Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015
Phùng Nguyễn - Từ ‘Giấc Ngủ Mười Năm’ đến Ác mộng Trăm năm
Chiến tranh, trong mọi thời kỳ, bởi mọi nguồn cơn, là một tai họa lớn lao. Chiến tranh mang đếnsự hủy diệt của không chỉ nhân mạng, làng mạc, phố xá, sông suối, núi rừng mà còn cả tình người, điều giúp cho con người tiếp tục là conngười ngay cả trong những hoàn cảnh đen tối nhất. Chiến tranh cũng là cái cớ tuyệt hảo để người ta đạp đổ những hàng rào luân lý, đạo đức mà không cần phải cảm thấy áy náy. Để chiến thắng, người ta không ngần ngại áp dụng những thủ đoạn vô luân vô đạo. Một trong những thủ đoạn này là gắn đầu ác thú lên thân thể kẻ thù. Giới lãnh đạo của phe chiến thắng trong cuộc nội chiến Bắc Nam vừa qua, gồm thành phần chóp bu của đảng CSVN, chiếm giải quán quân trong lãnh vực này. Trong chiến tranh Việt Nam và rất lâu sau đó, họ đã giúp biến người dân người lính miền Nam thành những con quỷ khát máu, một lũ ăn thịt người trong mắt người dân và bộ đội miền Bắc. Sau khi chiến tranh chấm dứt, họ tiếp tục bôi nhọ hình ảnh người lính miền Nam như thế mặc dù họ đã mỗi ngày chạm mặt, sinh hoạt gần gũi với những con người bằng xương bằng thịt ở phía Nam đất nước. Cái hình ảnh xấu xa họ dựng lên trong thời chiến đã thấm sâu vào xương tủy, tim óc người miền Bắc, và sau này, lan tỏa đến các thế hệ trẻ trong cả nước. Đối với đa số dân chúng, “lính ngụy” và “ăn thịt người” là hai từ luôn đi đôi với nhau.
Nhà văn Trần
Doãn Nho, tù cải tạo cho đến 1981, kể lại kinh nghiệm của ông về hiện tượng này
trong lần viếng thăm thủ đô Hà Nội trong bài ký “Lô sơn yên tỏa”
mà người viết trích dẫn dưới đây.
[…]
Hồng im lặng uống hết cốc nước. Mặt
trời lên cao. Tôi cảm thấy người bứt rứt nóng. Tôi trả tiền, ra đi. Hai chú
cháu đi vòng quanh hồ Hoàn Kiếm. Nắng chói chang trên mặt hồ. Tháp Rùa với lá cờ
đỏ dựng trên đỉnh và câu khẩu hiệu treo chung quanh trông nhỏ hẳn đi. Vài người
câu cá quanh bờ hồ. Đám trẻ con chạy nhảy, la hét quanh các ghế đá. Hồng hỏi
tôi:
- Ở quê mình, người ta theo ngụy nhiều không chú?
- Nhiều. Hầu hết đều là ngụy.
- Sao lại hầu hết. Nhân dân ta mà theo ngụy được à. Chỉ có bọn Thiệu chứ. Cháu
nghe nói bọn ngụy tàn ác lắm, sao lại có kẻ theo chúng nhỉ. Mà chú, sao ngụy lại
ăn thịt người vậy chú?
Tôi quay nhìn Hồng:
- Ai nói với cháu vậy?
- Cháu biết.
- Như chú cũng ngụy mà chú có ăn thịt người đâu.
- Chắc chú lầm lỡ. Chú trông hiền lành, đàng hoàng thế mà ngụy gì!
Tôi cười:
- Cháu sách vở, kinh điển quá.
- Cháu chưa hiểu ý chú.
- Chú muốn nói cháu chỉ lập lại những điều cháu học trong sách vở. Cháu ít biết
bên ngoài.
- Cháu đi thực tế luôn à.
- Thực tế ở đây, chứ ở miền Nam cháu đã biết gì đâu.
Cô gái cười, đôi má phúng phính, hồng lên trong nắng. Tôi lách xe đạp tránh một
bà cụ băng qua đường. Hai chú cháu đi vào một đoạn đường đầy bóng mát. Tiếng ve
kêu ồn ào trên các vòm cây. Hà Nội vào trưa, một buổi trưa hè. Đó là năm 1983.
