Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2015
Trần Văn Nam - Vũ Hoàng Chương và những ẩn số vũ trụ
Nói về Vũ Hoàng Chương, ta thường nghĩ ngay đến bài thơ “Tháng Sáu Mười Hai”, một trong những bài thơ đại diện cho thời kỳ lãng mạn tiền chiến, hoặc nghĩ ngay đến đoạn thơ:
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh...
Đây là những ý thơ đại diện cho
mặc cảm bị trị và thiếu lý tưởng thời kỳ Pháp thuộc. Sau khi di cư vào Nam năm
1954, Vũ Hoàng Chương lại có bài thơ “Bài Ca Bình Bắc”, đại diện cho luồng gió
đòi Bắc tiến dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Rồi sau phong trào Phật Giáo
tranh đấu đưa tới biến cố 1963, lật đổ Tổng Thống Diệm, ông được truyền tụng với
bài thơ “Lửa Từ Bi”. Cuối cùng là sau năm 1975, Vũ Hoàng Chương có các câu thơ
dự phòng ngày phải vào tù:
Rằng vách có tai, thơ có họaBiết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Như vậy, thơ của Vũ Hoàng Chương
bàng bạc dấu vết thời thế, có những cắm mốc cho mỗi giai đoạn lịch sử đất nước.
Nhớ những nét chính như vậy cho nên ta quên ông có vài bài thơ như đứng bên lề,
không quy tụ nhiều bài thành một đề tài đáng kể trong thi nghiệp Vũ Hoàng
Chương. Đó là hai bài thơ ca ngợi kỹ thuật bay lên không gian và kỹ thuật truyền
thông vô tuyến của thời đại NASA (gọi là thời đại NASA vì miền Nam Việt Nam lúc
đó, thập niên 50 bước qua thập niên 60, dân chúng chỉ biết nhiều qua các thành
đạt về khoa học không gian của Hoa Kỳ hơn là của Liên Xô hay của các nước Âu
Châu).
Thoạt tiên, bài thơ “Đăng Trình”
của Vũ Hoàng Chương mở ra cho ta những ẩn số vũ trụ, nhưng sau đó tự khép lại
bằng truyện giả tưởng con người từ không gian xuống trái đất, đi giữa băng sơn
núi lửa đang gầm thét hỗn mang, rồi chán trái đất mà bay về trời bằng hỏa tiễn
liên hành tinh. Vì vậy những ẩn số siêu hình vốn là nguồn cảm hứng của thi ca
không còn nữa. Đoạn mở đầu tuyệt tác, pha trộn chất thơ trong tư tưởng Phật
Giáo về cát bãi sông Hằng của A-tăng-kỳ kiếp, và chất thơ của tư tưởng Thiên
Chúa Giáo về đấng Tạo Hóa đưa con người từ hư vô ra ánh sáng:
Bao nhiêu hạt cát bến sông nàyĐã bấy nhiêu ngàn thế kỷ nayTa vượt ngàn
năm đường ánh sángTự ngoài vô tận đến nơi đây...
Nếu là Đức Tin tôn giáo thuần
thành, con người xuống trái đất trong thơ Vũ Hoàng Chương phải mang hình bóng
Adam và Eva nơi Vườn Địa Đàng, nhưng trong thơ ông không thấy những nhân dạng
ấy. Vì vậy, nguồn cảm hứng của ông là từ các huyền thoại con người nơi những
hành tinh xa xôi xuống bằng đĩa bay hay phi thuyền, những huyền thoại ấy dồi
dào trong sách báo Tây Phương. Ví dụ về những đường nét kỷ hà và khắc họa khổng
lồ trên sa mạc xứ Peru (chỉ phát hiện ra từ trên máy bay ở độ cao) được một số
nhà văn tưởng tượng đó là vùng phi đạo thời tiền sử dành cho tàu vũ trụ của các
người Hỏa Tinh. Ví dụ về những tượng đá khổng lồ trên đảo Easter chơ vơ trong
Thái Bình Dương, đã hiện diện ở đó cách đây 600 năm, với sức nặng mà máy móc
cần trục ngày nay di chuyển mới hiệu quả: bí ẩn này được nhà văn tưởng tượng là
do các người từ không gian xuống làm việc với đám thổ dân ít ỏi trên đảo, việc
xong họ lại bay đi biền biệt, lưu lại những tượng đá xếp hàng, mặt ngó ra đại
dương, mắt trừng trừng về cõi xa xăm nào đó, như một trầm ngâm tưởng nhớ.
Ngoài truyện giả tưởng về con
người như trên, ta không thể gán ghép kiến thức về vật chất tiến hóa có tính
chất vô thần: Nguyên ủy mầm sống vốn từ thể khí, hỗn hợp thành hóa chất, chứa
trong sao chổi hay đá trời (tiểu hành tinh), rồi mảnh vỡ rớt vào đại dương, bị
dòng điện do sấm chớp đánh xuống, hỗn hợp thành chất sống hữu cơ, thành đơn bào
thô sơ, thành sinh vật sơ khai, và tiến hóa dần thành con người. Đây là những
kiến thức mới nở rộ gần đây trên báo chí Mỹ.
Thời Vũ Hoàng Chương làm thơ về
con người giáng thế như trong bài “Đăng Trình” đầu thập niên 1960, kiến thức
khoa học vô thần này ít phổ biến nên chắc chắn không phải là nguồn cảm hứng của
Vũ Hoàng Chương. Trong văn chương ta có thể khám phá nơi tác phẩm phần vô thức
cá nhân hay phần vô thức tập thể (thừa hưởng tiềm tàng từ tổ tiên, xã hội, cộng
đồng), nhưng không thể gán ghép cho tác giả những kiến thức mà chính người viết
chưa hề nghĩ tới.
Vì vậy ta có thể nhắc lại: nguồn
cảm hứng của Vũ Hoàng Chương về con người xuống Trái Đất bắt nguồn từ tôn giáo
rồi pha trộn với truyện giả tưởng. Sau đó, ông trở về với ý tưởng tôn giáo,
ngưỡng vọng về trời khi Trái Đất trở thành đáng chán:
Đêm đêm ta dõi mấy tầng cao
Tìm một không gian mới lạ nào
Lấp lánh Quê Trời, thơ hẹn bến
Giam mình Quê Đất mãi hay sao
Tuy nhiên, thuyết Tương Đối của
Einstein đã thấy Vũ Hoàng Chương nói phớt qua. Rõ ràng là chính kiến thức đó.
Vậy xin chỉ đề cập vắn tắt: Bằng tốc độ ánh sáng hay nhanh hơn ánh sáng, thời
gian và không gian uốn cong lại, quyện vào nhau. Con người với tốc độ ấy cũng
phải biến thể mà thuộc về vũ trụ kích thước thứ tư:
Nhân loại ra đi chẳng một lần
Hợp tan nào khác mảnh phù vân
Trên đà tốc độ siêu quang ấy
Một chuyến đăng trình một hóa thân
Nhưng về trời bằng cách nào? Vũ
Hoàng Chương nghiêng vào truyện viễn tưởng, cảm hứng vì phấn khởi trước kỹ
thuật hỏa tiễn đưa người lên không gian của “thời đại NASA”. Nó gần với thực tế
(kỹ thuật khoa học) nhưng mục tiêu về trời thì thật xa vời, nên ta gọi là viễn
tưởng. Không tiếp tục với nguồn cảm hứng siêu hình trước những ẩn số vũ trụ, Vũ
Hoàng Chương đã viết những câu thơ đẹp có tính cách thực dụng với “mạn phi
thuyền cháy lên rừng rực”, gần như hãnh tiến với kỹ thuật tiến bộ, mới bay lên
quỹ đạo mà viễn tưởng tới được bờ bến vô cùng:
Này lúc vèo qua Hệ Thái DươngNém sau ngàn đốm lửa kim cương
Bài thơ “Đăng Trình” có những câu
thơ đẹp, tuy hơi nghiêng về kỹ thuật khoa học, một đề tài thoáng qua trong thi
nghiệp Vũ Hoàng Chương. Lúc đó, thơ tự do Thanh Tâm Tuyền và Nguyên Sa chiếm
lĩnh ảnh hưởng trong văn học miền Nam, đẩy lùi thơ niêm luật của Vũ Hoàng Chương
và Đinh Hùng vào sự thờ ơ của giới trẻ. Không như bây giờ đã bão hòa: thơ giữ
niêm luật, thơ mới, thơ tự do, thế nào cũng được miễn là thơ hay. Bằng chứng là
các bài thơ “Những Hướng Sao Rơi” và “Chớp Bể Mưa Nguồn” của Đinh Hùng mãi mãi
vẫn còn hay. Nhưng sở dĩ bài thơ “Đăng Trình” và “Mây Sóng Tình Thơ” của Vũ
Hoàng Chương không được như thơ Đinh Hùng, một là vì đề tài ngả về kỹ thuật
khoa học, vượt qua những ẩn số vũ trụ vốn là nguồn cảm hứng và viễn vọng của
con người thế gian; hai là vì bài thơ “Mây Sóng Tình Thơ” dùng quá nhiều từ ngữ
xưa, gần như đã lỗi thời, chẳng hạn những “tình
lang, tình nương, gã si, gã thi nhân, tia sầu nhớ, nàng trinh nữ, tình cháy
lòng, tình xé ta nát tan...” Ngôn ngữ thật xưa trong khi bài thơ với đề tài
ca ngợi kỹ thuật khoa học, kỹ thuật truyền thông lên không gian của “thời đại
NASA”.
Ngược lại, ngôn ngữ thơ Đinh Hùng
không phải xưa, hay đã lỗi thời, mà là ngôn ngữ huyền ảo, mê hồn. Nó hợp với
nội dung siêu thực, một đề tài chuyên biệt trong thi nghiệp Đinh Hùng.
Bài “Mây Sóng Tình Thơ” pha trộn
thần giao cách cảm với điện đàm viễn thông, giữa tác giả và một nữ thi sĩ Tây
Phương sau khi cả hai đi dự hội nghị quốc tế thi ca. Vũ Hoàng Chương trở về
nước, cộng với cảm hứng vì con người đã thiết lập được trạm tiếp vận tín hiệu
trên vệ tinh bay quanh quỹ đạo trái đất (và dự kiến thiết lập trạm tiếp vận
trên mặt trăng), bài thơ ra đời trong niềm sảng khoái đó:
Đêm đêm Bắc Hải - Thái Bình Dương
Hai chiếc bao lan dài nhớ thương
Mượn nguyệt cầu kia làm tín trạm
Mây tình lang gửi sóng tình nương
...
Cực tử màu chen sắc ngoại hồng
Ngàn tia sầu nhớ vút hư không
Băng qua nguyệt trạm về nơi ấy
Là gã thi nhân đã cháy lòng...
Vũ Hoàng Chương đề cập đến tia
cực tím (cực tử), tia hồng ngoại, tia vô tuyến (radio), đó là những tia nhân
tạo, sản phẩm do máy móc phát ra luồng hạt điện tử. Chúng đi với làn sóng dài
ngắn khác nhau, mô phỏng theo bước sóng (Wavelength) của từng loại tia vũ trụ
trong thiên nhiên. Chính những làn sóng vũ trụ dài ngắn trong thiên nhiên này
đã hé lộ cho con người ngày nay biết nơi phát xuất. Đó là do phóng xạ từ Black Hole, từ Thiên Hà,
từ Quasar, từ tinh vân Nebula (tàn dư các sao hồng khổng lồ tan rã thành hơi
bụi), từ Pulsar (kết tụ do sao nổ sụp vào thành cái lõi vật chất vô cùng nặng),
và huyền ảo hơn hết là từ tàn dư của trận nổ Big Bang khai thiên vũ trụ...
Ta tiếc bài thơ “Đăng Trình” với
đoạn mở đầu tuyệt tác mà rồi ẩn số siêu hình không hiện diện trong toàn bài; và
bài “Mây Sóng Tình Thơ” thì tác giả không đề cập đến nguồn gốc đầy bí ẩn của
những tia vũ trụ. Ta thích những giải đáp dở dang như ở bài thơ dưới đây của Vũ
Hoàng Chương:
Ta còn để lại gì khôngKìa non đá lở, này sông cát bồiLang thang từ độ
luân hồiU minh nẻo trước, xa xôi dặm về...
(Trích bài Nguyện Cầu)
Ta nghĩ Vũ Hoàng Chương hiện đang lang thang đâu đó trên
chặng đường luân hồi, và đang phanh dần ra lời giải đáp cho ẩn số vũ trụ: Ta từ
đâu đến và rồi sẽ đi về đâu?
TRẦN VĂN NAM
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét