Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2015
Nguyễn Mạnh Trinh - Phỏng Vấn Nhà Văn Thảo Trường (trích)
![]() |
Nhà văn Thảo Trường (hình: VOA) |
(1) Xin anh cho một vài dòng về tiểu sử của mình?
TT: Tôi tên là Trần Duy Hinh, bút danh Thảo Trường chỉ là một
chọn đặt tình cờ từ khi đăng những sáng tác trên tạp chí Sáng Tạo và
dùng cho đến bây giờ. Vài bút danh nữa ký ở những bài báo trước 1975 hoặc những
thơ văn thời trẻ đến nay tôi không còn dùng nữa. Tôi chỉ học hết trung học và
chưa biết đại học văn khoa là gì. Tôi chỉ thích 4 năm học hán văn với giáo sư
Trần Văn Hào, cụ thích tôi, tôi biết rõ vì chính tôi cũng rất kính yêu cụ, mỗi
lần cụ cho 00/20 điểm trên bài luận văn của tôi thì cụ đều nhìn tôi cười, và
nói: “ Deux zéros! Không lẽ cho điểm âm!” Năm nay tôi vừa lục tuần vì cũng
thích coi tử vi nên tôi thường nhớ tuổi mình là Bính Tý. Quê quán tôi ở tỉnh
Nam Định miền Bắc bên bờ sông Vị Hoàng. Tôi là người thứ chín trong một gia
đình đông con, mười người. Thân phụ tôi mất sớm. Tôi là đứa con bất hiếu, năm
1954 tôi vào Nam bỏ lại mẹ tôi ở quê nhà với người chị gái lo phụng dưỡng ông
nội tôi và coi sóc mồ mả tổ tiên, nhưng sau đó mẹ tôi bị đấu tố, bị tịch thu
hết nhà cửa ruộng vườn, bị đuổi ra ở ngoài gò đất giữa cánh đồng nước mênh
mông. Vào Nam tôi gia nhập quân đội, theo học Khóa 6 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức. Và chính thức viết văn.
(2) Là người lính trước 75, là người tù sau 75 và sau cùng
sang Mỹ tị nạn theo diện HO, anh suy nghĩ thế nào về chiến tranh và thay đổi
thế nào tuỳ theo thời gian cũng như vị trí của anh trong thời điểm ấy?
TT: Tôi đã trải qua một thời chiến, tôi cũng đã trải qua một
thời tù và hiện tôi đang phải trải qua một thời loạn! Tôi đã tham dự cuộc chiến
tranh Việt Nam suốt 17 năm, làm sĩ quan pháo binh chán rồi chuyển sang làm sĩ
quan nghiên cứu “Phương châm chiến lược hai chân ba mũi” của CS, nhiệm sở ở Cục
An Ninh Quân Đội. Qua những công việc đó tôi đã phải đi và ở hầu hết hơn bốn
mươi tỉnh thành của Miền Nam Việt Nam và còn có dịp ra ngoài Bắc nhìn tận nơi
thành phố Hà Nội nhân chuyến nhận tù binh Mỹ ở ngoài đó. Cấp bậc chót của tôi
là Thiếu Tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi bị bắt
làm tù binh. Tôi bị CS giam giữ gần mười bảy năm, trải qua 18 nơi giam giữ từ
Nam ra Bắc rồi từ Bắc vô Nam. CS thả ra, tôi ở Sài Gòn hơn một năm thì sang Mỹ
đoàn tụ với vợ và các con tôi theo hồ sơ IMMI được hơn ba năm nay. Nghĩ về
chiến tranh thì tôi xác định rằng những người cầm đầu băng đảng cộng sản phải
chịu trách nhiệm với lịch sử, họ muốn và họ bắt buộc nông dân phải làm ruộng
theo cách của họ, họ muốn và họ bắt buộc công nhân phải sản xuất theo cách của
họ... họ muốn và họ bắt buộc con người phải sống theo những khuôn phép của họ,
vì thế chiến tranh xảy ra. Mà những điều họ muốn chỉ là những thứ họ bắt chước
của những kẻ sai lầm khác ở bên Nga bên Tàu. Tôi bị cộng sản bỏ tù lâu vào tận
đáy vực của họ để thấy một điều rõ ràng là họ giả dối một cách thiệt tình, họ
tàn nhẫn rất nhiệt tâm, độc ác nhân danh lòng nhân đạo. Những người cộng sản
cấp dưới không biết việc họ làm, vì thế tôi không hề thù hận họ. Song những
lãnh tụ của họ thì phải chịu trách nhiệm về những tan nát của quê hương Việt
Nam. Cái thời chiến đổ vỡ tan hoang đó cũng như cái thời tù cơ cực nghiệt ngã
đó nó phải có tác động nhất định nào đó vào những tác phẩm của tôi. Cũng như
bây giờ sống trong một nước Mỹ không chiến tranh, nhưng thế giới đang ở một
thời loạn, nơi này có kẻ nhận là Chúa, nơi khác có bà xưng mình là Phật, con
giết cha mẹ, mẹ trấn nước con thơ, vợ chồng giết hại lẫn nhau, bom nổ lung tung
giữa trung tâm nước Mỹ, Anh, Pháp... hơi độc giết người tại thủ đô Nhật Bản...