[…]
Đó là năm
1983. Miền Nam đã “giải phóng”được 8
năm. Nhưng miền Bắc thì rõ ràng là chưa!
*
Tôi đã nói về
đề tài “lính ngụy ăn thịt người” một vài lần, nhưng chưa hề thấy đủ. Bởi vì
chưa hề đủ! Đã có không ít người, vì những lý do mà họ nghĩ rằng cao cả, chỉ muốn
quay lưng lại, tảng lờ, chối bỏ sự hiện diện của những nọc độc văn hóa đang
luân lưu trong huyết quản dân tộc với luận điệu quen thuộc “Hãy chôn chặt
chương sách sử xấu xa này và cùng hướng về tương lai.” Ừ thì chôn. Nhưng chôn ở
đâu? Trong những cuốn sách của những cây bút thế giá đang tiếp tục bày bán đầy dẫy
ở các hàng sách hoặc nằm nghiêm trang trong các thư viện trên cả nước, hoặc trong
chồng sách giáo khoa được mang ra giảng dạy ở các cấp trung và tiểu học hàng
ngày? Hoặc trên hệ thống Internet, nơi những nọc độc văn hóa được ngụy trang
như là dữ kiện lịch sử sẽ xuất hiện trên màn hình máy vi tính của người đọc chỉ
sau vài cú nhấn trên bàn phím?
Trong số những
người tin vào huyền thoại “lính ngụy ăn thịt người” có thể kể đến Tạ Duy Anh và
Hồ Anh Thái, những nhà văn tiếng tăm của Việt Nam, "những người mà dựa vào
chức năng của họ, trí tuệ và khả năng tư duy phải vượt trội hơn những tầng lớp
khác trong xã hội" như tôi đã từng phát biểu. Vậy mà, ở vào những năm đầu
thế kỷ 21, hơn một phần tư thế kỷ sau khi cuộc nội chiến kết thúc, họ tiếp tục
sử dụng huyền thoại “ăn thịt người” khi cần phải mô tả tội ác của “lính ngụy”
trong tác phẩm của mình.
Về các nhà
văn Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái, tôi đã đề cập một cách khá chi tiết trong bài viết
“Khi nhà văn không chỉ là kẻ đồng lõa” và phổ biến trên liên mạng cách đây khá
lâu. Xin dẫn lại ở đây một vài đoạn có liên quan đến điều đang được thảo luận.
Những chỗ in nghiêng là phần mà người viết
muốn lưu ý bạn đọc.
Vào
tháng 11 năm 2002, tôi có cơ hội đọc Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh trên
mạng talawas. Tôi theo dõi Đi tìm nhân vật một cách thích thú,
cho đến gần hết chương 6. Cũng trong năm 2002, tôi có dịp đọc Cõi người
rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái. Vào lúc bấy giờ, hình như
ông là chủ tịch Hội Nhà văn thủ đô Hà Nội. Ở một trang nào đó cũng nằm trong
chương 6, tôi ngừng đọc. Nơi tôi đã dừng lại ở hai tác phẩm, có một điểm rất
chung.
Phần trích dẫn dưới đây từ Đi tìm nhân
vật đề cập đến sự tàn bạo của chiến tranh. Tôi không biết Tạ Duy Anh
đã gặp những khó khăn nào trong việc cho ra đời cuốn sách này (hình như sách bị
tịch thu/cấm phát hành một thời gian?) với phần diễn tả sự thống khoái bệnh
hoạn của người lính bộ đội trong khi tàn sát lũ "lính nguỵ" và đám
"nguỵ cái" dưới đây, nhưng tôi phải thú thực đã cảm thấy có sự khiên
cưỡng trong tâm lý nhân vật:
"... Quân ta ào
lên, bắt giết, đâm, giẫm đạp. Một mụ nguỵ cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ.
Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm
vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa tắt hy vọng. Giết
người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng nguỵ bị mình xọc lê vào bụng, nghe
‘thụt’ một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt
hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giãy chết như con tôm sống bị ném vào chảo
mỡ."
