Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015
Đỗ Hồng Ngọc - THỞ và THIỀN
Tôi đến với Thiền
rất trễ. Trước đó, những năm hai mươi tuổi tôi cũng có đọc thiền, biết
thiền qua sách vở, qua Krishnamurti, Suzuki, thầy Minh Châu, thầy Nhất Hạnh…
nhưng đọc để biết, để có kiến thức thế thôi. Tôi cảm thấy thiền là cái gì đó
huyền bí xa vời, có phần như mê tín dị đoan nên chỉ “kính nhi viễn chi”. Tôi là
một bác sĩ, hơn 12 năm làm ở Cấp cứu Bệnh viện Nhi đồng Saigon, rồi hơn 20 năm
phụ trách Trung tâm truyền thông và Giáo dục sức khỏe, thực hiện các chương
trình Chăm sóc sức khỏe ban đầu (Primary Health Care), tham gia giảng dạy ở đại
học Y, viết sách báo v.v… làm việc như điên, cho đến một hôm người ta phải đưa
tôi đi bệnh viện để mổ sọ não cấp cứu vì tai biến mạch máu não. Từ lúc lơ mơ
đến lúc tỉnh dậy ở phòng hồi sức… hình như tôi đã trải qua một cuộc… phiêu lưu
kỳ thú! Khi bước đi được trên nền đất những bước đầu tiên lẩm đẩm như một em
bé, tôi thấy quả là một phép lạ. Tôi nhìn tôi trong gương với cái đầu trọc lóc
mà thấy tức cười. Bạn bè trong ngành ai cũng thương cho thật nhiều thuốc. Tôi
chọn dùng một thứ duy nhất bởi biết bệnh mình không thể chữa bằng thuốc mà phải
thay đổi cách sống, cách nghĩ, cách làm. Phải tìm một con đường khác thôi. Rồi
tình cờ tôi đọc lại Tâm Kinh “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa
thời chiếu kiến ngũ uẫn giai không, độ nhất thiết
khổ ách…”. Những câu kinh xưa mịt mờ bây giờ bỗng sáng rõ lạ lùng với tôi. Phải
rồi. Phải tự tại thôi. Phải dựa vào chính mình thôi. Tôi vừa tìm
hiểu kinh thư vừa lục toang đống sách y khoa đã học từ mấy chục năm trước để
tìm kiếm con đường mới mẻ này. Thì ra đã sẵn có một con đường mà bấy lâu tôi
mãi xa lạ. “Đây là con đường
độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh
trí, chứng đắc Niết Bàn…” (Satipatthana, Tứ Niệm Xứ). Con đường độc nhất ư? Có thể dẫn tới thanh tịnh ư? Còn mong gì hơn khi ta đang sống trong một
thời đại đầy “điên đảo mộng tưởng”. Có thể diệt trừ khổ ưu ư? Còn mong gì hơn khi ta đang sống một nếp sống
đầy khổ đau và phiền muộn. Rồi còn thành tựu chánh trí nữa ư?... Thì ra cái “trí” của ta bấy lâu chỉ là cái trí tích cóp, cái
“thức” của ta bấy lâu chỉ là cái thức phân biệt, thị phi…
Thầy thuốc chỉ chữa được cái đau mà không chữa đựơc cái khổ, chỉ chữa đựơc cái bệnh mà không chữa được cái hoạn. Do vậy mà dù
khoa học y học ngày càng phát triển với những thành tựu đáng kinh ngạc nhưng
cũng chỉ là manh mún và thiếu sót, lệch lạc, tình trạng tâm thần, tự tử, bạo
lực, bất an và các bệnh do hành vi lối sống gây ra như tim mạch, tiểu đường,
béo phì… cứ ngày càng phát triển! Thiền, phải chăng là một lối thoát?
“… Và này các Tỳ-kheo, như thế nào là tu tập
nhập tức xuất tức niệm? Ở đây vị Tỳ- kheo đi đến gốc cây, hay đi đến
ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm vị
ấy thở vô; chánh niệm vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy biết: “Tôi thở vô dài”
hay thở ra dài, vị ấy biết: “Tôi thở ra dài” Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: “Tôi
thở vô ngán” Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở ra ngắn”… (Anapanasatisutta, Thích Minh Châu dịch).