, và ở Việt Nam cũng vẫn còn “ngụy cộng sản” vẫn còn “giả dạng cách mạng”...
thì chúng ta không thể thờ ơ khi làm tác phẩm.
(3) Cuộc đời anh có phản ảnh trong những điều anh viết không?
Có tác phẩm nào như những điều tự thuật?
TT: Tác phẩm là sáng tạo, nhưng đây đó có những chuyện giông
giống người này người kia, hay nhân vật trong truyện xưng tôi thì cũng không có
nghĩa nhân vật là tác giả. Tất cả những gì mà cuộc sống của tôi trải qua, những
gì mà tôi chứng kiến, những gì mà tôi nghe kể lại và những gì tôi đọc được ở
sách vở thì đều có thể là chất liệu dùng làm chất xúc tác khi xây dựng tác
phẩm. Có khi tôi lượm nhiều mẩu đời vụn ở nhiều nơi nhiều lúc sắp đặt vào một
nhân vật. Đã có một người anh họ nói đùa với tôi: “Coi chừng kể cho nó nghe nó
lại “phang” mình vào trong truyện thì bỏ mẹ!” Cũng có khi tôi đem những cái của
mình gán vào một nhân vật nào đó, như là mình cho mượn vậy; bởi vì chính mình,
đã có khi phải đi mượn những mối tình của người khác đặt vào chỗ của mình.
Riêng đời tôi, tôi chưa làm tác phẩm nào tự thuật. Tôi không có ý định viết hồi
ký.
(4) Chắc anh khởi đầu viết từ những truyện ngắn trên tạp chí Sáng
Tạo? Anh có nhớ đó là truyện ngắn với nhan đề như thế nào và anh có kỷ niệm
nào đặc biệt về nó?
TT: Trước Sáng Tạo tôi có những bài tuỳ bút và thơ
đăng trên những nội san ở Hà Nội và Nam Định như nội san của Trường Sĩ Quan Trừ
Bị Nam Định. Khi di cư vào Sài Gòn tôi có viết được một truyện dài nhan đề là
“Đau Thương” nhưng chưa xuất bản. Truyện ngắn đầu tiên của tôi đăng trên tạp
chí Sáng Tạo do nhà văn Mai Thảo làm chủ bút là truyện “Hương Gió Lướt
Đi”, truyện ngắn này sau có in trong tuyển tập Sáng Tạo do tạp chí Văn
xuất bản và dĩ nhiên nó cũng có trong “Thử Lửa” là tập truyện ngắn đầu tay của
tôi do cơ sở Tự Do xuất bản năm 1962. Tôi chẳng có kỷ niệm nào về nó, có người
hồi đó đọc xong tưởng là chuyện có thật của tôi và nói tôi... yêu sớm quá. Thực
ra đó là chuyện của một cô “me tây” với một anh học trò cùng trường lớp với
tôi, tôi chỉ “mượn” câu chuyện của họ rồi... xúc cảm làm thành như là chuyện
của mình. Hồi đó tôi nhát và ngớ. Cho đến bây giờ hình như tôi cũng vẫn còn
nhát và ngớ. Có khi còn hơn thế nữa.
(5) Khi cầm bút anh có mục đích nào? Thích là viết hay để làm
đẹp đời sống, nêu cao những chủ trương triết thuyết?
TT: Tôi làm tác phẩm là để đời.
(6) Anh có một quan niệm khá đặc biệt về truyện ngắn “Câu nói
hay nhất là câu nói ngắn nhất. Viết truyện ngắn là dùng thứ kích thước nhỏ để
dựng vấn đề có khi rất lớn.” Bây giờ vấn đề lớn là gì? (thời sự, con người, văn
chương... ?)
TT: Ông có nhắc thì tôi mới nhớ, tôi có phát biểu đâu đó như
thế với Nguyễn Đông Ngạc trong tuyển tập “Những Truyện Ngắn Hay Nhất” hồi ở
Việt Nam trước 1975. Bây giờ tôi cũng vẫn nghĩ như vậy. Và vấn đề lớn cũng vẫn
là “thân phận con người trong thời đại này”. Tôi vẫn có tham vọng làm sao
“nhét” cả một cuộc chiến tranh vào trong một truyện ngắn, làm sao đưa được cả
một thời đại mình đang sống vào trong một truyện ngắn. Vâng, tôi vẫn hằng mong
muốn làm được như vậy.
(7) Khi anh viết truyện ngắn, động lực đầu tiên để thúc đẩy
anh viết? (nhân vật, đề tài... ?)
TT: Hình như đầu tiên là nhân vật. Tôi vớ được một nhân vật
nào đó ngoài đời làm cho tôi chú ý, nó bắt tôi phải suy nghĩ xung quanh nhân
vật đó về những sự kiện, lời nói và hành động tình tiết cùng những băn khoăn,
mang những ý nghĩa của đời sống, có lý hay phi lý... Rồi có khi những ý nghĩ
của mình bay về quá khứ hay mịt mùng ở một nơi xa xôi nào đó, ý nghĩ bay đi lộn
lại, quần thảo một hồi xong có khi xếp xó để đấy, rồi một lúc nào đó nó lại xẹt
ra, lại quần thảo. Những cơn vật vã như thế sẽ nảy sinh ra những vấn đề, nói
cách khác là có lúc nó sẽ nảy ra đề tài, một đề tài hay nhiều đề tài, loại bỏ
và chọn lựa... cho đến khi sự xúc cảm đem đến cho mình niềm thích thú thì dùng
bút pháp riêng của mình mà thể hiện nó ra. Cũng có khi phải “cất” nó nằm yên
trong “bộ nhớ” ở trong đầu mình nhiều năm, thời gian cất đi để dành này có thể
“nó” còn được nhào nặn thêm qua nhiều suy tư nữa. Trường hợp những truyện ngắn
hình thành mà tôi phải “cất đi” lâu nhiều năm là những hình thành trong thời
gian ở tù CS. Qua Mỹ tôi mới thể hiện nó ra. Bây giờ tôi cũng vẫn đang đi tìm
nhân vật. Tôi tìm trên đường phố, ngõ hẻm, và các thành phố Mỹ. Ngồi nói chuyện
với ông có lúc tôi cũng chợt tự hỏi hay là mình “bắt” người này về làm nhân
vật.
(8) Thường thường, anh
viết có dễ dàng không? Và có sửa chữa gì nhiều sau khi hoàn tất?
TT: Thời trước 75 tôi viết dễ dàng. Bây giờ tôi làm việc vất
vả. Phải sửa chữa chứ, đôi khi phải sửa nhiều. Bây giờ dùng computer nên công
việc sửa chữa rất thuận tiện.
(9) Nếu sửa chữa nhiều, có thể làm lạc đi những ý định ban
đầu khi khở viết không?
TT: Tôi chưa gặp trường hợp phải thay đổi nhiều, chỉ có nhờ
sửa chữa mà nội dung được phong phú thêm, theo ý tôi.
(10) Nhiều người rất thích thú vì những cái bất ngờ xảy ra
khi đang viết. Anh có tâm trạng ấy không? Và trong những truyện ngắn của anh,
có truyện nào anh thấy nhiều “bất ngờ” nhất?
TT: Có một bất ngờ tôi xin kể: Trong truyện ngắn “Viên Đạn
Bắn Vào Nhà Thục”, nhân vật cô bé hỏi nhân vật người lính rằng bên nào đã bắn
vào nhà cô, lúc đầu tôi cho phe hai người bộ đội bắn, sau tôi nghĩ trong giao
tranh bên nào cũng bắn cả và ai biết được hòn tên mũi đạn nó đi như thế nào,
với lại cũng may là viên đạn lại chui vào vách tường không chết ai cả vậy thì
cho nó công bằng một tí, tôi viết câu người lính trả lời cô bé là: “Đạn này
nhãn hiệu Mỹ, nhưng có thể đã bắn ra từ phe tôi và cũng có thể đã bắn ra từ phe
hai người bộ đội, bởi vì bên nào cũng có thứ súng đó hết!” Nhưng khi đưa kiểm
duyệt thì Bộ Thông Tin xoá bỏ mấy chữ “Đạn này nhãn hiệu Mỹ” để giữ hòa khí với
bạn đồng minh Hoa Kỳ, tình nghĩa đến thế là cùng. Rồi các ấn bản cứ phải in với
sự loại bỏ những dòng kiểm duyệt, kể cả bản in ở Mỹ sau đó. Mà nước Mỹ thì họ
đâu cần để ý đến những cái lẻ tẻ đó. Cho nên sắp tới khi xuất bản tập sách có
truyện ngắn ấy ở nước Mỹ này thì nó sẽ đủ nguyên con và mang tên nguyên thủy
của nó là “Nhãn hiệu Mỹ”.
(11) Trước khi viết, anh có dự trù kết cấu của câu chuyện sẽ
viết? Hoặc, không có gì cả và viết một mạch?
TT: Tôi làm việc có dự trù cẩn thận, tôi còn có bản ghi chép
những ý tưởng và những chi tiết cần ghi nhớ sẽ cho vào trong truyện, khi làm
việc tôi thường phải rà xét lại những ghi chép đó để xử dụng nó vào đoạn nào
trong truyện. Nếu lái xe mà chợt nảy ra ý tưởng gì đó, tôi ấn nút ghi chép bằng
máy ghi âm nhỏ, vì sợ quên, về nhà tôi chuyển nó sang bản ghi chép giấy. Những
ghi chép này người khác đọc không hiểu vì tôi ghi theo cách vắn tắt, và nó là
một mẩu giấy chằng chịt ngang dọc gạch xoá những chữ có khi rất vô nghĩa. Có
khi đang viết tôi cũng phải ngưng lại để ghi chép. Có khi đang nằm lơ mơ sắp
ngủ tôi cũng phải vùng dậy lấy bút ghi chép. Thảm lắm! Và như tôi đã nói, mặc
dù có dự trù như thế nhưng trong lúc làm việc những ý tưởng nảy sinh bất ngờ sẽ
làm cho tác phẩm phong phú thêm, và đó là sáng tạo.
(12) Khi trước 1975 anh là người lính và làm báo. Vậy những
công việc ấy có ảnh hưởng thế nào đối với công việc cầm bút làm văn chương của
anh?
TT: Đời lính có cuộc sống luôn luôn sôi nổi, tầm hoạt động
thay đổi, đi nhiều và đi xa, gặp gỡ nhiều, nghe được nhiều và có nhiều cảm giác
lạ... như thế tôi nghĩ có lợi cho công việc đi tìm nhân vật cho tác phẩm mình.
Thời kỳ làm báo cũng giúp tôi mở rộng tầm nhìn vào xã hội và cuộc sống. Nhưng
làm báo lúc đó với tôi là để kiếm thêm tiền nuôi gia đình, tôi nhận viết những
mục phiếm luận trên một số báo ở Sài Gòn và cho in hằng ngày những truyện dài
đã viết của mình, tôi không biết làm tin nên thường không phải đến các toà
soạn. Bài viết từ nhà hoặc từ trong trại lính đêm trước hôm sau nộp, cuối tháng
lãnh lương. Do đó viết văn là cứ viết văn thôi, có ảnh hưởng là ảnh hưởng từ
cái cuộc sống ấy. Nếu nói về thời giờ làm việc thì hồi đó tôi rất sung sức, làm
việc giờ nào cũng được, viết giờ nào cũng được.
(13) Khi viết anh hay dùng ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba?
TT: Điều này phải lục lại tất cả các tác phẩm đếm xem ngôi
nào nhiều hơn ngôi nào, tôi cũng không nhớ rõ nữa ngôi nào tôi hay dùng, hình
như cả hai đều hay dùng cả. Nhưng ngôi thứ nhất cũng không có nghĩa là tôi cơ
mà. Mới đây trong một truyện ngắn tôi đã dùng ngôi thứ nhất cho một con nhện.