Đoạn kế tiếp là một xung đột đầy kịch tính, phục
vụ cùng một mục đích: diễn tả sự tàn bạo của chiến tranh, trong đó người lính
là con thú mắc bẫy. Người lính cụ Hồ chọn ném đứa bé hai tuổi xuống ao nước cho
chết đuối thay vì để nó, một cách không thể nghi ngờ, bị sát hại bởi "Mỹ
nguỵ" sau đó. Bất kể có đồng ý với cách hành xử của người lính hay không,
tôi ghi nhận nỗ lực của Tạ Duy Anh trong việc chuyên chở khá thành công điều
xem chừng như một nghịch lý: những tư duy nhân bản có khi được thể hiện dưới
những dạng tàn bạo nhất. Đoạn này chấm dứt như sau:
"Hai ngày sau bọn địch phản công. Cả trung đội mình bị băm nát. Thằng
Thiết bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp cò. Bọn nguỵ ào lên
như lũ quỷ, quyết bắt sống thằng Thiết. Như sau này anh em trinh sát kể
lại, chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu trả thù
cho đồng đội. Nó đã hy sinh như
một người anh hùng trên chiến trận."
Dưới đây là đoạn trong chương 6 của Cõi
người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái mà tôi muốn chia sẻ cùng bạn
đọc:
"Hùng lao người bơi xuôi theo dòng suối tương đối cạn, xa hẳn chỗ Hoa đang
nấp. Lũ thám báo văng tục chạy men bờ đuổi theo. Có những chỗ suối cạn không
bơi được, Hùng phải chạy. Bốn tên thám báo nhảy chồm chồm trên những tảng đá
giữa lòng suối, rồi quây được Hùng vào giữa. Anh quật ngã một thằng. Nó cắm đầu
xuống nước, không thấy động đậy gì. Nhưng những thằng kia đã xúm lại. Chỉ một
lát sau, chúng đã lôi xềnh xệch Hùng lên bờ. Thân thể anh bầm dập đẫm máu.
Chúng đấm đá túi bụi để lấy cung cho tới khi anh ngất đi. Anh tỉnh lại, chúng
đánh tiếp. Hoa hiểu vì sao chúng không dùng đến súng. Chúng cũng không
muốn gây ra tiếng nổ ở vùng rừng này.
Cuối cùng, điều Hoa
không ngờ đã tới. Cô chỉ nghĩ rằng bọn thám báo sẽ lôi Hùng đi làm tù binh để
tiếp tục lấy khẩu cung. Nhưng thằng cầm con dao găm của anh đã cúi xuống rạch
một đường thành thạo trên bụng Hùng. Anh quằn quại hét lên một tiếng rùng rợn.
Ở trên cao, Hoa nghiến chặt răng gần như ngất đi. Hai thằng kia đè chặt chân
tay Hùng cho thằng mổ bụng moi tim gan ra. Chúng nổi lửa nướng tim gan
ăn ngay tại chỗ. Hai hột tinh hoàn thì được phân chia cho hai thằng
chắc là cấp cao hơn."
Tạ
Duy Anh là nhà văn có tay nghề cao. Chỉ cần một câu ngắn, "...
chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu trả thù cho đồng
đội", ông đã làm được nhiều việc. Trước hết ông xác lập "thực
tế" dựa vào cung cách diễn đạt ngắn, gọn như một mệnh lệnh của cấu trúc
câu. Người đọc không có thì giờ, và do đó, cơ hội để hoài nghi khẳng định của
ông. Thứ đến, ông "tầm thường hoá", không phải bản chất và mức độ tàn
độc mà là sự hiện hữu và khả năng tái diễn của, một tội ác khủng khiếp bằng
cách nói về nó một cách thản nhiên như đang nói về một sự kiện vô cùng bình
thường, cho dù có trông đợi hay không, sẽ chắc chắn xảy ra một cách đều đặn và
tự nhiên như người Hà Nội sẽ tiếp tục đi ăn chả cá Lã Vọng. Sau hết, ông xác
định "ranh giới" của những tội ác được phép xảy ra: tất cả những gì
khác hơn việc ăn thịt đồng loại, và trong Đi tìm nhân vật, đó là
những tội ác (của bộ đội) xảy ra trước và sau câu văn ngắn gọn nói trên! Không
giống như những đoạn văn khác, Tạ Duy Anh xây dựng đoạn “lính ngụy ăn thịt
người” một cách thoải mái và tự tin, tôi có thể hình dung. Ông không hề ngay cả
trong một sát na hoài nghi điều mình viết xuống. Bởi vì "lính nguỵ ăn thịt
người" là điều có thật, cũng thật như mặt trời sẽ mọc ở hướng Đông vào mỗi
buổi sáng. Ông không phải hư cấu, và ông yên tâm vô cùng.
