Thứ Hai, 7 tháng 9, 2015
Phạm Chí Dũng - Nợ xấu ngân hàng 15%: Căn bệnh ung thư nửa mùa
Chẳng cần phải là một bác sĩ chuyên khoa, bạn vẫn có thể nhận ra nợ xấu ngân hàng Việt Nam là một thể dịch hỗn tương của căn bệnh ung thư nửa mùa. Một tổ chức tín dụng độc lập là FT Confidential Research vừa công bố: Tỉ lệ nợ xấu ngân hàng Việt Nam vào khoảng 15% trong năm 2014, thực tế cao hơn nhiều so với con số chính thức.
Sau thời kỳ “ngồi mát ăn bát vàng” những
năm 2007-2011 mà đã bị
giới doanh nghiệp tố cáo là “lãi suất cho vay cắt cổ là cách nhanh nhất để tự
sát,” giới chủ ngân hàng trở về thời
kỳ phôi thai khó
sinh, ngầy ngật trong cơn đau đẻ lợi
nhuận lẫn thể ung thư nợ
xấu rất có triển vọng thuộc về giai đoạn
cuối.
Tất cả
đều
nhảy
múa
Phải đến gần
hai tháng sau nữa đầu năm 2015, một
bản thống kê từ báo cáo tài chính của 13 ngân hàng thương mại
mới hiện ra: Tổng số nợ xấu
của 13 ngân hàng tăng mạnh
21.2%, trong đó rất đáng chú ý, số nợ khả
năng mất vốn
ngày càng đột biến, lên tới 23,850 tỷ đồng, chiếm
đến 50.6% tổng số nợ xấu.
Về cơ
cấu nợ, nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn)
và nhóm 5 (nợ có khả năng
mất vốn) tiếp tục tăng lần
lượt 51% và 22%, nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) có dấu hiệu suy giảm 14%.
Ngay những ngân hàng TMCP nhà nước thuộc loại “cá mập” và luôn được ưu ái về
chính sách tín dụng
như BIDV, Vietcombank và Vietinbank, cũng đứng
đầu về số nợ
xấu - xét theo số tuyệt đối.
Tuy nhiên và
như một hiện
tượng hai mặt lộ diện trong hệ thống tài chính ở Việt Nam, những con số trên mới chỉ là số báo cáo “trong luồng” của các ngân hàng, và được một vài tờ báo mô tả là “không còn sự khác biệt đáng
kể giữa số liệu của ngân hàng thương mại
và Ngân Hàng Nhà Nước.”
Trong khi vào năm 2013, chính ông Lê Xuân Nghĩa, khi đó là phó chủ tịch Ủy
Ban Giám Sát Tài Chính Quốc
Gia, một chuyên gia
“phản biện trung thành” và được coi là người luôn ủng hộ các hành động của Ngân Hàng Nhà Nước, đã phải
tiết lộ là ngay cả Ngân Hàng Nhà Nước cũng không nắm
được số liệu tài chính thực của các ngân hàng thương mại.
Còn vào năm nay, thể
trạng nợ xấu dĩ nhiên lại tồi
tệ hơn nửa
kỳ đầu năm ngoái. Nếu
những năm trước,
Ngân Hàng Nhà Nước cố giấu biệt thực chất số nợ xấu,
thì đến năm 2014 bóng ma này đã buộc phải
lộ hình trước ánh sáng “quyết tâm chính trị” mà giới lãnh đạo Quốc Hội cố ý soi rọi, còn Ngân Hàng Nhà Nước đành tiết
lộ trong tư thế
chẳng đặng đừng.
Đã từ
lâu, nợ xấu chồng chất là án tử cho thị trường tài chính và nền kinh tế Việt Nam. Chỉ đến cuối
năm 2014, Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Nguyễn Văn Bình mới
lần đầu tiên tiết lộ con số nợ xấu
vào năm 2013 lên đến khoảng 500,000 tỷ đồng (tương đương
khoảng $25 tỷ), trong khi vào thời điểm năm 2013, Ngân Hàng Nhà Nước
chỉ công bố “láo” con số nợ xấu
vào khoảng 150,000 tỷ đồng.
Vũ điệu
nhảy múa số liệu nợ xấu của
Ngân Hàng Nhà Nước đã biến
diễn sôi động kể từ khi chính phủ
mới của Thủ Tướng Nguyễn
Tấn Dũng được
thành lập vào Tháng
Tám, 2011. Từ đó đến
nay, thống kê sơ bộ
cho thấy đã có ít nhất
15 lần tỉ lệ nợ
xấu được Ngân Hàng Nhà Nước cho “khiêu vũ,” với
độ biến thiên từ 3% đến 10%. Tuy thế, các số liệu được công bố
lại quá thiếu cơ sở
và chẳng còn làm mấy người ngờ nghệch tin tưởng. Trùng với thời điểm cơ quan này công bố
tỉ lệ nợ xấu
chỉ khoảng 4% vào đầu năm 2014, một
tổ chức xếp hạng tín nhiệm tín dụng có uy tín trên thế giới là Fitch Ratings đã tuyên bố
một con số khác hoàn toàn dành cho
nợ xấu Việt Nam: 13%!
Bắt, bắt
nữa,
bắt
mãi?
Báo cáo sáu
tháng đầu năm 2015 của
13 ngân hàng về tình
hình nợ xấu lại cho thấy đã
chưa có một “phép màu” nào xảy ra với
sự nghiệp “xử lý nợ xấu.” Nếu
Công Ty Quản Lý Tài
Sản Quốc Gia (VAMC) được lập ra từ năm
2013 nhưng cho tới nay đã chỉ “thành công” được
một việc là “ôm” lại nợ xấu với
giá rẻ mạt từ các ngân hàng thương mại
và mới chỉ thu hồi được khoảng
3% nợ xấu, hơn 500 hồ
sơ mà VAMC chào bán nợ xấu cho các doanh nghiệp và tổ
chức tài chính nước ngoài từ năm
2014 vẫn chưa hề
có hồi âm nào được công bố.
Mệnh lệnh thuần duy ý chí và ẩn ý sau đó là “quyết
tâm chính trị” nhằm “chào mừng Đại Hội Đảng 12” của
Ngân Hàng Nhà Nước về “đưa
tỉ lệ nợ xấu
dưới 3%” đến cuối Tháng Chín, 2015 thực ra chỉ là “xử lý” nợ xấu trên giấy
tờ, trong khi về thực chất và theo những chuyên gia phản biện ngân hàng thừa kinh nghiệm như ông Bùi Kiến
Thành, nợ xấu chỉ được “đảo”
từ nhóm có nguy cơ trực
tiếp lên nhóm có rủi ro gián tiếp hơn.
Không còn gì
để bình phẩm! Giai đoạn
2014-2015 đã tự động
“nâng lên một tầm cao mới” về mối nguy cơ tài chính không còn chôn chặt trong tiềm ẩn. Hiện
tượng hàng loạt ngân hàng thương mại
bị Ngân Hàng Nhà Nước đưa vào diện
kiểm soát đặc biệt và bị mua với giá 0 đồng từ năm
2014 đến nay
như Đại
Dương, Xây Dựng, GP và gần nhất có thể cả Đông Á càng cho thấy tâm thế của Ngân Hàng Nhà Nước đang bít bùng trong cố gắng bít vá những
lỗ rò liên tiếp xối xả từ hệ
thống tài chính,
trong khi ngân sách không phải
là thùng không đáy để có thể
trám cho phần lớn các ngân hàng rơi vào tình cảnh
thua lỗ và đối mặt với cảnh nạn phá sản.
Tuy thế, thể trạng ung thư ngân hàng ở
Việt Nam là hầu như rất
kỳ quặc: Trong lúc nợ xấu vẫn
tràn ngập và bộc lộ tâm tưởng hầu như không có lối
thoát, vào thời gian
này lại rộ lên những thông tin khá tốt đẹp tại
một số ngân hàng thương mại.
