thưa lễ phép quá vậy! Biết ai đây không?
Nếu anh Nghi không
nói là Nguyên, thì thôi đành chịu, chớ biết sao nổi. Tôi làm ngon:
- Biết chớ, biết
chớ!
Nguyên vội vàng:
- Nguyên đang trên
đường đến đó. Sẽ mang cho Thi một món quà đặc biệt. Chút nữa gặp nói chuyện
nhiều nghe.
Bạn bè chị tôi nói
cười rôm rả. Tôi ngồi hóng chuyện, ngọ nguậy nhìn ra cửa chờ Nguyên. Lát sau,
thấy một “bác” với mái tóc muối tiêu, muối nhiều, tiêu ít, đang đi về phía bàn
của tôi, tôi nhìn thoáng “bác”, rồi lại lóng ngóng dõi mắt tìm tìm Nguyên. Chợt
nghe tiếng chào rất gần bên tai:
- Thi hả? Về Việt
Nam thấy vui không?
Tôi ráng dấu nỗi
ngạc nhiên, “ông bác” này là Nguyên đó sao. Tại Nguyên già sớm, hay tại tôi trẻ
lâu. Ký ức tôi đang loay hoay tìm gạch nối giữa cậu bé láu lỉnh thuở xưa và ông
bác tóc bạc bây giờ. Nguyên kéo ghế ngồi bên cạnh. Tôi đằng hắng, rồi hỏi một
câu ... lãng nhách:
- Nguyên khỏe
không?
- Ừ, Thi thấy đó.
Khỏe re như con bò kéo xe. Thi chắc vui triền miên. Thấy Thi cũng vậy, y như
hồi xưa.
Nếu bây giờ tôi
khách sáo rằng, Nguyên cũng vậy, nghe chẳng thuận tai chút nào. Tôi giơn giỡn:
- Mấy chục năm qua
rồi, mà Nguyên nói Thi giống như hồi xưa! Bộ hồi đó Thi đã già sẵn rồi, nên giờ
không già thêm sao?
- Đó, đó, còn giống
cái kiểu hỏi cắc cớ đó mà.
Nguyên rút trong
túi áo một bao thư đưa tôi:
- Món quà cho Thi
đây. Nguyên giữ món quà này hơn 30 năm rồi đó nghen.
Tôi hồi hộp quá chừng,
vừa cám ơn, vừa xin phép khui quà. Trời ơi! Tấm hình chụp lớp học luyện thi vào
trung học. Sau khi thi đậu, thầy Khiêm tổ chức cho các thí sinh đi du ngoạn (hình
như là ở Cấm Ông Nghè). Nguyên láu táu:
- Bao nhiêu năm bôn
ba, có khi đầu đường xó chợ, Nguyên gởi tấm hình nhờ bà già cất chung với giấy
tờ quan trọng. Cho nên tấm hình không bị thất lạc. Bao nhiêu năm, Nguyên cứ
nghĩ, sẽ gặp lại Thi, để tặng Thi món quà này đó.
Tấm hình này tôi đã
mất ngay lần bị tịch thu nhà. Tôi mân mê tấm hình đen trắng, hơi có sắc vàng vì
lâu năm. Dù hình cũ, nhưng sắc nét. Tôi có thể nhận ra các bạn bè trong hình.
Đám học trò tiểu học mặc đồng phục đầm trắng, đứng ngay ngắn. Con gái hàng
trước, con trai hàng sau. Thầy Khiêm và một thầy giáo khác đứng hai bên. Dễ
thương quá trời. Tôi mừng rỡ:
- Vui lắm đó Nguyên.
Món quà rất rất đặc biệt Nguyên à. Thi xin mượn đem ra tiệm chụp, rồi gởi lại
Nguyên nghe.
Nguyên cười nhẹ:
- Không, đã nói là
quà cho Thi mà.
Tôi cảm động:
- Vậy không biết
nói chi hơn là cám ơn nhiều.
Sau đó, tôi còn ở
Việt Nam
hai tuần lễ. Nguyên chẳng liên lạc với tôi. Chỉ nghe chị tôi kể:
- À, tình cờ hôm
qua đi uống cà phê với Nghi, Nguyên có đi theo. Nó rù rì kể chuyện xưa cho chị
nghe. Mà tụi bây học sau xa, chị có nhớ đứa nào là đứa nào đâu.
Chúng tôi về lại
Đức, Nguyên thỉnh thoảng gọi điện thoại tán dóc với chị tôi. Qua những mẩu
chuyện đó đây, tôi biết thêm chút chút về Nguyên. Nguyên lưu lạc vào Sài Gòn.
Hòn ngọc viễn đông của cuối thập niên 70, rơi vào tận cùng của nghèo khổ, nhọc
nhằn. Nguyên có bao nhiêu nghề không tên. Hùn vốn với ông anh họ bán giày dép,
mũ nón, công an đuổi chạy mấy lần, không những mất mớ hàng, mà cả đôi dép mang
trong chân cũng vuột luôn. Nguyên có thời kỳ xin được chân bỏ nước đá cho mấy
quán cà phê cóc ở trước trường Cao Đẳng Sư Phạm. Lúc đó, Nguyên biết tôi đang
học ở Đại Học Sư Phạm, nhưng không có ý tìm. Nguyên kể đùa với chị tôi, tại hồi
đó em lam lũ quá, nghèo quá, nên ngại, không dám tìm con Thi. Chớ khá khá một
chút, thì cũng đứng chờ nó đi học về, để cua nó. Đó là những điều Nguyên kể cho
chị tôi nghe chuyện của những năm khốn khó. Chứ khi tôi gặp lại Nguyên, Nguyên
trông đà có dáng dấp của “đại gia”. Đi đâu, tiền hô hậu ủng, đường đường chủ
nhân ông, oai vệ lắm. Lần khác, chị tôi nghe Nguyên kể là có lần vượt biên, ghe
con của Nguyên bị lọt lại, Nguyên phải nằm khám hết mấy tháng. Một trong những
người đi chuyến đó, lại được nước Đức tiếp nhận trong chương trình nhân đạo.
Nguyên nói đùa với chị tôi:
- Phải chi em đi
lọt, qua Đức, em gặp con Thi, em o nó được rồi.
Chị tôi cười cười:
- Em định tán cô
nào, thì nhớ bỏ bớt chữ con trước tên, và đừng gọi là nó, mà gọi là cô ấy, gọi
nàng...nghe cho êm tai. Với lại, con em chị, nhỏ đó nó “khíu chọ” ba vụ xưng hô
lắm.
Nguyên cười khịt
khịt:
- Dạ, em biết chứ
chị. Nhưng mà nghĩ tới con Thi, thì em chỉ nhớ tới con bé tóc bum bê nhỏ xí hồi
học luyện thi à. Em cứ nhớ tới đợt truyện của Duyên Anh, có con Thúy, thằng Vũ,
thằng Khoa... Cho nên, chắc chữ con dính như keo vô tên nó rồi. Lỡ con Thi kêu
em là thằng Nguyên, thì em vẫn cứ thấy… tình tứ hà.
Chị tôi đổi giọng:
- Ừa, tùy ý chú
mầy. Chị nói vậy cho vui, chớ chị hổng bàn ra, tán vô gì đâu nghen.
Phải chi, ngày xưa,
thay vì dấu sách vở của tôi, Nguyên ép vài lá trứng cá trong tập tặng tôi. Phải
chi, thay vì bắt con sâu dứ dứ cho tôi sợ điếng, Nguyên lấy lá dừa thắt cho tôi
con châu chấu. Biết đâu, khi gặp lại, Nguyên không những tặng tôi tấm hình mấy
chục học trò đứng lố nhố. Mà còn tặng thêm tấm hình, chỉ mỗi một cô bé mặc áo
dài trắng, tóc ngang vai, ôm cặp đứng trước cổng trường Nữ Trung Học. Biết đâu,
mặt sau tấm hình nghiêng nghiêng nét chữ nắn nót của tôi:Trưa vàng, cỏ biếc, trời xanh,Môi ai chín đỏ đầu cành phượng xưa.
Hoàng Quân 30.10.200923.07.2015
Lời nhạc từ những nhạc phẩm:
* Phượng Hồng của nhạc sĩ Vũ Hoàng, Thơ Đỗ Trung Quân
*Mùa Thi của nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng
* Nụ Cười Sơn Cước của nhạc sĩ Tô Hải
* Tiếc Một Người của nhạc sĩ Thanh Bình
* Phượng Yêu của nhạc sĩ Phạm Duy
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét