Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2015
Tuấn Khanh - Giải Hoà bình Khổng Tử: khi triết gia bị gả bán
Trong cuộc đời của mình, Khổng Tử không có nhiều chuyện yêu đương, ngoại trừ là chuyện lấy vợ vào năm 19 tuổi, với thiếu nữ có tên là Nguyên Quan Thị. Thế nhưng vào thế kỷ 21, trong bàn tay của Bắc Kinh và giới tư bản thân chính quyền, Khổng Tử đáng thương trở thành người bị ép phải se duyên với nhiều nhà độc tài trên thế giới.
Khổng Tử, thánh nhân tư tưởng của các đời chế độ
phong kiến nhà Hán. Ông mất năm 479 (trước Công Nguyên), để lại một di sản bền
vững về bổn phận tận trung cho giai cấp cầm quyền, bất luận chế độ đó có mục
nát hay tàn bạo đi nữa. Có lẽ vì vậy, chính quyền Bắc Kinh luôn muốn xiển dương
quan điểm này, hủ bại hoá toàn bộ các thế hệ trẻ lớn lên trên đất nước Trung
Quốc, rằng cách mạng, dân chủ hay thay đổi đều là xấu xa hoặc cần phải bị tuyệt
diệt.
Năm 2010, khi Nobel Hoà Bình trao cho ông Lưu Hiểu Ba, một nhà
tranh đấu cho nhân quyền và tự do, Trung Quốc đã tức giận và tuyên bố rằng giải
thưởng này không công chính và “đã tạo ra 1,3 tỷ người bất đồng”. Ngay sau đó,
hậu thuẫn cho giới doanh gia thân chính quyền, Bắc Kinh đã cho hình thành giải
thưởng Hoà bình Khổng Tử – còn được ví von là Nobel Hoà bình Khổng Tử, nhằm đối
chọi lại với giải Nobel Hoà bình hằng năm.
Đây cũng là giải thưởng có nhiều tai tiếng nhất, kể từ khi ra đời
đến nay. Người nhận giải thưởng Hoà bình Khổng Tử đầu tiên là ông Liên Chiến,
cựu phó tổng thống Đài Loan, đã từ chối sang Bắc Kinh nhận giải theo lời mời,
hơn nữa, ông còn nói rằng chẳng biết gì đến giải thưởng gọi là “Hoà bình Khổng
Tử” này.
Nhưng từ sau mùa giải đầu tiên mang tính “rửa mặt” này, Khổng Tử
lập tức phát huy vai trò công cụ chính trị của mình. Năm 2011, Khổng Tử kết
duyên với Tổng thống Nga, nhà độc tài đầy mưu lược Vladimir Vladimirovich
Putin. Năm 2014, giải thưởng này trao cho Fidel Castro, với lý do là hơn 70 năm
tham quyền cố vị ở Cuba, ông ta đã yêu hoà bình, không sử dụng vũ lực với Hoa
Kỳ.
Lịch sử ngắn ngủi của giải Hoà bình Khổng Tử có một điều đáng ghi
nhớ: đa phần người nhận giải đều im lặng và không đến nhận giải. Ngoài cựu tổng
thống Đài Loan Liên Chiến chối bỏ, còn có cựu tổng thư ký LHQ Kofi Annan, Chủ
tịch Fidel Castro, tổng thống Putin cũng không đến nhận giải.
Nhưng giải thưởng Hoà bình Khổng Tử năm 2015 mới thật sự là một
cuộc tranh cãi dữ dội, khi Bắc Kinh dắt tay nhà Triết học vĩ đại của mình gả
bán cho gã độc tài lừng danh ở châu Phi, tổng thống Robert Mugabe. Ngay khi
giải thưởng này được công bố bởi Trung tâm Nghiên cứu hòa bình quốc tế của
Trung Quốc (viết tắt là CIPRC), khắp nơi đã xôn xao về sự kiện này, đa phần là
mỉa mai và nhạo báng.
Lionel Jensen, một giáo sư về ngôn ngữ và văn hóa tại Đại học
Notre Dame (Úc) nói trên tờ The Christian Science Monitor rằng việc “trao giải
thưởng Mugabe, tức là tự làm nhục và hết sức coi thường di sản văn hóa của
Trung Quốc.”
Là một học giả nghiên cứu về Khổng Tử như ông Lionel Jensen, ông
Daniel Bell, nhà tư tưởng hàng đầu về giá trị của Trung Quốc và châu Á tại Đại
học Thanh Hoa, Bắc Kinh nói rằng “Khổng Tử xác định điều tối thượng mà chính
phủ cần đảm bảo điều kiện cho các phúc lợi vật chất của người dân, sau đó giáo
dục cho họ.” Giáo sư Bell, tác giả của nhiều nghiên cứu về Trung Hoa cho biết
thêm rằng, “So với triết lý Khổng Tử, Mugabe đã làm điều ngược lại.”
Tờ Huffington Post tường thuật lại bình luận của giới trí thức qua
Twitter, và tổng kết rằng, hầu hết cùng quan điểm với nhau rằng nếu cứ theo
tiền lệ này, khả năng chiến thắng của năm tới là Kim Jong-un của Bắc Triều
Tiên. Các ý kiến khác còn vui đùa thêm rằng buổi lễ có thể sẽ diễn ra tại The
Hague, Hà Lan, Tòa án Quốc tế.
Bắc Kinh ngợi ca Tổng thống Mugabe là đã “giữ được ổn định khu vực
và phát triển kinh tế”. Có thể đó là lý do Bắc Kinh trao giải cho ông ta nhưng
Robert Mugabe thì được thế giới biết đến nhiều nhất bởi vi phạm của ông về nhân
quyền, bao gồm cả các vụ thảm sát hơn 20.000 người dân ở các tỉnh Matebeleland
và Midlands trong năm 1980 để giữ gìn chế độ. Sức mạnh cai trị của Mugabe ở
Zimbabwe là ám sát, đàn áp, tra tấn và dùng nhân viên an ninh mặc đủ loại
thường phục để trấn áp mọi ý kiến bất đồng.
Zimbabwe là quốc gia lừng danh về sản xuất kim cương, nhưng mỗi
viên kim cương xuất đi từ quốc gia này, đều thấm máu của người lao động hay
nước mắt của người dân nghèo phải mang vác món nợ công bởi sự hoang phí của
giai cấp cầm quyền.
Năm 2005, bộ phim “The Interpreter” do diễn viên Nicole Kidman và
Sean Penn thủ vai, nói về một nhân vật hư cấu có tên là Edmond Zwanie. Câu
chuyện rất giống cuộc đời của ông Mugabe, từ một giáo viên ăn nói nhỏ nhẹ đi
làm cách mạng, đã hóa thành bạo chúa. Sau khi coi bộ phim này, ông Mugabe đã hành
động y hệt như Chủ tịch Kim Jong-un, tức là tuyên bố bộ phim do “CIA tài trợ”
nhằm âm mưu lật đổ ông. Phim The Interpreter ở Zimbabwe hay The Interview ở Bắc
Hàn cũng bị cấm lưu hành như nhau, và bị gọi tên là “âm mưu chống lại chính
quyền của nhân dân”.
Nhưng vì sao Trung Quốc lại háo hức trao tặng giải thưởng mà họ
cho là cao quý nhất cho nhà độc tài Mugabe, bất chấp dư luận? Câu trả lời mang
tính nguyên tắc vĩnh cửu là: Bắc Kinh không bao giờ làm gì mà không có lợi cho
mình. Mối giao hảo của Zimbabwe và Trung Quốc ngày càng đậm sâu hơn, kể từ
chuyến thăm cấp nhà nước kéo dài 5 ngày của Mugabe vào năm 2014. Các báo cáo
tài chính được Forbes tiết lộ, cho biết đầu tư của Trung Quốc tại Zimbabwe đã
vượt lên hơn 600 triệu USD, nhiều hơn bất kỳ quốc gia châu Phi khác. Và mối
giao hảo này được gắn kết rõ hơn thông qua ít nhất hai công ty Trung Quốc, là
Anjin Investment và Tế Nam để khai thác, điều hành mỏ kim cương Marange cực kỳ
quý báu của Zimbabwe.
Trong cuộc chơi chính trị, kinh tế, văn hoá… của các quốc gia lớn,
Trung Quốc cũng muốn góp mặt mình vào đường đua của các nước phát triển, kể từ
khi kinh tế của họ phất lên. Giải Hoà bình Khổng Tử là một ví dụ. Khi gã nhà
giàu mới nổi nghĩ rằng mình có tất cả, đôi khi họ cũng cần có chút thời gian để
thảng thốt nhận ra rằng thịnh vượng không đồng nghĩa là có được cả văn hoá.
Minh chứng cụ thể nhất, là khi họ sẵn sàng gả bán văn hoá của dân tộc mình để
đổi lấy chút leng keng tạm bợ của đồng tiền.