(14) Và, trong truyện cũng như tiểu thuyết anh, sự thật chiếm
bao nhiêu phần trăm? Còn hư cấu thì ra sao?
TT: Sự thật chiếm 99%, hư cấu cũng chiếm 99%!
(15) Văn chương phản ảnh thời thế, và từ đó người ta sẽ quan
sát được cả một thời kỳ qua những điều nhà văn diễn tả?
TT: Tôi cũng nghĩ như vậy.
(16) Nhưng có người quan niệm ngược lại, con người là một đề
tài lớn và trường cửu, còn những vấn đề khác xung quanh chỉ là nhất thời không
có giá trị lâu dài. Theo anh, vấn đề này nên suy nghĩ như thế nào?
TT:
Tôi không thấy có gì ngược lại cả. Đúng là con người lớn và trường cửu đối với
con người. Chỉ khi nào không còn con người nữa thì may ra lúc đó vấn đề mới...
nhỏ đi và tầm thường Tác phẩm có thể giúp cho người ta hiểu được vào giai đoạn
ấy ở nơi ấy cái thời thế ấy nó như thế. Vài ba trăm năm nữa hậu duệ của chúng
ta có khi phải đi đào xới nơi này nơi khác để tìm kiếm những di chỉ hoặc là
phải đi lục tìm sách vở báo chí tài liệu trong các thư viện để xem cái nền văn minh
cộng sản nó là gì. Nếu thế thì một tác phẩm văn nghệ cũng có thể chứa đựng một
thế giới riêng trong cái thời đại tác giả đã sống. Mở truyện Kiều ra đọc chúng
ta biết được cái thời thế của cụ Tiên Điền đã sống. Vấn đề này lớn quá và phải
nói dài, có lẽ phải hỏi các vị giáo sư hay các nhà nghiên cứu, phê bình.
(17) Anh có nhiều thời kỳ cầm bút khác nhau, trước và sau
1975 là cái mốc phân cách. Vậy, mục đích khi cầm bút có thay đổi không đối với
anh?
TT: Không. Trước 75 tôi viết cũng chỉ muốn tác phẩm của mình
để đời. Mười bảy năm sau 1975 không viết là vì bị chế độ chính trị khống chế.
Nay thay đổi hoàn cảnh có thể viết được thì lại tiếp tục. Không có gì thay đổi
cả. Điều này có nghĩa là chế độ chính trị không bắt tôi im được mãi, họ chỉ cản
trở tôi được một giai đoạn thôi.
(18) Khi anh viết truyện ngắn hoặc truyện dài, kỹ thuật mà
anh xử dụng có giống nhau không?
TT: Tôi nghĩ là có khác. Kỹ thuật viết một truyện ngắn thường
phải xúc tích ngắn gọn, các tình tiết cần phải được gạn lọc, lựa chọn lấy những
gì là điển hình nhất để đưa vào xử dụng mà thôi. Khi hành văn thì càng ngắn
càng tốt. Với truyện dài có hơi khác vì một đề tài mình muốn viết thành truyện
dài là do vấn đề mình muốn nói trong đó cần phải có một cốt truyện dàn trải ra
với những tình tiết diễn tiến để dẫn tới điều mà mình muốn tác phẩm ấy phải đạt
tới... Tôi không biết nói sao thêm vì tôi không có khả năng lý luận văn học.
Tôi chỉ thấy là có khác biệt khi mình làm một tác phẩm ngắn và khi mình xây
dựng một tác phẩm dài. Nhưng tôi không có ý nói một tác phẩm lớn phải là truyện
dài hoặc thật dài còn một tác phẩm nhỏ thì không thể lớn. Một người bạn Mỹ và
cũng là độc giả của tôi đã đọc những truyện dài trước 75 và mới đây sau khi đọc
những truyện ngắn của tôi viết trong năm qua thì ông ta có nhận xét vui vui
rằng: “ Ngày xưa anh sản xuất rượu bia, ngày nay anh nấu rượu mạnh.” Cho tôi
phỏng vấn lại N. M. Trinh là anh nhận xét thấy thế nào?
(19) Hình như trước 1975, anh có viết những truyện dài đăng
từng kỳ trên các nhật báo. Có người như nhà văn Túy Hồng đã kêu rằng thể loại
ấy làm hư hoại văn chương của bà đi. Còn với anh thì thế nào? Có thể viết được
một truyện dài hay bằng thể loại ấy, theo anh?