Riêng về trường hợp Hồ Anh Thái, không có gì khó
khăn để nhận ra đoạn văn của tác giả này chỉ là một sao chép vụng về từ một điều đã nghe/đọc/nhặt từ một hay nhiều
nơi nào khác. "Thám báo ngụy" và "ăn thịt người" là những
cụm từ cũ mèm, sáo mòn được dùng đi dùng lại không biết bao nhiêu lần bởi những
cây viết trước ông. Hơn thế nữa, khả năng “hư cấu” nghèo nàn của ông khiến câu
chuyện càng trở nên khó tin. Ông không nhìn ra cái chi tiết “Chúng
(lính thám báo) nổi lửa nướng tim gan ăn ngay tại chỗ” đangchửi nhau chan chát với “Hoa hiểu vì
sao chúng không dùng đến súng. Chúng cũng không muốn gây ra tiếng nổ ở vùng
rừng này.” Tất nhiên Hồ Anh Thái chưa
từng ở vào cái khung cảnh ông đang diễn tả như là một người lính, bất kể là thám
báo “nguỵ” hay trinh sát “Việt cộng.” Cho nên ông thay vì rón rén mồi lửa lại
đi "nổi lửa" nướng thịt người và trong cùng một lúc rất cẩn thận
không dùng đến súng vì sợ gây tiếng động! Ông không hề biết gì về khoảng cách
và tốc độ mà khói và mùi thịt cháy khét, thịt rừng hay thịt… người, có thể đạt
đến!
Trong
khi tay nghề cao thấp khác nhau, cả hai nhà văn đều cùng chia sẻ một điều: niềm
tin tuyệt đối vào chuyện lính ngụy thật sự ăn thịt người. Tất nhiên Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái không phải là những
nhà văn duy nhất sử dụng huyền thoại này để diễn tả tội ác của người lính miền
Nam. Tôi tin rằng còn có nhiều tác phẩm với những tình huống tương tự. Và tôi
cũng tin như đinh đóng cột là tất cả các tác giả chuyên trị “lính ngụy ăn thịt
người” không có ai chứng kiến tận mắt cái tội ác ghê rợn này. Nhưng tất cả đều
thuộc nằm lòng, đều hăng hái nói về, hăng hái viết về, và sẵn sàng làm chứng
cho sự hiện hữu của một tội ác như thế. Không chút đắn đo!
Tai sao? Quyền
lực nào đã khiến cho họ, một cách mù quáng, biến cái tội ác ghê rợn này thành một
tín điều bất khả tư nghị và vất qua một bên lý trí và chức năng sáng tạo của
mình để chỉ sử dụng một cách máy móc một khuôn mẫu mòn nhẵn để cực tả “tội ác”tưởng
tượng của người lính miền Nam? Cái khuôn đến từ đâu, do ai đúc ra, và trong tình
huống nào. Câu hỏi hóc búa, nhức nhối, đầy dằn vặt. Và trong nhiều năm, tôi không
có câu trả lời.
*
Âm mưu biến
người miền Nam thành bầy thú dữ chuyênăn thịt người bắt nguồn từ đâu? Trong phần
trên, tôi đã đưa ra bằng chứng không thể chối cãi về những nọc độc văn hóa tiếp
tục lan tràn trong huyết quản dân tộc, phần lớn được chuyên chở bởi các tác phẩm
văn học nghệ thuật sản sinh từ nền văn học Cách mạng. Trong nhiều năm, tôi
không tìm được manh mối nào về nguồn gốc của những âm mưu ác độc, vô luân, phản
dân tộc này cho đến gần đây, khi tình cờ đọc một truyện ngắn do một người bạn trên
Facebook đưa đường dẫn. Và Eureka! Tôi tin rằng mình đã tìm được bằng chứng cụ
thể của cái “khuôn mẫu tội ác” mà hệ thống văn hóa tuyên truyền miền Bắc đã sử
dụng nhuần nhuyễn trong gần ba phần tư thế kỷ qua!
Truyện mà
tôi được đọc có tựa đề “Giấc ngủ mười năm, ” sáng tác và truyền bá năm 1949, vào
khoảng giữa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp do Việt Minh lãnh đạo. Trong
truyện, nhân vật chính, nông dân Nông Văn Minh, kể lại tao ngộ kỳ lạ của mình.
Tham gia kháng chiến chống Pháp, bị thương ở đầu, ngất đi và tỉnh lại mười năm
sau. Được Đào, cô con gái nay đã lớn khôn, kể cho nghe diễn tiến trong mười năm
qua, từ chiến thắng rực rỡ của Việt Minh cho đến những thành quả vượt bực trong
việc xây dựng một đất nước độc lập và thống nhất dưới sự lãnh đạo của chủ tịch
Hồ Chí Minh. Một thứ Rip Van Winkleon
steroids, dựa trên cách đánh giá của Ngô Tự Lập. Nguyễn Cao Sinh, trong bài nhận định
cùng tên “Giấc ngủ mười năm” đăng trên báo Văn Nghệ Quân Đội năm 2008, đã không
hề kiệm lời tán dương nội dung của truyện. “Câu chuyện được viết theo bút pháp,
mà các nhà phê bình văn học gọi là ‘bút pháp huyền thoại’, ‘bút pháp giả tưởng’…
đã thể hiện một niềm tin chắc chắn, một niềm lạc quan phơi phới về sự tất thắng
của cuộc kháng chiến, về một tiền đồ tươi sáng của đất nước ta sẽ ‘tiến kịp các
nước tiên tiến trên thế giới’”. Đứng trên quan điểm lịch sử, đặt câu chuyện vào
thời điểm năm 1949 chúng ta càng thấy giá trị, ý nghĩa cũng như tính dự báo
thiên tài của tác phẩm, Nguyễn Cao Sinh phát biểu.
Người viết
không có ý định tranh cãi với ông Nguyễn Cao Sinh về nhận định trên, cho dù
“tính dự báo thiên tài” của tác phẩm không hẳn là hoàn toàn chính xác, thí dụ
như cái viễn tượng “đất nước ta sẽ tiến kịp các nước tiên tiến trên thế giới”
chẳng hạn. Tuy nhiên, qua truyện “Giấc ngủ mười năm,” một số chi tiết hư cấu đã
trở thành hiện thực cho dù có xê xích một số năm. Thành công của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp cũng như sự phổ cập của khẩu hiệu “Hồ Chí Minh muôn năm” là
những bằng chứng cho thấy khả năng “tiên tri” của truyện. Đã có một số ý kiến
qua lại liên quan đến việc tác giả của “Giấc ngủ mười năm” có phải là cha đẻ của
văn học “viễn tưởng” Việt Nam hay không. Trong khi đây là một đề tài thú vị,
người viết xin nhường sân chơi cho quý vị có thẩm quyền trong lãnh vực phê bình
văn học để họ quần thảo. Thay vào đó, người viết muốn chia sẻ cùng bạn đọc một chi
tiết rất quan trọng nhưng, vì một số lý do không khó hiểu cho lắm, hầu như hoàn
toàn bị bỏ rơi hoặc né tránh bởi những người đã bỏ công đọc, nghiên cứu, và nồng
nhiệt tán dương truyện ngắn này.
Ở góc nhìn của
mình, người viết cho rằng “Giấc ngủ mười năm” trước và trên hết là một tác phẩm
tuyên truyền bậc thầy với tầm ảnh hưởng vô cùng sâu rộng, tác động lên tâm lý
đông đảo quần chúng không chỉ trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 –
1954) mà còn về sau này, trong cuộc chiến tranh “chống Mỹ” và các cơ hội khác. Quan
trọng hơn nữa, tác phẩm “Giấc ngủ mười năm” nếu không phải là điểm khởi hành của
thì cũng là bằng chứng cụ thể nhất về một chiến lược tuyên truyền vô cùng hiệu
quả nhằm mục đích biến kẻ thù, bất kỳ “kẻ thù” là ai, thành bầy ác thú man rợ để
khơi dậy căm thù. Và lửa căm thù thiêu đốt lòng người biến thành sức mạnh cần
thiết để chiến thắng. “Biến căm thù thành sức mạnh” là khẩu hiệu quen thuộc được
hô hoán liên tục suốt hai cuộc chiến tranh, không phải vậy hay sao?
Điều gì trong
tác phẩm tuyên truyền “Giấc ngủ mười năm” đã dẫn người viết đến một kết luận nghiêm
trọng như thế, bạn hỏi. Không nhiều, chỉ là một đoạn không dài lắm trong truyện,
bắt đầu với những câu văn được trích dẫn dưới đây:
“Người ta nói dân ở gần mặt trận ai
cũng hăng. Có gì lạ đâu. Tây nó ác quá. Chúng bắt được đàn bà con gái, thì 7 tuổi
đến 70 nó chẳng từ ai. Năm bảy thằng tranh nhau hiếp. Hiếp không chết, thì nó
chặt đầu, móc mắt, mổ bụng, rạch trôn. Có khi chúng bắt con trai hiếp mẹ, cha
hiếp con gái, cho chúng nó coi và cười. Không nghe thì chúng giết cả nhà.”
Tất nhiên là
không có chút xíu liên hệ nào giữa đoạn văn nói trên và phần mô tả lính “thám
báo ngụy” hãm hiếp và hành hạ dã man trước khi sát hại các nữ thanh niên xung
phong trong “Tiểu thuyết Vô đề” của nhà văn Dương Thu Hương dưới đây:
Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa
ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác truồng. Xác đàn
bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ xung quanh.
Trở lại với
“Giấc ngủ mười năm.” Phần mô tả tội ác của thực dân Pháp tiếp tục với những
hình ảnh càng lúc càng ghê rợn hơn như sau:
“Có khi bắt được đàn bà có thai,
chúng nó trói lại như trói lợn, rồi đánh đố với nhau. Thằng thì đoán chửa con
trai. Thằng thì đoán chửa con gái. Rồi chúng nó mổ bụng người đàn bà chửa, móc
đứa con trong bụng ra coi. Thằng nào đoán trúng thì được tiền hoặc thuốc lá.
Có khi chúng nó bắt đàn bà, trói
chân, trói tay lại, lột truồng hết áo quần rồi cho chó con bú cụt cả đầu vú.
Người đàn bà vô phúc van khóc chừng nào, thì Tây reo cười chừng ấy.
Bắt được người già và thanh niên,
chúng nó chọc tiết, chôn sống, chặt đầu, phanh thây, hoặc treo thòng lòng trên
cành cây, chất củi thui. Có khi chúng nó bắt ăn thuốc viên, nói là thuốc chữa bệnh.
Nuốt xong chừng mấy phút đồng hồ thì trợn mắt lăn ra chết, cả mình mẩy tím bầm.
Trẻ con thì chúng nó bắt bỏ trong
chum, nấu nước sôi giội vào. Hoặc trói 2, 3 em lại một bó, quấn rơm và giẻ
chung quanh, rồi chúng nó tưới dầu xăng đốt.
Tây ác như vậy, cho nên dân ta ai
cũng hăng máu lên. Họ nói thà đánh Tây mà chết còn hơn để nó hành hạ mà chết.”
Tây thực dân
ác là cái chắc. Đốt nhà, hiếp dâm, giết người, chúng đều đã có làm. Nhưng để
nghĩ ra những hành động quái đản, ghê rợn trong phần trích dẫn ở trên, tác giả
phải có một khả năng tưởng tượng có một không hai, mãnh liệt đến độ bệnh hoạn. Ở
vào thời điểm này, năm 2015, mặc dù đã từng làm quen với những màn giết chóc,
thiêu sống người dã man của phiến quân Nhà nước Hồi giáo (IS) trên màn ảnh nhỏ,
rất khó để thuyết phục người đọc là bọn thực dân Pháp đã thực sự nhúng tay vào
những tội ác ghê tởm như tác giả mô tả trong đoạn trích dẫn kể trên. Tuy nhiên,
trong những năm kháng chiến chống Pháp, một bộ phận rất lớn dân chúng đã dễ
dàng tin rằng đây là những tội ác có thật của bọn thực dân. Tai sao? Tại vì tên
tuổi, địa vị của tác giả, và nhất là niềm tin và sự tôn sùng của một khối lớn
nhân dân mà tác giả giành được qua những thủ đoạn tuyên truyền tinh vi trong giai
đoạn lịch sử liên hệ.
“Giấc ngủ mười
năm” cùng với các sản phẩm tuyên truyền tương tự được dàn dựng, truyền bá rộng
rãi đến các tầng lớp dân chúng, được đưa vào chương trình tuyên huấn, dân vận để
giáo dục bộ đội và nhân dân biết căm thù, để biến căm thù thành sức mạnh. Và
tác giả, không chỉ là một nhà tuyên truyền thiện nghệ mà còn là một chiến lược gia
tài ba, đã dựa vào sức mạnh của căm thù để lèo lái cuộc kháng chiến đến thành
công. Nguyên tắc “dựa vào căm thù để chiến thắng” tiếp tục sau đó với những cuộc
đấu tranh chống kẻ thù giai cấp trong các đợt cải cách ruộng đất, đánh tư sản,
đánh trí phú địa hào. Và tiếp theo là cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước,”
trong đó kẻ thù, người miền Nam, cần được biến thành ác thú. Vì độc lập tự do hạnh phúc, vì thống nhất đất
nước, mọi thủ đoạn, dù tồi tệ đến đâu, đều có thể được chấp nhận. Hơn nữa,
xuyên tạc, bịa đặt, vu khống là điều bình thường trong công tác tuyên truyền,
nhất là khi nhân danh những điều cao quý, đẹp đẽ nhất. Cho nên, ăn thịt người,
không phải vì đói khát mà vì nhu cầu khát máu của người miền Nam, là một tội ác
“hợp lý” để tròng lên đầu kẻ thù cùng một giống nòi. Nghĩ cho cùng, “ăn thịt
người” thì đâu đã thấm gì so với “tội ác” của bọn thực dân Pháp được mô tả bởi
ngòi bút thần sầu của tác giả trong truyện “Giấc ngủ mười năm.” Những ai đã tin
vào sự hiện hữu của những tội ác như thế nhất định sẽ sẵn sàng tin vào những tội
ác kém man rợ hơn,“lính ngụy ăn thịt người” chẳng hạn. Và như thế, trá ngụy biến
thành tín điều, và mọi người đều hăng hái kể về, nói về, viết về, và làm chứng
cho cái tội ác ghê rợn mà họ khônghề chứng kiến.
*
Sẽ bị xem là
võ đoán nếu quả quyết rằng sự xuất hiện của tác phẩm “Giấc ngủ mười năm” là điểm
xuất phát của chiến lược sử dụng căm thù để chiến thắng. Cũng liều lĩnh không kém
nếu khẳng định rằng khái niệm “biến căm thù thành sức mạnh” là phát minh của
tác giả truyện “Giấc ngủ mười năm.” Vào năm 1949, thời điểm tác phẩm này được
viết ra và phổ biến, Hồng quân Trung Hoa đã kiểm soát toàn bộ hoặc ít nhất phần
lớn lãnh thổ Hoa lục, và ảnh hưởng của đàn anh CS Trung quốc lên giới lãnh đạo
CS đàn em tại Việt Nam chỉ có thể ngày mỗi lớn mạnh thêm. Có thể khái niệm căm
thù đã được tác giả “nhập cảng” từ đồng chí Mao Trạch Đông vĩ đại, người phát động
chiến dịch “Thổ địa Cải cách” với khẩu
hiệu “Vạn niên đích oan yêu thân – Thiên niên đích cừu yêu báo” trong những năm
1946 – 1949 ở Trung quốc và đem áp dụng cho công cuộc kháng chiến chống Pháp và
kế hoạch phát động căm thù trong chương trình Cải Cách Ruộng Đất sau đó. Như vậy,
có thể sách lược dựa vào căm thù để chiến thắng đã có mặt ngay trong giai đoạn
đầu của kháng chiến chống Pháp, trước khi truyện “Giấc ngủ mười năm” được phổ
biến. Trong mọi trường hợp, không thể chối cãi “Giấc ngủ mười năm” là bằng chứng
cụ thể và rõ ràng nhất về việc sử dụng căm thù như là món vũ khí hàng đầu để
chiến thắng, trong chiến tranh cũng như trong các cuộc đấu tranh nhằm tiêu diệt
kẻ thù giai cấp của đảng CS. Chưa bao giờ và ở đâu nguyên tắc “cứu cánh biện
minh cho phương tiện” được nâng lên một tầm cao như vậy.
Căm thù, như
thế, đã trở thành một phần không thể tách rời của văn hóa Việt Nam trong gần ba phần tư thế kỷ, nếu tính từ những
ngày đầu của công cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong chừng ấy năm, bao nhiêu
máu đã đổ xuống, bao nhiêu xương cốt đã đầy lên, bao nhiêu hận thù đã chồng chất,
và còn như vẫn chưa đủ, nọc độc căm thù tiếp tục được bơm vào huyết quản dân tộc,
phần lớn qua các hình thái văn học nghệ thuật và giáo dục. Chỉ cần nhìn lại các
sáng tác thơ văn xuất hiện trong hai cuộc chiến tranh và xa hơn, đặc biệt từ nền
văn học cách mạng. Có được bao nhiêu tác phẩm mà trong đó không nhắc đến chém
giết và hận thù? Có khi nào các nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch, nhà vẽ tranh
v.v.. đã đóng góp vào “sự nghiệp” nuôi dưỡng căm thù dừng lại và tự hỏi mình những
hình ảnh về tội ác mà họ sẽ tròng lên đầu
lên cổ kẻ thù đến từ đâu?
Vì lợi ích
mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng người. Những thế hệ Việt Nam,
hàng hàng lớp lớp, được nuôi dưỡng bởi dòng sữa ngập ngụa hận thù, khi trưởng
thành, sẽ có những đóng góp gì cho đất nước, đặc biệt về mặt văn hóa? Lợi ích
trăm năm hay là ác mộng trăm năm?
*
Đã đến lúc
trả lời câu hỏi đang treo lơ lửng trên đầu lưỡi của bạn. Điều gì làm người viết
quả quyết truyện “Giấc ngủ mười năm,”đúng hơn là tác giả của nó, có đủ quyền lực
để khiến những người cầm bút thuộc nền văn học cách mạng, một cách mù quáng, biến
cái tội ác tưởng tượng “lính ngụy ăn thịt người” thành một tín điều bất khả tư
nghị và vất qua một bên lý trí và chức năng sáng tạo của mình để chỉ sử dụng một
cách máy móc cái khuôn mẫu “tội ác” mô tả trong văn bản tuyên truyền này nhằmbiến
người lính miền Nam thành bầy ác quỷ?
Bởi vì tác
giả là Trần Lực. Còn được biết đến dưới các bút danh Chiến Thắng, Chiến Sĩ,
Howang T.S, Lý Thụy, Nguyễn Du Kích, Nguyễn Ái Quốc, Trần Dân Tiên… trong số
hàng trăm tên hiệu được tác giả sử dụng trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Chức vụ sau cùng của tác giả: Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Có thể bạn sẽ
cảm thấy có chút hoang mang hoặc ngay cả có nhu cầu không để bị thuyết phục bởi
các dữ kiện do bài viết này cung cấp. Không sao! Đó là phản ứng tự nhiên của
người đã quá lâu bị che phủ dưới bóng âm u của thần tượng.
Đây là một trong những trường hợp tốt hơn hết nên để cho người đọc tự tìm lấycâu
trả lời. Người viết xin nhường cho bạn cái công việc điền vào chỗ trống, hoặc
như người Mỹ thường nói, connecting the
dots, nối những chấm dữ kiện trong bài viết để rút ra kết luận cho chính mình.
Nếu vẫn cảm thấy chưa đủ, chỉ cần bấm vào đường dẫn dưới đây để đọc toàn văn
truyện “Giấc ngủ mười năm” cùng với các thông tin liên quan đến
thân thế tác giả. Và hãy yên tâm, sẽ không có tường lửa, bởi vì người CS không
có thói quen dựng tường lửa ngăn chặn nguồn thông tin tuyên truyền của chính họ!
Đường dẫn đến
truyện “Giấc ngủ mười năm”:
Phùng Nguyễn
9/19/2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Tóm lại là NGU và ÁC
Trả lờiXóaTrí thức thì hời hợt, ghen tức tỵ hiềm
Trò tố khổ nhau chỉ diễn ra trên đất CHỬI GÀ ! mất một con gà còn chửi nhau 3 ngày, thì sợ gì mà không giết chết người !
300 năm nữa VN ta cũng không theo nổi Thái Lan...và e rằng không mất nước thì cũng mất văn hoá Lạc Việt.