Với “kỹ thuật” thiền Anapanasati - Nhập tức xuất
tức niệm, An-ban thủ ý hay “Quán niệm hơi thở”- được dạy trong kinh Tứ niệm xứ (Satipathana):
“con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành
tựu chánh trí...”, một phương pháp thiền căn bản, có cơ sở khoa học, sinh y
học, mang lại sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống vừa là con đường tâm
linh, giúp “thấy biết” Vô thường, Vô ngã, Không, Duyên sinh, Thực tướng vô
tướng... đưa tới “giải
thoát và giải thoát tri kiến” ... chẳng phải tuyệt vời sao?
Tôi vừa tìm hiểu Anapanasati trong kinh sách vừa
lục lọi lại toàn bộ kiến thức y khoa của mình về cơ thể học, sinh lý học, sinh
lý bệnh học và cả mối quan hệ giữa thân và tâm, cơ chế hoạt động của não bộ
v.v... rồi có kế hoạch đi vào thiền tập, thực hành, sau khi tham vấn một vài vị
sư, thầy mà tôi tin tưởng, quý mến.
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy
thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm
(Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là THỞ. Kinh viết “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở
ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn…”. Tóm lại, là luôn quán sát hơi thở, đặt niệm
(Sati, nhớ, nghĩ) vào hơi thở. Chỉ có vậy. Mà vô vàn. Mà “bất khả tư nghì”!
Nhưng khi đọc câu “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở
ra…” có thể gây hiểu
lầm ở đây, bởi ai mà chẳng biết thở cơ chứ! Mới sinh ra thì đã phải thở rồi kia
mà! Thế nhưng ở đây không phải là biết thở, mà là nhận thức được (recognize), ý
thức rõ (realize), cảm nhận được (perceive) cái sự thở, cái hơi thở đang đi vào
và đang đi ra. Đó mới là điều cốt lõi! Nhận thức, ý thức, cảm nhận, ấy chính là
niệm (nhớ), là quán (quan sát, suy tưởng) về sự thở, về hơi thở. Nhờ đó mà một
mặt, ta giải thoát tâm ta khỏi những vướng mắc lăng xăng, một mặt ta nhận ra ý
nghĩa cuộc sống và từ đó, buông bỏ bao nỗi lo toan, sợ hãi của kiếp nhân sinh
để có sức khỏe và hạnh phúc.
Dù gọi là Thiền (Việt) hay Chan (Hoa), Zen (
Nhật)… thì cũng đều có nguồn gốc từ Dhyana (Sanskrit) hay Jhanas (Pali).
Theo ngữ nguyên thì Jha là nhìn, là quán sát, là theo dõi và Ana là thở, hơi thở, là khí. Vậy, jhanas hay dhyana chính là “quán sát hơi
thở”, “nhận thức hơi thở”. Vấn đề là tại sao và cách nào để chỉ từ một
việc có vẻ rất giản đơn là quán sát hơi thở lại có thể dẫn tới tuệ giác, một sự
chuyển hóa từ “khí” mà thành “trí”?
Âu Mỹ mới đi sâu nghiên cứu về thiền chừng
khoảng hơn nửa thế kỷ nay nhưng ngày nay thiền đã được coi là một phương pháp
trị liệu hiệu quả trong y học. Trong thiền định, hành giả có thể giảm hơn 40%
nhu cầu oxy và giảm 50% nhịp thở. Lúc đầu các nhà khoa học nghĩ rằng thiền cũng
giống như giấc ngủ hay nghỉ ngơi tích cực, nhưng qua các nghiên cứu cho thấy
thiền khác hẳn, thực sự là một trạng thái tỉnh giác, ở mức tiêu thụ năng lượng
thấp nhất tùy trình độ hành giả! Ở những hành giả thực hành thiền dài khoảng
30-40 phút thấy mức lactate trong động mạch giảm, phenylalanine tăng 20%, hoạt
động hệ giao cảm giảm trên bề mặt da và nhịp tim cũng giảm đáng kể. Về nội
tiết, thấy giảm cortisol (hormone chủ yếu của stress) và ACTH; TSH cũng giảm,
trong khi đó arginine vasopressin, được coi là có vai trò trong học tập và trí
nhớ lại gia tăng đáng kể. Hiện ngày càng có nhiều nghiên cứu về beta-endorphin,
corticotropin, melatonin, DHEA, hứa hẹn giải thích cơ chế tác dụng của thiền
trên nhiều mặt về y sinh học… Hoạt động điện não đồ EEG cho thấy thiền có
sự khác biệt với nghỉ và ngủ. Nhờ những tiến bộ về kỹ thuật thăm dò chức năng
não bộ như PET (Positron Emission Tomography) và nhất là fMRI (functional
Magnetic Resonance Imaging) đo lượng tưới máu não, cho thấy ở thiền giả một số
vùng não được tưới nhiều hơn vùng khác, chứng tỏ thiền không phải là giấc ngủ,
trái lại là một trạng thái an tịnh tỉnh giác (state of restful alertness). Điều
này cho thấy thiền giả không phải tiêu hao nhiều năng lượng cho các họat động
của vỏ não. Các nghiên cứu về sinh lý học trong thiền vẫn còn đang tiếp diễn,
thế nhưng đã chứng minh được thiền có khả năng làm giảm stress, giảm huyết áp,
tạo sự sảng khoái... là yếu tố của sức khỏe, của chất lượng cuộc sống.
Thống kê của cơ quan bảo hiểm y tế cho thấy thiền
giúp giảm thời gian nằm viện của bệnh nhân và giảm số lần đi khám bệnh.
Nghiên cứu đối chứng về cơn
đau kinh niên, lo âu, trầm cảm, thiền làm giảm 50% các triệu chứng tâm thần nói
chung và giảm 70% triệu chứng lo âu.
Một nghiên cứu trên học sinh cấp 2 có thực
tập thiền, cho thấy kết quả học tập tốt hơn, có khả năng tập trung, có thói
quen làm việc, cải thiện hành vi (xung đột, hung hãn), tăng lòng tự tín, khả
năng hợp tác và quan hệ với người khác.
Thiền cũng giúp làm giảm cân, giảm béo phì,
nghiện thuốc lá, rượu và các chất ma túy nói chung. Đặc biệt, một nghiên cứu
đối chứng ở 44 bệnh viện cho thấy thiền đã giúp làm giảm sai sót chuyên môn y
khoa đến 50%, đồng thời cũng làm giảm 70% các vụ khiếu kiện của bệnh nhân đối
với bệnh viện.
Trở lại với thiền Anapanasati, câu hỏi đặt ra là
tại sao quán sát hơi thở? Sao lại không chọn các đối tượng khác để quán sát?
Thật ra “quán sát” gì cũng được, từ hòn đá, cục sỏi, tới làn sóng, tiếng gió,
hạt sương, ánh nắng … nhưng quán sát hơi thở thì tiện lợi hơn, hiệu
quả hơn mà không sợ những tai biến có thể có trong quá trình “hành thiền”. Ngay
cả trong cơ thể, tim đập khó theo dõi, hoàn toàn ngoài ý muốn, khó can thiệp.
Dạ dày thì làm việc âm thầm, cũng khó mà quan sát. Trừ hơi thở! Hơi thở dễ quan
sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng phải
thở. Ở đâu cũng phải thở. Cái hay nữa là quán sát nó thì không ai nhìn thấy,
chỉ riêng ta biết với ta thôi! Mỗi phút lại phải thở cả chục lần. Lúc mau lúc
chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc phì phò lúc êm dịu. Hơi thở lại rất nhạy với cảm
xúc. Trước một cảnh đẹp, ta “nín thở”. Lúc lo âu, ta hổn hển. Lúc sảng khoái ta
lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn
trạng. Và nhờ đó mà thấy vô thường. Nhờ đó mà ta quán sát được cái tâm ta.
Thở lại gắn mật thiết với các hoạt động cơ bắp. Khi mệt, ta mệt “bở hơi tai”, mệt đứt hơi, mệt hết hơi; khi khỏe, ta
thở nhẹ nhàng sảng khoái! Nhờ đó mà ta quán sát được cái thân ta.
Hơi thở chính là sợi dây nhạy cảm nối kết thân với tâm. Thở vừa ý thức, vừa vô
thức. Như không cần ta. Như ở ngoài ta. Như không có ta. Ở đó, một trạng thái
vô ngã, không thời gian, không không gian. Thở gắn với sự sống chết của kiếp
người. Còn sống còn thở, chết hết thở, tắt thở, ngừng thở. Đời người thực ra
chỉ là… một hơi thở! Khi chào đời em bé khóc thét lên một tiếng thật to để hít
mạnh không khí vào phổi để rồi khi lìa đời, cụ già lại thở hắt ra một cái, trả
lại cho đời tất cả những gì đã vay mượn! Giữa hai lần thở vào thở ra đó là
những đợt thở… lăn tăn như những làn sóng nhỏ, mà nối kết các làn sóng nhỏ lăn
tăn đó lại với nhau ta có cuộc rong chơi trong cõi “Ta bà”! Mỗi hơi thở vào ra
trung bình khoảng 5-10 giây. Mỗi giây, trong cơ thể con người đã có hằng trăm
triệu tế bào hồng cầu bị hủy diệt và hằng trăm triệu hồng cầu khác được sản
sinh. Quán sát hơi thở do đó ta thấy được sự sinh diệt trong từng sát-na.
Thở có thể làm chuyển biến tâm
trạng, chuyển hóa cảm xúc, hành vi ta nữa. Đang sôi giận mà kịp nhớ lại, quán
sát sự thở của mình thì thấy tức cười, bèn quên giận mà hơi thở được điều hòa
trở lại lúc nào không hay: điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển! Nói
khác đi, ta có thể dùng cách quán sát hơi thở để tự kiểm soát cảm xúc và hành
vi của mình. Quán sát hơi thở cũng lôi kéo ta trở về hiện tại -
không còn đắm mình vào dĩ vãng hay tương lai. Bởi vì thở là thở trong hiện tại.
Ở đây và bây giờ.
Phổi ta như một cái máy bơm,
lồng ngực như cái xy-lanh (cylindre), cơ hoành là cơ hô hấp chính, như một cái
pit-tông (piston) thụt lên thụt xuống (giống bễ lò rèn). Cơ hoành có thể nhích
lên xuống khoảng 7 cm, mà mỗi 1 cm đã hút vào hoặc đẩy ra 250 ml không khí.
Thực tế cơ hoành chỉ cần nhích lên xuống chừng một vài cm là đủ… sống. Cũng cần
nhớ rằng phổi “phình xẹp” để đưa khí vào ra là nhờ có áp suất thay đổi. Khi áp
suất âm trong phổi và các phế nang thì khí bên ngoài tự động lùa vào, tuôn vào,
lấp đầy phổi, cho đến một lúc lượng khí bên trong đầy dần lên thì chuyển sang
áp suất dương, sẽ đẩy khí ra. Có một thời điểm áp suất cân bằng nhau, hay nói
cách khác, áp suất bằng không (0 = zéro), thì khí bên trong cơ thể và bên ngoài
vũ trụ chan hòa thành một, không phân biệt. Đó chính là quãng lặng. Quãng lặng
đó ở cuối thì thở ra – trước khi thở vào trở lại – thường kéo
dài, thong dong, nhẹ nhàng, yên tịnh, vì không hề tốn năng lượng. Như chim lượn
bay, không phải vỗ cánh, như xe ngon trớn chạy ở số không, không tốn nhiên
liệu! Tôi cho đó chính là giai đoạn “Prana”. Pra có nghĩa là trước và Ana là
thở vào (trước thì thở vào cũng có nghĩa là sau thì
thở ra). Prana đã được biết đến từ xa xưa. Yoga, khí công, cũng như y học
Đông phương đã nói đến Prana từ thời cổ đại. Trong yoga có “pranayama” là kiểm
soát hơi thở. Trong thiền định, không còn là vấn đề kiểm soát hơi thở nữa mà
hơi thở sẽ tự kiểm soát! Đến một lúc nào đó, khi vào sâu trong thiền định, hành
giả sẽ không cảm nhận mình thở nữa (tứ thiền). Hơi thở nhẹ gần như ngưng bặt.
An tịnh. Hòa tan. Tan biến. Có thể nói đến một phương pháp thiền – tôi tạm gọi
là “Pranasati” ở đây chăng? - tức đặt “niệm” vào quãng lặng. Và thực chất cũng
không còn cả niệm, một trạng thái “vô niệm” hoàn toàn chăng? Những hành giả
giàu kinh nghiệm (thiện xảo) cho biết có thể vào định ngay hơi
thở đầu tiên có lẽ nhờ rèn tập mà khoảng lặng ngày càng dài ra, mênh mông ra
như không còn biên giới, như hòa tan vào hư không, lắng đọng, thanh thoát. Lúc
đó không còn ý niệm về không gian, thời gian, về ta, về người…
Hô hấp diễn ra trong từng tế bào, nhằm tạo ra
năng lượng cho cơ thể hoạt động và tồn tại. Người lao động nặng cần năng lượng
gấp ba bốn lần người bình thường, trong đó hoạt động cơ bắp đã chiếm gần một
nửa. Riêng não bộ, với trọng lượng rất nhỏ bé, chỉ khoảng 2% thể trọng mà
đã tiêu dùng đến 25% năng lượng của cơ thể. Giận dữ, lo âu, sợ hãi tiêu tốn rất
nhiều năng lượng. Cho nên những lúc đó ta dễ cảm thấy kiệt sức, rã rời! Ngủ là
một cách giảm tiêu hao năng lượng, nhưng vẫn còn co cơ, vẫn còn chiêm bao. Một
đêm ác mộng sẽ thấy bải hoải toàn thân khi thức giấc! Thiền giúp tiết giảm tiêu
thụ năng lượng một cách đáng kể, còn hơn cả giấc ngủ. Một khi cơ thể giảm tiêu
thụ năng lượng thì các tế bào được nghỉ ngơi, nên toàn thân cảm thấy thấy nhẹ
nhàng sảng khoái. Trạng thái nhẹ nhàng sảng khoái đó xảy ra trên từng tế bào
của cơ thể. Một cảm giác lâng lâng dễ chịu toàn thân của hành giả, đó chính là
trạng thái hỷ lạc (thiền duyệt).
Cơ thể ta có khoảng trăm ngàn tỷ tế bào. Mỗi tế
bào thực chất là một “sinh vật” háo ăn, háo làm, háo tiêu thụ oxy (để kết hợp
với thức ăn qua những phản ứng gọi là oxyt-hóa) nhằm tạo ra năng lượng. Nhưng oxyt-hóa càng mạnh thì càng tạo thêm các gốc tự do và các chất…
bã, làm cho cơ thể mau mệt mỏi, mau già nua! Giống như một thanh sắt để ngoài
nắng gió một thời gian sẽ bị oxyt-hóa thành rỉ sét. Khi cơ thể đã chùng xuống,
đã giãn cơ, tức giảm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ thấy
không cần thiết phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn (bột, đạm, dầu mỡ)…
nữa. Ăn ít mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế
bào đỡ hùng hục làm việc, tinh thần sẽ sảng khoái. Các nghiên cứu trên sinh vật
bị cho nhịn đói vừa phải thấy sống lâu hơn và trẻ lâu hơn! Hành giả thực hành
thiền hơn 5 năm có tuổi già sinh lý trẻ hơn 12 năm so với người cùng tuổi, dựa
trên 3 yếu tố là huyết áp, khả năng điều tiết nhìn gần của thị giác và khả năng
phân biệt của thính giác.
Ai có thể ‘thở” giùm ai? Ai có thể
“thiền” giùm ai?
(Đỗ Hồng Ngọc)