TT:
Đúng là như vậy. Nếu phải sản xuất theo kiểu mỗi ngày một mẩu thì làm sao có
mạch văn và tư tưởng liên tục của một tác phẩm dài, ấy là chưa kể khi bận rộn
hoặc gặp lúc bí mà vẫn phải “nộp” bài thì sẽ xảy ra tình trạng “sản xuất” ẩu.
Biết được như thế thì cũng có thể tránh được nếu muốn, bằng cách viết xong một
tác phẩm hoặc ít ra là xong từng chương rồi hãy giao cho các toà soạn in dần
từng ngày. Nhưng khốn nỗi vì nhu cầu sinh sống mà phải viết feuilleton thôi.
Tôi có những truyện dài đã đăng dần trên nhật báo sau mới xuất bản thành sách
mà tôi cũng rất thích. Và cũng có những bản thảo in dần trên nhật báo để lấy
lương tháng sau tôi bỏ không xuất bản thành sách vì nghĩ rằng còn phải mất
nhiều công sức sửa chữa hoặc có thể còn phải viết lại.
(20) Nhân vật chính của anh thường là phụ nữ hoặc các cô bé,
có phải?
TT: Thưa hình như không phải. Điểm lại 16 tác phẩm đã xuất
bản và 6 tác phẩm hoàn thành nhưng chưa in, tôi thấy nhân vật chính của tôi có
đủ loại người, nam, nữ, già, trẻ, lớn, bé... và còn có cả bò, nhện...
(21) Các chất đặc sắc nào mà anh muốn diễn tả từ các nhân vật
của anh? Vì khác thường không giống ai hay vì giống tất cả mọi người?
TT: Nhân vật để biểu hiện điều mình muốn nói trong tác phẩm.
(22) Chiến tranh đã xuất hiện trong văn chương anh như thế
nào? Có phải đó là một đề tài tuyệt diệu trong thời kỳ anh viết lúc trước 75?
TT: Thời chiến mà tôi trải qua thì thế nào nó cũng “nhập” vào
trong các tác phẩm của tôi.
………….
(28) Có người nói cái
chất sôi nổi với đời sống mà anh có trong những tác phẩm thời kỳ trước, bây
giờ, ở những dòng chữ gần đây nhất, trầm lắng đi. Theo anh, điều ấy có đúng
không?
TT: Tôi không đo được điều ấy, có lẽ phải nhờ các nhà phê
bình và thư độc giả. Tôi chỉ thấy rõ nhất một điều là mình già đi, tuổi tác già
đã đành, lại thêm bị cay nghiệt và cơ cực, cho nên cái gì cũng già đi cả.
(29) Có phải sự thăng trầm của đời sống anh đã tạo ra tâm
thức ấy?
TT: Hình như vậy.
(30) Hậu quả của cuộc chiến có phải là sự căm hận, theo anh?
Và anh có nghĩ đến một tương lai hoà giải hoà hợp của dân tộc Việt Nam?
TT: Căm hận hay không, theo tôi, thì tôi đã nói ở trên rồi.
Dân tộc Việt Nam bao giờ cũng vẫn chỉ là một. Không có vấn đề hoà hợp hoà giải
dân tộc. Chỉ có các chính quyền hay phe phái mới nói đến chuyện đó. Chính quyền
CS hiện nay chiếm được đất nước và cai trị theo mánh khoé của họ nhưng đất nước
và dân tộc Việt Nam thì vẫn là đất nước và dân tộc Việt Nam. Chế độ tồi thì đất
nước có lụn bại đi nhưng lịch sử đã diễn ra bao đổi thay, thử hỏi có chính
quyền nào tồn tại mãi được không.
(31) Lằn ranh quốc-cộng, theo anh bây giờ còn hiện hữu không?
Trong thực tế đời thường và trong văn chương?
TT: Trên thực tế ngày nay chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã tiêu
vong. Trên thực tế bây giờ chế độ cộng sản cũng chẳng còn, toàn thế giới cũng
như ở trong nước ta. Chính quyền ở Việt Nam bây giờ chỉ là ngụy cộng sản. Xét
theo mác xít thì đảng cộng sản Việt Nam bây giờ là nghịch đồ của Karl Marx. Văn
chương không có lằn ranh nên cũng chẳng cần hòa hợp hòa giải. Chuyện đó là của
các phe phái.
32) Đối với thế giới, vai trò của Việt Nam CH rất mờ nhạt
trong cuộc chiến vừa qua, kể cả trên phương diện văn chương. Theo anh, đó có
phải là một hình thức bất công không? Và nhà văn phải có nỗ lực nào để được
công bằng hơn?
TT: Về mặt chính trị, nếu Việt Nam Cộng Hòa có mờ nhạt trên
trường quốc tế trong cuộc chiến vừa qua là vì chế độ đó không được chơi bựa
trong khi phía đối phương thì mánh nào họ cũng có thể giở ra. Tôi nói thế cho
dễ hiểu. Nếu văn chương Miền Nam là mờ nhạt thì tại nhà văn Miền Nam chúng tôi
viết tồi, nhưng tính cho đến 1975, có lẽ Miền Bắc cũng chẳng có gì khởi sắc.
Bằng cớ là sau 1975 nhiều người từ Miền Bắc đã tìm cách đọc và có được những
tác phẩm văn nghệ Miền Nam. Nếu nói về âm nhạc thì “nhạc vàng” từ Miền Nam đã
ra giải phóng Miền Bắc một cách thần tốc. (Mặt kinh tế, xe honda cũng kinh
lắm!). Văn chương không cần thế lực nào ban phát công bằng, văn chương soi sáng
cho các thế lực tập tành tự do dân chủ, văn chương tạo ra sự công bằng.
(33) Trong văn chương anh thấy có biên giới nào giữa những
người cầm bút ở trong nước và hải ngoại? Hoặc, ở trong nước giữa những người
Miền Bắc và người Miền Nam?
TT: Các nhà văn Việt Nam chỉ có tổ quốc chung duy nhất là
Quốc Ngữ.
……………
(37) Anh có băn khoăn nào về tương lai văn học Việt Nam ở hải
ngoại. Sẽ suy tàn dần, biến dạng thành một nhánh khác viết bằng ngôn ngữ bản xứ
hoặc hội nhập với dòng văn học ở trong nước?
TT: Văn học Việt Nam thì phải viết bằng Quốc Ngữ. Viết bằng
chữ khác thì không nên gọi là văn học Việt Nam. Tôi thấy có thi sĩ người Việt
làm thơ tiếng Anh hay tiếng Pháp, tôi coi các vị ấy là thi sĩ Mỹ hay thi sĩ
Tây. Văn học Việt Nam viết bằng Quốc Ngữ rồi Tây Tầu Nga Mỹ gì đó nếu thấy hay
thì dịch ra tiếng nước ấy mà thưởng thức, cũng như mình, ngược lại thấy của
người hay thì chuyển ngữ về mà đọc, hoặc là học biết tiếng nước ấy mà đọc. Văn
học Việt Nam ở hải ngoại viết bằng Quốc Ngữ thì cũng vẫn là văn học Việt Nam,
chỉ có tác giả vì một lý do nào đó phải sống ở nước ngoài nhưng vẫn làm văn học
Việt Nam mà thôi, có cần gì phải nhập mới vào được Quốc Ngữ. Quốc Ngữ không
phải xuất cảnh, nhập cảnh bao giờ. Nhà văn đi đâu cũng mang Tổ Quốc của mình
trong tim.
(38) Một ngày của nhà văn Thảo Trường?
TT: Vấn đề ăn ngủ: Đêm ngủ sáu tiếng. Trưa ngủ mười lăm phút.
Ăn ngày ba bữa, uống trà Thái Nguyên. Làm việc: thức mười bảy tiếng gặp gì làm
nấy, nhưng có bốn tiếng ngồi trước máy viết cái gì đó. Với gia đình: sáng sớm
đi bộ cùng với nhà tôi tới nhà thờ và chiều ở bãi biển. Tôi thích tiếp chuyện
với các con tôi (bảy người đã trưởng thành) và thích nhìn đứa cháu nội.
………………
(Đầy đủ bài phỏng vấn xin đọc trong tạp chí Văn
và tập Đá Mục nxb Đồng Tháp)
[Trích từ sách Những Miểng Vụn Của
Tiểu Thuyết của Thảo Trường do Người Việt xuất bản năm 2008, từ trang 305 đến
trang 317.]