Cả lương và nhân sự
được tuyển đều tăng; thậm chí một
số nhà báo chuyên viết về ngân hàng còn mạnh tay dự báo rằng thời kỳ khốn khó nhất của giới chủ ngân hàng đã qua đi, mở ra “một
trang sử mới” cho giai đoạn
phục hồi.
Thực ra, thói ích kỷ đến mức
cực đoan không chỉ
là cách hành xử của ngân hàng với khách hàng, mà còn là hố phân cách giữa các ngân hàng với nhau. Tình thế đã
đưa đẩy đến
chỗ “thằng nào chết cứ chết, thằng nào sống cứ hưởng thụ.”
Cứ cho rằng sự mô tả và dự báo lạc quan và dường như đậm
đặc sắc màu ích lợi báo chí-ngân hàng trên
là có thực, song cốt lõi của vấn đề là cảnh
trạng ấm lại đôi
chút ấy sẽ kéo dài được bao lâu, trong khi hầu hết các ngân hàng đều phải trích lập dự phòng ở mức độ
cao theo chỉ đạo hành chính của Ngân Hàng Nhà Nước; còn nợ xấu mà các ngân hàng bán lại cho VAMC vẫn chỉ giống như tiểu
xảo đánh bùn sang ao.
Ngay cả năm
2015 cũng đang
khác nhiều so
với cùng kỳ năm
2014. Ngay sau bản
báo cáo tô hồng của Ngân Hàng Nhà Nước về kết quả
kinh doanh giới ngân
hàng sáu tháng đầu năm 2014, đến
Tháng Bảy năm đó đã
xảy ra vụ khởi tố và bắt giam chấn động, với
chủ thể là Bộ Công An và khách thể là một loạt ba lãnh đạo của Ngân Hàng Xây Dựng. Sau đó ba tháng, đến
lượt “doanh nhân
thành đạt” Hà Văn Thắm
của Ngân Hàng Đại Dương bị
bắt...
Sang năm 2015 càng không hề
êm ả đối với giới ngân hàng. GP Bank -
ngân hàng được coi
là “sân sau” của một lãnh đạo cao cấp, đã dính nạn
với trường hợp Chủ Tịch HĐQT Nguyễn Xuân Sơn - người bị
công an bắt giam chỉ khoảng 10 ngày sau khi ông
này đi Mỹ vào đầu
Tháng Bảy, và ung
dung ký kết thỏa thuận hợp tác với đối tác Hoa Kỳ
trước sự chứng kiến trực tiếp của người lãnh đạo đảng Nguyễn Phú Trọng.
Chỉ ít lâu sau, đến lượt Ngân Hàng Đông Á, với
cổ đông lớn
là Thành Ủy ở Sài Gòn, bị đặt vào tình trạng
kiểm soát đặc biệt và cả dàn lãnh đạo của ngân hàng này bị Ngân Hàng Nhà Nước cách chức.
Rất rõ ràng, thể trạng khối ngân hàng thương mại
hiện thời đang
phát bệnh bạo liệt hơn nhiều
so với những năm trước.
Dù Ngân Hàng Nhà Nước
đã cố gắng
trám bít những lỗ rò bằng biện pháp mua lại các Ngân Hàng Xây Dựng, Đại Dương, GP với
giá 0 đồng, nhưng chiến
thuật thuần tính tình thế đó
cũng có nghĩa là chính phủ
phải “ôm” lại nợ xấu và căn bệnh khó cứu
của những ngân hàng này. Chưa kể
đến việc nếu tiếp tục phát sinh một số ngân hàng khác lâm vào
vòng đau đớn, liệu
Ngân Hàng Nhà Nước
còn đủ sức dang tay “ôm” tất cả và Bộ Công An có đủ can đảm để bắt, bắt nữa, bắt mãi?
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét