Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015
Nguyễn Duy Chính - SỰ ÐÓNG GÓP CỦA GIÁM MỤC PIGNEAU DE BÉHAINE VÀO CÔNG CUỘC CẢI CÁCH Ở GIA ÐỊNH (Tiếp theo và hết)
3. Thiết kế đô thị
Việc quan tâm đầu
tiên của chúa Nguyễn có sự đóng góp của người ngoại quốc là xây dựng một kinh
đô. Kinh đô đó vừa là nơi thị tứ tập trung được một số lượng quần chúng đông đảo
để bảo đảm cho việc bổ sung theo nhu cầu mà còn phải thuận tiện cho thuyền bè nước ngoài vào buôn bán. Riêng trường hợp của chúa Nguyễn, xây dựng
kinh đô cũng là củng cố căn cứ phòng thủ chống lại những trận “giặc mùa”
của Tây Sơn nên hai mục tiêu kinh tế và quân sự đều phải quan tâm.
Việc trở về của Pigneau de Béhaine khiến ông thất vọng
khi không có tất cả những gì ông mong đợi nhưng cũng đem lại một số niềm vui. Hiệp ước Versailles không thi hành nên sau này ông không vướng
vào món nợ với nước Pháp và những người sang giúp ông lại có khả năng thiết kế một mô hình đô thị phòng thủ
(city-fortress). Một số bản đồ về thành phố
Saigon còn tồn tại đến ngày nay có thể giúp chúng ta đưa ra
một số phỏng đoán về khả năng của họ.
Bản đồ thứ nhất
có ghi Plan de la ville de Saigon fortifiée en 1790 par le Colonel Victor
Olivier, Reduit du Grand Plan Levé en 1795 par ordre du Roi de Cochinchine par
Brun Ingénieur. [Bản đồ “thành phố phòng ngự” Saigon do đại tá Victor
Olivier vẽ năm 1790 - được kỹ sư Brun thu gọn từ Đại Kế Hoạch năm 1795 theo lệnh
của vua nước Cochinchine] (bản đồ Brun)
Bản đồ thứ hai
mang tên Plan de la Ville de Saigon fortifiée en 1790 par le Colonel Victor
Olivier, Reduit du Grand Plan Levé par Ordre du Roi en 1795 par Mr. Brun,
Ingénieur de sa Majesté, par Mr Dayot 1799. [Bản đồ vẽ “thành phố phòng ngự”
Saigon do đại tá Victor Olivier vẽ năm 1790 - kỹ sư Brun thu gọn từ Đại Kế Hoạch
năm 1795 theo lệnh của vua nước Cochinchine - họa lại bởi ông Dayot năm 1799]
(bản đồ Dayot).
Một cách tổng
quát, năm 1790 Olivier đã vẽ một mô hình “thành
phố phòng ngự” (ville fortifiée) là mẫu xây dựng theo lối các đô thị được
xây gần bờ biển bao gồm một thành xây (thường là theo kiểu Vauban), chung quanh
là phố xá. Loại thành này khó tấn công, dù có chiếm được khu vực bao quanh thì
vẫn có khả năng tự tồn trong một khoảng thời gian để chờ dịp phản công. Chúng
tôi không tìm thấy bản đồ gốc của Olivier. Tuy nhiên đặc điểm chung của kỹ thuật
vẽ bản đồ thời đó là người đi sau thường chỉ vẽ lại bản đồ có sẵn rồi thêm bớt
một số chi tiết mới nên chúng ta biết rằng bản đồ Olivier không khác với bàn đồ
Brun và Dayot bao nhiêu.
Mô hình của
Olivier được chúa Nguyễn sai Brun thu gọn năm 1795 và Dayot họa lại theo mẫu cũ
của Brun năm 1799. Hai bản đồ này vẽ cách nhau 4 năm, nói chung không có gì
khác biệt mặc dầu bản đồ của Brun có vẽ và ghi chú một số chi tiết chung quanh khu vực đô thị, các vườn dừa, chuối hay ruộng lúa ... Bản
đồ của Dayot có thêm độ sâu của sông Ðồng Nai ở nhiều nơi cạnh thành phố Saigon nhưng tổng quát chỉ là bản sao của Brun.
Cả hai bản đồ có
những ghi chú rõ ràng cung Vua (Palais du Roi), cung Hoàng Hậu (Palais de la
Reine), cung Thái Tử (Palais du Prince), nhà thương (Hopital), trại lính
(Magasin des Troupes), kho súng và lò đúc (Arsenal et Forges), Nhà để xe
(Charonnerie), kho thuốc đạn (Magasin à Poudre), dãy súng thần công (Pare
d’Artillerie), Kho khí giới (Place d’Armes), kỳ đài (Mat de
Pavillion), lò gạch (Briqueteries), công trường (Chantier de construction), bãi
tắm voi (bassin), đệ trạch của Bá Ða Lộc (Maison de l’Êveque d’An-nam), kho bạc
(Monnaie).
Bản đồ White (1820)
Bản đồ vẽ sông Đồng Nai từ
Vũng Tàu vào Saigon
Phụ Trương của
A Voyage to the China Sea
John White [Boston, 1823]
Map of the River
of Don-Nai from Cape St. James to the City of Saigon, from the original by M.
Dayot, Hydrographer to the King of Cochin China 1791 with additions to 1820 by
John White U.S.N.
Bản đồ Brun (1795)
Bản đồ Dayot (1799)
Một bản đồ thứ
ba bao trùm một không gian rộng lớn hơn từ Vũng Tàu vào Saigon nhan đề “Bản đồ sông Ðồng Nai từ Mũi St. James đến thành phố Saigon” [Map of the River of Don-Nai from Cape St. James to the City of
Saigon] do John White vẽ năm 1820 với ghi chú là “Dựa theo Nguyên bản của M.
Dayot, thuỷ hoạ viên của vua xứ Ðàng Trong” vẽ năm 1791.[1] (1) So sánh bản đồ White
và bản đồ Dayot, trong 20 năm, thành phố Saigon đã mở rộng khá nhiều về hướng
tây, quan trọng nhất vào thời gian từ sau khi vua Gia Long thống nhất sơn hà và
Gia Định dưới quyền cai trị của tổng trấn Lê Văn Duyệt.
Bản đồ của White
trắc địa từ ngoài khơi Vũng Tàu [ngoài tên Vung-tau còn có tên Cape St. James tức
St. Jacques theo các bản đồ Pháp] theo sông Ðồng Nai vào tới tận Saigon nhưng
khi đó chỉ mới có thành Gia Ðịnh và một số đường phố dọc theo bờ sông.
Ngoài bản đồ
này, chúng ta cũng còn có thể kiếm được bản đồ của
một họa viên người Việt là Trần Văn Học năm 1815, có lẽ là một trong những kỹ
thuật Tây phương sớm nhất do người bản xứ thực hiện. Trần Văn Học cũng tháp
tùng Bá Ða Lộc khi qua Pháp và học được phương pháp này của Âu châu. Bản đồ này
bao phủ một khu vực rộng hơn bản đồ của Brun nhưng không vẽ đường sá mà chỉ có
các dinh thự (cadastral footprints).
Khi nghiên cứu về những bản đồ này, chúng ta thấy những họa viên và kỹ sư người Pháp đã
áp dụng kỹ thuật mới mẻ nhất của thời đó nên độ chính xác khá cao, vượt trội những
bản đồ trước đây liên quan đến khu vực Ðông Dương và Ðông Nam Á. So
sánh với bộ bản đồ hiếm hoi mà vương quốc Thái Lan còn giữ được[2] (2) [có niên đại sau các bản
đồ này một vài chục năm] dựa theo phương pháp quan chiếu địa lý (geo-reference) thì chúng ta thấy bản đồ Saigon chính xác hơn
chứng tỏ đã được trắc địa bằng kỹ thuật tam giác (triangulation) là cách thức định
vị trí, khoảng cách và cao độ chính xác mới phát minh và được áp dụng ở Âu Châu
chưa lâu.
Những bản đồ đó
không những vượt trội so với bản đồ của nước ta thời Lê mà còn hơn hẳn bản đồ
thời Nguyễn trong bộ Ðồng Khánh Ðịa Dư Chí. Cho tới đầu thế kỷ XX, những họa đồ của người Việt vẫn minh họa theo cách thức nhiều biểu tượng, ít hiện thực của Trung Hoa mà không theo một phương pháp
kỹ thuật nào nên chỉ hình dung được mặt đất chứ không dùng để tính toán độ dài
hay diện tích được.[3]
(3)
Ðứng về mặt kiến trúc, thành phố Sài Gòn cuối thế kỷ XVIII là thành phố Việt Nam đầu tiên được thiết kế và xây dựng theo mẫu Tây phương. John
White cũng miêu tả khá chi tiết về sinh hoạt tại
đây, trên bản đồ thuỷ lộ từ Vũng Tàu về Sài Gòn chúng
ta còn thấy một số đại lộ có cây trồng thành hàng dọc theo hai bên đường có tên
là palmaria (mù u?). [4]
(4)
Theo Trịnh Hoài
Ðức, thành phố Sài gòn khi ấy “đường sá chợ phố ngang dọc được sắp xếp rất thứ tự, bên trái là đường cái quan từ cửa Chấn Hanh qua cầu Hòa
Mỹ đến sông Bình Ðồng tới trấn Biên Hòa, đường
cái quan bên phải gặp chỗ nào cong thì giăng dây để uốn thẳng lại, đầu từ cửa Tốn
Thuận qua chùa Kim Chương, từ phố Sài Gòn đến cầu Bình An qua gò chùa Tuyên đến sông
Thuận An. Bến đò Thủ Ðoàn đưa qua sông Hưng Hòa, trải
qua gò Trấn Ðịnh rồi đến gò Triệu. Ðường rộng 6 tầm, hai bên đều trồng cây mù u và cây mít là những thứ cây thích hơp với đất này. Cầu
cống thuyền bến đều luôn được tăng gia việc tu bổ, đường
rộng suốt phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lý phía nam”.[5] (5)
Bản đồ Trần Văn Học
(1815)
Trích từ Saigon – Gia Định xưa: tư liệu & hình ảnh
(TP HCM, 1997) tr. 30-31
Thành trì phòng ngự
Năm 1789, giám mục
Bá Ða Lộc đem hoàng tử Cảnh về lại Gia Ðịnh cùng với ba chiếc tàu thuỷ và một số người Pháp sang giúp chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn liền bắt tay vào việc xây dựng thành Gia Ðịnh.
Trịnh Hoài Ðức
trong Gia Ðịnh Thành Thông Chí [quyển VI, Thành Trì Chí] miêu tả như sau:
Ngày 4 tháng
2 năm Canh Tuất thứ 13 (1790), tại chỗ gò cao thôn Tân Khai thuộc đất Bình
Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như hình hoa sen, mở ra 8 cửa, có 8 con
đường ngang dọc, từ đông đến tây là
131 trượng 2 thước ta, từ nam đến bắc
cũng như thế, bề cao 13 thước ta, chân dày 7 trượng 5 thước ta, đắp làm ba cấp, toạ
ngôi Càn, trông hướng Tốn. Trong thành, phía trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại, bên tả là kho chứa, bên hữu là Cục chế tạo, xung quanh là các dãy nhà cho quan túc vệ ở. Trước sân dựng cây
cột cờ ba tầng, cao 12 trượng 5 thước ta, trên có làm chòi canh vọng đẩu bát
giác toà, ở bên treo cái thang dây để thường xuyên lên xuống, trên ấy có quân
ngồi canh giữ, có điều gì cần cảnh báo thì ban ngày treo cờ
hiệu, ban đêm treo đèn hiệu canh gác, các quân cứ trông hiệu đó để tuân theo sự
điều động.[1] (6)
Tuy nhiên Trịnh
Hoài Ðức không đề cập đến việc khởi đầu
được thiết kế như thế nào, nhất là nguyên nhân chiến lược của việc
kiến tạo toà thành qui mô đó. Frédéric
Mantienne cho rằng khi biên soạn, họ Trịnh đã “dè dặt loại bỏ những đề cập liên quan đến người
ngoại quốc trong công tác này”.[2]
(7) Mantienne cũng ghi nhận là trong mấy trang tiểu sử Bá Ða Lộc và những người
Âu theo giúp chúa Nguyễn [trong DNCBLT] cũng không nói gì đến việc đó.
Việc khởi đầu
xây thành Gia Ðịnh tính ra khoảng 8 tháng sau khi giám mục Bá Ða Lộc về lại Gia Ðịnh, một khoảng thời gian đủ dài để những kiến trúc sư người Pháp có thể đưa ra một mẫu hình đô thị (master plan) mặc
dù vị trí chiến lược của thành Qui có thể do chúa
Nguyễn quyết định. Sở dĩ chúng ta có thể khẳng
định ảnh hưởng Âu châu của thành Gia Ðịnh vì mô hình tường thành và các pháo
đài hoàn toàn đúng như các kiểu mẫu tìm thấy trong bộ Brittanica mà ở các nơi
khác chưa hề có cho thấy đây là một đột phá về kỹ thuật xây thành và phòng thủ thời đại đó.
Vào khoảng 1673,
trưởng kỹ sư binh bị của vua Pháp Louis XIV là Sebastien Le Prestre de Vauban
đưa ra một dự án cải cách phương thức phòng ngự. Ông nghiên cứu suốt 30 năm và
thuyết phục Pháp hoàng kiến trúc hoặc xây lại 133 thành luỹ ở biên phòng thông với đất địch. Những
thành luỹ đó có qui mô lớn đủ để chứa đựng quân nhu và binh sĩ trong cả công
tác bảo vệ lẫn tấn công. Việc phòng thủ hiệu quả cũng còn làm gia tăng được số
quân chiến đấu để điều động vào những mặt trận khác.[3] (8)
Theo những tài
liệu của người Pháp, thành Gia Ðịnh do Theodore Lebrun hoạ kiểu và Victor
Olivier de Puymanel thiết kế. Trong lá thư
của De Guignes gửi Bộ Ngoại Giao Pháp đề ngày 29 tháng
12 năm 1791 còn tàng trữ tại Hồ Sơ Bộ Hải Ngoại về Á Châu, trích
lại theo Frédéric Mantienne thì có khoảng ba vạn nhân công được điều động để xây thành, dân chúng vì bị đè nén quá nên đã nổi loạn.[4] (9)
John White đến Gia Ðịnh năm 1819 [vào thời kỳ mà vua Gia
Long còn sống nhưng đang ở Huế] miêu tả như sau:
... Chúng tôi
tới một chiếc cầu đẹp làm bằng đá và đất bắc ngang
một hào rộng và sâu, dẫn đến cửa
đông nam của tòa thành, hay chính xác hơn, một quân trấn vì các bức tường đều bằng gạch và đất cao khoảng 6 mét, dày vô cùng, vây quanh một khu vực
hình tứ giác mà mỗi bề đến hơn
1km.
Nơi đây viên
tổng trấn[5] (10) và các võ quan ở, ngoài ra có những
doanh trại khang trang, tiện nghi đủ sức chứa đến năm vạn quân. Dinh vua ở nằm ở giữa thành trên một vùng đất xanh
tươi tổng cộng chừng 8 mẫu chung quanh có hàng rào cao. Dinh thự đó hình chữ nhật,
một bề 30, một bề 18 mét, xây chủ yếu bằng gạch
với mái hiên có che mành, cao hơn mặt đất chừng 1.8 mét trên một nền gạch và đi lên bằng những bậc thang gỗ chắc chắn.
Mỗi bên bốn bề của cung điện cách chừng 30 mét ở đằng trước là một tháp canh hình
vuông, cao khoảng 9 mét, bên trên treo một cái chuông lớn. Ở phía sau dinh cách
chừng 45 thước là một cung điện cũng bề thế không kém, bao gồm những phòng cho các bà và những văn phòng đủ loại,
mái lợp ngói tráng men, trang trí bằng hình rồng phượng và các quái thú chẳng
khác gì ở Trung Hoa.[6](11)
Theo các thương
nhân Âu châu có dịp ghé Gia Ðịnh và hoạ đồ của thành phố Saigon còn lưu lại,
thành Qui xây bằng đá, chu vi đo được 4,176 mét. Trịnh Hoài Ðức viết:
... Hào rộng
10 trượng 5 thước, sâu 14 thước ta, có cầu treo thả ngang qua, bên ngoài đắp
lũy đất, chu vi 794 trượng, vừa hiểm trở, vừa kiên cố tráng lệ.[7] (12)
Thành được xây theo hình đa giác, có bốn hướng chính, bốn góc là bốn
pháo đài, ba cạnh lại có thêm hai pháo đài phụ, tổng cộng cả thảy là 10. Thành
được đặt tên theo tám hướng Càn Nguyên, Ly Minh, Chấn Hanh, Cấn Chỉ, Khôn Hậu,
Khảm Hiểm, Ðoài Duyệt, Tốn Thuận. Việc dung hợp và pha trộn giữa Ðông và Tây
trong kiến
trúc tương đối khá phổ biến tại
Ðông Á thời kỳ
này. Do đó thành Qui được đặt tên theo bát quái, lại miêu tả như hình hoa sen.
Một số hoạ bản trong bộ Encyclopaedia Britannica
(in lần thứ nhất, 1771)
(in lần thứ nhất, 1771)
Gunnery (giữa tr. 756-7)
Fortification (giữa tr. 620-1)
(Giữa tr. 616-7)
(Giữa tr. 620-1)
Ship (giữa tr. 584-5)
Theo Trương Vĩnh
Ký, thành Qui và các cầu xây bằng đá Biên Hòa, tường cao 5.2 mét, giữa có kỳ đài, tám cửa có tên Gia Ðịnh, Phan Yên, Vọng Khuyết, Cộng Thìn, Hoài Lai, Phục Viễn, Ðịnh Biên, Tuyên Hóa.[1] (13)
Việc tổ chức lại
thành Gia Ðịnh theo kiểu Vauban đã có những kết quả tốt. Tuy
về sau quân Tây Sơn không còn tấn công
vào Gia Ðịnh nhưng thành Qui đã chứng minh được sự hữu hiệu trong công tác
phòng thủ khi Lê Văn Khôi làm phản, quân triều đình vây
thành hơn 3 năm mới hạ được. Năm 1836, thành Qui bị phá huỷ và triều đình cho xây lại một thành nhỏ hơn, chỉ có bốn cạnh gọi là thành Phụng.
5. Cải cách quân sự
- Trang bị
Cũng với tình
hình tài chánh khả quan, ngay từ năm 1791, chúa Nguyễn đã mua được 10,000 súng
trường (muskets), 2,000 súng thần công (mỗi cỗ 100 cân) và 2,000 đạn nổ (đường
kính 10 tấc).[2]
(14)
Khi quay trở
về cái cửa nam lớn mà chúng tôi đã vào,
chúng tôi đi qua một hàng hiên rộng,[3]
(15) bên dưới xếp khoảng
hai trăm năm mươi khẩu thần công, nhiều kích cỡ
và kiểu khác nhau, lắm cái đúc bằng đồng, chủ yếu là do Tây phương chế tạo,
thường được đặt trên các giá gỗ để trên tàu hư mục nhiều mức độ.
Trong số này
chúng tôi thấy có một dãy chừng độ một tá [dozen] đại bác pháo binh trên có dấu hiệu ba bông hoa huệ [fleurs
de lis] và khắc chữ được đúc dưới thời Louis XIV[4] (16) còn trong tình trạng khả quan. Gần
đó có một số súng giả bằng gỗ để cho lính tập và ở đồn gác chính, gần cổng ra
có mấy người lính bị đóng gông [caungue (sic)]. Ðến bây giờ chúng tôi mới biết gông
dùng cho quân đội làm bằng tre còn những tội nhân khác thì làm bằng gỗ lim nặng.
Phía bắc của cửa đông là một pháo đài có cột cờ, nơi đó cờ An Nam treo lên ngày
đầu tháng âm lịch và những dịp lễ khác.
Có tất cả bốn
cửa làm rất kiên cố tán đinh sắt theo kiểu Âu châu, có cầu bắc ngang hào nước
được trang trí bằng nhiều chạm nổi đủ loại kiểu cách quân sự và
tôn giáo trên các vách. Trên mỗi cửa có các vọng lâu vuông, mái ngói và cầu
thang đi lên trên tường ở hai bên cửa phía bên trong thành.
Ở khu vực
phía tây thành phố là một nghĩa địa có tường vây quanh, bên trong có vài chiếc lăng mộ của mấy viên quan xây rất tráng lệ theo kiểu Trung Hoa. Một
vài nhà mồ có khắc chữ và phù điêu trên đá, đường nét ngoạn mục.
Khu vực đông
bắc có sáu tòa nhà lớn, có rào chung quanh, căn này cách rời căn kia. Mỗi biệt
thự đó vào khoảng 36 x 24 mét, mái có những rui mè rất chắc chắn, lợp ngói
tráng men, có cột bằng gạch, giữa hai cột có vách gỗ chắc chắn cao chừng 5.4
mét. Ðây là các kho chứa đồ tiếp liệu
cho binh lính và hải quân, thực phẩm, khí giới ...
Nhiều lều của các nhóm binh lính đóng rải rác
bên trong tường, nằm lẩn với các bụi cây nhiệt đới trông rất nên thơ. Ngoài những
thứ khác, chúng tôi cũng thấy có mấy đống phân chồn. Nhiều đường đi đẹp tỏa ra tứ phía, hai bên có trồng cây palmaria, một loại
cây đẹp, giống như cây lê [pear-tree],
có hoa trắng thơm nồng mà đến tháng
mười, mười một thì tỏa ra rất xa. Từ hoa này, người dân bản xứ trích ra một loại
dầu mà họ bảo là chữa được mọi thương tích.
Ngoài cửa
thành dưới triền dốc mà con đường gạch bị cắt đứt có
thả rong vài con voi của triều đình
có nài chăn, ngồi trên cổ voi. Vài con trong số này có thân hình khổng lồ, lớn
hơn những con voi tôi thấy ở Ấn Ðộ nhiều. Những
người nài – đúng hơn là người đi chăn – cầm một cái ống gỗ bịt hai đầu, chính
giữa có một cái lỗ mà họ thổi thành tiếng giống
như thổi vào một cái thùng rỗng để nhắc chừng cho người đi đường biết là voi đang tới vì họ ít khi nào muốn mất công phải lái voi qua hướng
khác khi gặp chướng ngại, và quả thật tức cười khi thấy mấy bà già đang buôn bán
khi nghe thấy tiếng hụ lập tức thu dọn hàng hóa chạy ra
một quãng xa trong khi voi xuống bờ sông uống
nước rồi quay về.[5](17)
- Hệ thống tổ chức
Quân đội theo hệ
thống Tây phương được đánh giá trên hai ưu điểm: trang bị và hệ thống tổ chức.
Theo một tấm ảnh màu vẽ hình một người lính Ðàng Trong vào cuối thế kỷ XVIII, người lính thời Nguyễn về ngoại biểu rất
giống một người lính Pháp và chúng ta có thể tin rằng y phục và trang bị đó là
một phó bản của Âu Châu.[6] (18) Việc thống nhất trang
bị, huấn luyện và quân phục ngay từ đầu khiến quân đội của
Nguyễn Ánh đã có vẻ chuyên môn, khác hẳn với quân đội Tây Sơn mà theo những
hình ảnh William Alexander bắt gặp năm 1793 tại Tourane thì vẫn rất gần gũi với
dạng dân quân (militia) trông như một người dân bình thường, chỉ khác ở chỗ có
trang bị vũ khí.[7]
(19)
Tổ chức cũ thường
phong cấp dựa trên số quân sĩ mà một cá nhân tự mộ tuyển, giống như một dạng
thân binh, tuỳ tòng nên việc thống nhất chỉ huy thường
lỏng lẻo, dễ đưa đến nạn sứ quân. Một khi chủ tướng bị thất
sủng hay bị giết, quân sĩ dưới quyền thường tách ra, có khi chống lại triều đình [chẳng hạn
quân Ðông Sơn của Ðỗ Thanh Nhân]. Vì thế, việc đầu tiên
chúa Nguyễn thay đổi theo lối Tây phương là thống nhất chỉ huy theo hệ thống
kim tự tháp, chỉ định những cá nhân có thực tài và am tường chuyên môn vào vị
trí chỉ huy hoặc thường trực, hoặc theo chiến dịch. Với kiến thức của chúng ta ngày nay, việc bổ nhiệm tướng lãnh đó không có gì
ghê gớm nhưng trước đây hai thế kỷ là một cuộc cách mạng lớn lao.[8] (20)
Trong quân đội của
chúa Nguyễn đã xuất hiện những cá nhân đóng vai trò khá đặc biệt bất kể gốc
tích là hàng tướng hay người đã theo ông từ lâu, người Việt hay người nước
ngoài, người trong tôn thất hay dân dã ... khác hẳn với truyền thống sử dụng người gần gũi, có liên hệ thân tộc, huyết thống trong chức vụ chỉ huy để làm vây cánh. Những đơn vị cũng được ấn
định rõ ràng về số lượng và nhiệm vụ thay vì tuỳ tiện theo nhu cầu.
Chúa Nguyễn cũng
thiết lập một hệ thống tiếp liệu và lương bổng dựa vào thuế má thay vì chỉ
dựa vào “chiến lợi phẩm” [mà có cái tên rất kêu là “dĩ
lương ư địch” (lấy lương thực của địch để nuôi quân mình)] không những đã bấp
bênh lại dễ thất nhân tâm. Cải cách đó cũng khác hẳn với đối thủ của ông là
quân Tây Sơn thường có khuynh hướng thu vét hay đốt phá những vùng của địch mà
họ chiếm được điển hình là những lần vào đánh
Gia Ðịnh hay khi mới chiếm được Bắc Hà. Việc quân Xiêm sang giúp
rồi trở thành một đám cướp lớn đưa đến thua trận
cũng là một kinh nghiệm mà Nguyễn Ánh không muốn tái phạm. Ngoài khả năng chiến đấu, chúa Nguyễn cũng thấy rằng nếu muốn duy trì
một lực lượng thường xuyên và không tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh bên ngoài, quân đội phải được chính qui hoá nghĩa là được huấn luyện
chu đáo và chỉ sử dụng trong công tác chiến đấu mà thôi.
Một số lực lượng của ông là người nước ngoài được tuyển mộ và trả lương giống
như những “lính đánh thuê” mà ông thấy hiện hữu ở lân bang, mặc dù sử Việt
Nam sau này ghi nhận họ như những đội quân tình nguyện.[9] (21)
Nhờ mạng lưới
truyền giáo tại Á Ðông, Bá Ða Lộc giúp chúa
Nguyễn mua được “vài tàu súng ống và đạn dược” [several cargoes of arms
and ammunitions] ở Pondichery và Mauritus. Chúa Nguyễn cũng gửi một số tay chân
thân tín người Hoa, người Pháp và người Anh đi sang Goa, Melaka, Penang, Macao
và cả Singapore để mua các loại súng mới.[10] (22) Với một thành phần
phò tá tương đối đa dạng,[11] (23) việc sử dụng được họ
mà không tạo ra những mâu thuẫn về sắc tộc, về địa phương có thể nói là một thành công đáng kể của chúa Nguyễn vì
cũng trong thời kỳ đó, đối phương của ông lại rơi vào những
tranh chấp cục bộ nên càng lúc càng rơi vào thế tự hoại.
Theo Barrow, chúa
Nguyễn đích thân chỉ huy một đoàn chiến thuyền 1200 chiếc chia thành ba đội và được thao dợt chỉ
huy bằng cờ hiệu rất nhịp nhàng. Các sĩ quan hải quân cũng được học cách sử dụng
cờ hiệu theo lối Tây phương.[12] (24)
- Xây dựng cơ xưởng
Trong một khoảng
thời gian tương đối ngắn, chúa Nguyễn đã tập trung xây dựng những cơ xưởng đúc
súng đạn, nhất là chế tạo chiến thuyền. Theo ghi nhận của người Âu châu, Bá Ða Lộc đã giúp chúa Nguyễn xây
dựng nhiều cơ sở hạ tầng, vừa có giá trị kinh tế, vừa phục vụ mục tiêu quân sự. Vào thập niên 1790, chúa Nguyễn xây dựng
một nhà máy chế tạo diêm tiêu (salpetre hay potassium
nitrate), khai mỏ và lò luyện kim để đúc súng thần công. Diêm tiêu là hỗn hợp
quan trọng nhất trong việc chế tạo thuốc súng vốn phong phú ở Á châu
nhưng lại khó kiếm ở Âu châu.[13] (25) Việc sản xuất diêm
tiêu đã góp phần lớn vào việc xây dựng một quân đội độc lập, ít tùy thuộc vào
cung cấp từ bên ngoài.
Bá Ða Lộc cũng
giúp Nguyễn Ánh lập những lò sản xuất hắc ín, keo... dùng trong việc đóng thuyền. Các công tác này có tiếng vang ra tới
bên ngoài nên đã có lúc đất Gia Ðịnh nổi tiếng về đường mía và kỹ nghệ đóng tầu chiến.
Theo John Barrow
thì để có thể am tường về thực hành cũng như lý thuyết cấu trúc đóng thuyền, chúa Nguyễn đã mua hẳn một chiếc tàu của người Bồ Ðào Nha rồi ông chính tay tháo rời từng mảnh, từng
tấm ván, sau đó chế tạo những mảnh ni tấc y hệt như thế đem thay vào từng bộ phận một cho tới khi hoàn toàn là một chiếc tàu mới.[14] (26) Theo những người được
mục kích lối làm việc của Nguyễn Ánh, ông có kiến thức và
phương pháp của một kỹ sư thời nay hơn là cung cách sinh hoạt của một vương
gia. Hai mươi năm sau, John White cũng kinh ngạc về xưởng đóng tàu của Ðàng Trong ở Gia Ðịnh:
... Về phía đông bắc của thành phố, trên bờ một con rạch sâu là xưởng thủy
quân và kho đạn, nơi mà trước đây khi có loạn [tức thời Tây Sơn] đã đóng một số đại
hiệu [war-junks] và hai chiến hạm [frigates] theo kiểu Âu châu, dưới
quyền giám thị của các sĩ quan người Pháp.
Công trình này khiến người An Nam hãnh diện hơn hết thảy trên toàn cõi và quả là có thể sánh ngang với nhiều xưởng đóng tàu tại Âu châu. Không có những chiến thuyền lớn được đóng hay đang đóng ở đây
nhưng thấy có rất nhiều vật liệu tốt đủ để đóng vài ba chiến hạm. Gỗ đóng tàu và những phiến ván
tôi thấy tốt hơn hết những gì tôi đã gặp. Tôi đo thử một tấm
ván, ni tấc của nó là 32.7 mét, dày hơn một tấc [.1mét], vuông vức từ đầu chí cuối
mà bề rộng là 6 tấc [.6 mét]. Phiến gỗ đó cưa từ một cây teak mà tôi tin rằng không một nơi nào trên thế giới có được những cây khổng lồ như ở Ðàng Trong. Tôi đã thấy ở ngoài
đồng một cây lớn đủ làm một cái cột buồm chính cho một chiến hạm, không có mấu mà theo tôi biết thì không phải là chuyện khác thường ở xứ này.
Có vào khoảng
150 tiểu hiệu [chiến thuyền nhỏ, gallies] được đóng đẹp vô
cùng kéo để trong các lán, mỗi chiếc dài từ
12 đến 30 mét, một số có gắn 16 đại pháo loại
nòng đạn 3 pounds. Những chiếc khác
thì gắn 4 hay 6 đại bác, nòng từ 4 đến 12
pounds, đều làm bằng đồng đẹp tuyệt trần. Ngoài
ra cũng còn khoảng 40 tiểu hiệu khác để trên sông để chuẩn bị cho quan tổng trấn
du ngoạn lên thượng nguồn sông khi ông ta từ Huế trở về. Hầu hết những chiến thuyền này có trang trí dát vàng và các hình trạm trổ, cắm cờ đuôi nheo sặc
sỡ trông rất sống động, dễ ưa.
Người An Nam
phải nói là những người đóng tàu khéo léo nhất và hoàn thành công việc cực kỳ tinh xảo. Tôi rất thích phần bộ kinh tế có tính chính trị này nên vẫn thường đến xem cơ xưởng thủy quân.[15](27)
- Huấn luyện
Trước đây các cấp
chỉ huy thường do tự tạo hay thiên tư mà không qua một chương trình đào tạo cụ
thể. Nếu nói về mặt thực tế, chúa Nguyễn đã thành lập những quân trường huấn luyện binh sĩ đầu
tiên theo kiểu Âu châu. Theo truyền thống đào tạo
võ quan ở phương Ðông, các võ trường chỉ để thao tác cung kiếm, không được dùng để đào tạo binh sĩ hay tướng lãnh. Các kỳ thi võ chỉ để sát hạch ứng tuyển viên qua một vài bộ môn căn bản như
cưỡi ngựa, bắn cung, xách tạ, múa sang [thương] ... và thường do các quan văn
làm chủ khảo. Theo John Barrow và John White, Bá Ða Lộc đã giúp Nguyễn Ánh thiết lập chương trình huấn luyện về tác xạ
(doctrine of projectiles) và khoa học vũ khí (science of gunnary), trang bị cho
sĩ quan và binh sĩ kiến thức chuyên môn sử dụng các loại súng
ống.[16]
(28)
Bá Ða Lộc cũng
phiên dịch sang chữ Hán một số binh thư, chiến thuật Tây
phương để cho kịp với các cải tiến quân đội. Gia
Ðịnh khi đó đã có những cơ xưởng quan trọng phục vụ cho công tác quân sự bao gồm
công xưởng đóng tàu, nhà máy làm thuốc đạn, hắc ín, và cả một lò đúc súng. Phần
bộ đúc kim loại (foundery hay foundry) của Tây phương được tham khảo vì tương đối
được đề cập khá kỹ càng trong bộ từ điển bách
khoa (khoảng 4 trang 625-629, vol. II). Cá nhân chúa Nguyễn đích thân trông coi
việc đóng tàu, làm việc chung với thợ thuyền còn những
công việc khác giao lại cho các sĩ quan Tây phương. Một số kỹ thuật được coi là
tân tiến nhất được nhập cảng trong đó có việc
sử dụng đạn nổ [đạn đại bác nổ khi chạm đích], tàu bọc đồng [phần gỗ chìm dưới
nước để được bền hơn], và còn toan dùng khinh khí cầu
để công thành [tuy không dùng trong mục tiêu quân sự nhưng đã thí nghiệm cho
dân chúng xem] ... Về sau, khi đã lên ngôi, vua Gia Long
cũng nhờ thương gia Pháp đặt cho ông một tàu chạy hơi nước là phát minh mới của
Âu châu thời đó khi họ đến buôn bán ở Huế chứng tỏ ông rất quan tâm đến các kỹ thuật
tân tiến của thời đại.
Trước đây, các
nhà nghiên cứu ít ai để tâm so sánh sự khác biệt hay tương đồng giữa binh pháp
Tây phương và tổ chức quân sự thực tế ở khu vực Gia
Ðịnh nên thường chỉ phớt qua mà không đi vào chi tiết. Việc áp dụng chiến thuật mới đồng thời kèm theo cải tổ
cơ chế và huấn luyện nên quân đội Gia Ðịnh thời
đó đã được tổ chức theo lối Tây phương.
Cuối thế kỷ XVIII, quân đội Âu Châu nói chung và nhất là quân đội Pháp đã có
những bước nhảy vọt vượt hẳn tổ chức theo kiểu Á Ðông. Ngay trước Cách Mạng
1789, quân đội Pháp được coi là một trong những lực lượng tinh nhuệ được trang
bị tối tân nhất thế giới, đặc biệc là bộ binh. Việc ảnh hưởng
của Pháp do những sĩ quan hay binh sĩ mà giám mục Bá Ða Lộc mang theo vô hình
trung đã giúp chúa Nguyễn thủ đắc kỹ thuật và tổ chức quân đội từ một quốc gia
tiến bộ, giúp ông lột xác để có đủ lực lượng
tấn công ra bắc. So sánh giữa đường lối tổ chức cổ điển và canh tân chúng ta có
thể đánh giá những cải cách quân sự của chúa Nguyễn và lượng định lại tương
quan lực lượng một cách chính xác mà không bị cảm tính chi phối.
KẾT LUẬN
Một điều cho đến nay chúng ta biết khá chắc chắn: triều Nguyễn đã không công bằng với lịch sử.
Không nói gì họ đã xuyên tạc, bóp méo và bịa đặt nhiều điều về thành phần đối
nghịch với họ [Lê Trịnh, Tây Sơn] ngay chính những người giúp đỡ triều đình – nói đúng hơn giúp cho chúa Nguyễn khôi phục vương vị – cũng
không được nhắc đến một cách chính xác. Giám mục Pigneau
de Béhaine chỉ được nhắc đến trong vỏn vẹn chưa đầy 600 chữ trong Ðại
Nam Chính Biên Liệt Truyện Sơ Tập, quyển XXVIII. Những sĩ quan người Pháp
thì hoàn toàn chỉ được biết đến qua vài cái
tên đã dịch sang âm Hán Việt và một số chi tiết không lấy nổi
trội trong Ðại Nam thực lục.
Nếu nhìn lại diễn tiến của chúa Nguyễn, chúng ta thấy rằng
khi từ Bangkok chạy về, có lẽ ông cũng không thấy có hi vọng
gì tranh hùng với đối phương đang trong thời kỳ toàn thịnh,
về cả tiếng tăm lẫn thực
lực. Ông chỉ trông mong vào ngoại viện từ một nước xa xăm là nước Pháp do nỗ lực
của vị thừa sai có thể vận động được tại Paris mà chưa có chủ định sẽ phải làm
gì.
Ðến khi giám mục Bá Ða Lộc trở về, có lẽ sau những
năm tháng qua lại và tiếp xúc với nhiều thành phần khác nhau, vị thừa sai đã tìm ra phương cách để cải thiện
tình hình để giới thiệu một chương trình biến miền nam từ một vùng đầm lầy hoang vu thành một địa bàn phòng thủ chắc chắn,
có thể giữ được khi quân Tây Sơn tấn công vào và cũng có thể làm bàn đạp tấn
công ra bắc.
Vai trò và sự
tham gia của giám mục Bá Ða Lộc vào hệ thống quyền lực và chế độ thực dân ở nước ta vẫn còn là một đề tài mở với nhiều ý kiến và lập trường khác nhau, bênh và chống.
Thực tế, trong tình trạng phân tranh cuối thế kỷ XVIII, việc
hồi sinh từ “vô trung sinh hữu” của chúa Nguyễn là một điều kỳ diệu – nếu không bằng
lòng với những tin tưởng về chân mệnh đế vương của ông thì phải công nhận rằng việc vượt qua được những chặng
đường gian nan ấy không phải dễ.
Sau 10 năm bôn
ba theo chúa Nguyễn trong những chiến dịch lớn,
giám mục Bá Ða Lộc tức Mgr Pigneaux de Béhaine bị bệnh chết tại Qui Nhơn ngày mồng 9 tháng 10 năm 1799, hồi 10:30 sáng. Theo những
người có mặt lúc lâm chung, ông hoàn toàn tỉnh táo cho đến khi trút hơi thở cuối cùng.[17] (29)
Khi nghe tin
giám mục Bá Ða Lộc qua đời, chúa Nguyễn cho tẩn liệm và cho đưa xác về Ðồng Nai. Linh cữu viên cố đạo được để tại nhà quàn hai tháng để cho
các quan và giáo dân đến viếng. Ngày 16
tháng 12 là ngày hạ huyệt, có cả Nguyễn vương, đông cung và các phi tần, hoàng
hậu đi đưa. Theo một số tài liệu thì ngoài 12000 quân túc vệ còn có đến bốn vạn người, lương lẫn giáo, đi đưa đám ông. Chúa Nguyễn ban cho
ông một sắc thư phong tặng ông làm Thái Tử Thái Phó Bi Nhu Quận Công, tên thụy
Trung Ý.
Cứ theo thuần
lý, vị thừa sai này không phải là con người quân sự và có lẽ ông ta cũng không
muốn mình tham gia quá nhiều vào công tác chiến tranh, trái với tiêu chuẩn và mục tiêu của một nhà truyền giáo.
Xét về những công trình và thành tựu của ông, ông có khả năng của một nhà cải
cách hành chánh hơn là một tướng lãnh. Việc đưa ông vào một vai trò lấy thành,
chiếm đất không hẳn là do tình nguyện mà vì
chúa Nguyễn không muốn ông ở hậu phương với người con trưởng, sợ rằng có những
biến động mà chúa Nguyễn không thể kiểm
soát được, tương tự như biến cố Ðông Sơn ngày nào.
Sự e ngại của
chúa Nguyễn thực chất là từ đâu? Vì ông không muốn người ngoài ảnh hưởng đến ông hay thực sự ông muốn một nước Việt Nam độc lập? Với tất cả những
điều người ta chép về ông sau này, có lẽ vua Gia Long không muốn chia xẻ quyền hành với bất cứ ai, không những khi ông còn cầm quyền mà còn tính đến cả việc sau khi ông đã chết. Ðể ngăn ngừa hậu hoạn, ông đã lập tự từ rất sớm, mặc dầu các cháu nội
ông cũng đã trưởng thành. John White đã viết:
Cái chết của giám mục Adran, xảy ra một thời gian ngắn sau khi nội chiến chấm dứt[18] (30) là một đại họa cho xứ này, rất nhiều định chế tuyệt hảo của ông thiết lập bị bãi bỏ, nhiều luật lệ
lành mạnh được đưa ra do ông bảo trợ trở thành lỗi thời; luân lý của quần chúng
vì tình trạng nội loạn mà suy đồi, sa đọa nay được cải thiện, thương mại, nông
nghiệp, nghệ thuật đã được hồi sinh và ở cuối chân trời đã lóe lên những tia hi
vọng của xứ sở lâu nay bị dày vò và trở nên thưa thớt này.
Chỉ trong một
thời gian ngắn khi những việc lành này trôi qua và quả thật đây là một giai đoạn
phù du, những thay đổi mà chỉ vài năm đã xoay chuyển được nay trở thành u buồn,
hoang mang.
Nhà vua tuy
cũng biết rằng toàn dân đều bất mãn nhưng ông vẫn theo đuổi những tham vọng chinh phục vốn nổi bật
trong thời kỳ ông trị vì. Năm nào ông cũng tìm cớ
để gây chuyện với người bắc mà phần lớn đất đai của họ ông đã chiếm đoạt nhưng thực ra họ cũng chẳng khác
gì một thuộc quốc
[người viết nhấn mạnh]; và nay ông lại có tham vọng nhòm ngó đất Xiêm nên việc
đào thêm con kinh mới cùng những dự án khác đang được thực hiện khi tôi ở đây –
có thể nay đã hoàn thành – biểu hiện hướng đi đó.[19] (31)
Phải nói rằng đầu
thế kỷ XIX, đất nước chúng ta có một cơ hội
rất tốt để canh tân và đất Gia Ðịnh là một thí điểm hoàn hảo nếu được tiếp tục tiến hành những cải
cách mà giám mục Pigneau de Béhaine đưa ra. Tuy nhiên, sau khi lên ngôi, vua
Gia Long không còn quan tâm đến việc đưa đất nước tiến lên mà ngược lại ông lại sợ người dân sẽ không còn phục tùng ông nữa.
Tất cả tài
nguyên sức lực của đất nước nay trở thành một phương tiện để ông củng cố quyền hành và vị thế của vương triều Nguyễn. Trong suốt hai mươi năm tại vị, vua Gia Long chỉ tập trung
vào một việc: xây dựng kinh thành Huế thành một pháo
đài vĩ đại theo dạng thức Strasburg của Ðức với 24 tháp súng, mỗi nơi đặt 36 khẩu
thần công. Số nhân công thường trực là mười vạn người và có bốn vạn quân trú
đóng.
Thế nhưng công việc canh tân chỉ đến thế, các vua kế tiếp sau Gia Long
lại theo đuổi một chính sách bài Tây phương và ngả theo Trung Hoa, loại trừ mọi
tiến bộ mà họ có được trong thời gian phục
quốc để quay về mô hình nhà Thanh, một mô hình quân chủ
lỗi thời và hủ bại.
Dẫu thế, cái ước mơ của vua Gia Long, của con ông chỉ là ảo ảnh vì ở ngai
vàng chưa hết được câu đầu trong bài Ðế Hệ Thi thì vương triều Nguyễn đã cáo chung.
Les
Expéditions Françaises au
Tonkin par un Missionnaire (1903)
tr. 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.
Folliot. Notions sur l’histoire de l’Annam et sur les résultats de
l’occupation Française. Saigon: Imprimérie-Libraire Claude & Cie., 1905
2. Barrow,
John. A Voyage to Cochinchina. (historical reprints) Kuala Lumpur:
Oxford University Press, 1975
3. Blofeld,
John. Bangkok.: Amsterdam: TIME-LIFE International (Nederland) B.V.,
1979
4. Boudet,
Paul và André Masson. Iconographie Historique de l’Indochine Française.
Paris: Les Éditions G. Van Oest, 1931
5. Chula
Chakrabongse [Prince of Thailand]. Lords of Life: A History of the Kings of
Thailand. London: Alvin Redman, 1967 (rev. edition)
6. Cooke, Nola và Li Tana (chủ biên). Water Frontier: Commerce and the
Chinese in the Lower Mekong Region, 1750-1880 (ed. Singapore: Singapore University Press, 2004 tr. 4 (reprinted in
USA by Rowman & Littlefield Publishers, Inc., 2004)
8. Ðồng
Khánh Ðịa Dư Chí (同慶地輿志).
Ngô Ðức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin biên tập. (ba tập) Hà Nội: Thế Giới, 2003.
28. Dronet,
J. B. Vua Gia Long. Hongkong:
Imprimérie de Narazeth, 1913
9. Encyclopaedia
Britannica. [3
volumes] England: Edinburgh, 1771 (first edition)
10. Faure, Alexis.
Les Français en Cochinchine au XVIIIè Siècle: Monseigneur Pigneau de
Béhaine, Evêque d’Adran (1741-1799). Paris: Librairie Coloniale, 1891.
11. Flood,
Thadeus & Chadin (trans. & edited). The Dynastic Chronicles Bangkok
Era The First Reign (Chaophraya Thiphakorawong Edition). Volume One: Text.
Tokyo: The Centre for East Asian Cultural Studies, 1978.
12. Hogg,
Ivan V. The Illustrated History of Ammunition. New Jersey: Chartwell
Books Inc., 1985.
13. Huỳnh, Ngọc
Trảng, Trương Ngọc Tường, Nguyễn Đại Phúc, Đỗ Văn Anh và Phạm Thiếu Hương. Saigon – Gia Định xưa: Tư Liệu và Hình Ảnh.
TPHCM: nxbTPHCM, 1997.
15. Khuyết Danh. Sử Ký Ðại Nam Việt (Annales Annamites). Saigon:
Nhà Dòng Tân Ðịnh (Imprimerie de la mission à Tân định), 1909. (Nhóm Nghiên Cứu
Sử Ðịa Việt Nam in lại Sài gòn, 1974, tái bản Montreal, 1986)
16. Kostof,
Spiro. The City Shaped: Urban Patterns and Meanings Through History.
Boston.Toronto.London:A Bulfinch Press Book, Little, Brown and Company, 1991
17. Lamb,
Alastair. The Mandarin Road to Old Hué: Narratives of Anglo-Vietnamese
Diplomacy from the 17th century to the eve of the French Conquest.
London: Chatto & Windus, 1970.
18. Launay,
Adrien. Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823 [Documents
Historiques III: 1771-1823] (Paris, Anciennes Maisons Charles Douniol et
Retaux, 1925)
29. Les Expéditions Françaises au Tonkin
par un Missionnaire.
Paris: Société de Saint-Augustin, 1903.
19. Mantienne,
Frédéric. Les Relations Politiques et Commerciales entre la France et la
Péninsule Indochinoise (XVIIIe siècle). Paris: Les Indes Savantes, 2003.
20. Nam Phong
tạp chí
21. Nguyễn,
Ðình Ðầu. From Saigon to HoChiMinh City: 300 year history. Hà Nội:
Science and Technics Pub. House, 1998
22. Parker,
Geoffrey. The Military Revolution: Military Innovation and the Rise of the
West 1500-1800. Cambridge University Press, 1996
23. Phan,
Khoang. Việt Sử Xứ Ðàng Trong. Hà Nội: nxb Văn Học, 2001.
24. Phasuk,
Santanee & Philip Stott, Royal Siamese Maps: War and Trade in Nineteenth
Century Thailand. Bangkok: River Books Co. , Ltd., 2004.
25. Quốc Sử
Quán Triều Nguyễn, Ðại Nam Nhất Thống Chí,
tập V (bản dịch Phạm Trọng Ðiềm) Huế: Thuận Hoá,
1997
26. Quốc Sử
Quán Triều Nguyễn. Ðại Nam Thực Lục, Tập Một
(bản dịch Viện Sử Học). Hà Nội: nxb Giáo Dục, 2002.
27. Suárez,
Thomas. Early Mapping of Southeast Asia, Periplus Editions (HK) Ltd.,
1999
28. Tài liệu
internet
29. Tana, Li.
“The Water Frontier: An Introduction”, Water Frontier: Commerce and the
Chinese in the Lower Mekong Region, 1750-1880 (Nola Cooke và Li Tana biên tập).
Singapore: Singapore University Press, 2004 (reprinted in USA by Rowman &
Littlefield Publishers, Inc., 2004)
30. Thái, Văn
Kiểm. The Twain Did Meet- First Contacts Between Vietnam and the United
States of America. Republic of Vietnam, Department of National Education,
1960.
31. Tran,
Tuyet Nhung & Anthony Reid (ed.) Việt Nam: Borderless Histories.
Madison: The University of Wisconsin Press, 2005.
32. Trịnh,
Hoài Ðức. Gia Ðịnh Thành Thông Chí [bản dịch Lý Việt Dũng]. Biên Hòa:
nxb Tổng Hợp Ðồng Nai, 2005.
33. Trương,
Bá Cần (chủ biên). Lịch Sử Phát Triển Công Giáo Việt Nam (tập I & II).
Hà Nội: nxb Tôn Giáo, 2008
34. Trương,
Vĩnh Ký M.P. Souvernirs Historiques sur Saigon et ses Environs (Conférence
faite au collège des interprètes). Saigon: Imprimerie Coloniale, 1885
35. Vương, Hồng
Sển. Sài Gòn Năm Xưa. Calif: Xuân Thu, không đề năm (in lại theo lối ảnh ấn bản Sài gòn: Khai Trí, 1968)
36. White,
John. A Voyage to Cochin China. Kuala Lumpur: Oxford University Press,
1972. (in lại bản của Longman, Hurst, Rees, Orme, Brown, and Green,
Paternoster-Row năm 1824)
37. Yang,
Baoyun. Contribution à l’histoire de la principauté des Nguyên au Vietnam
méridional (1600-1775). Genève: Olizane/Etudes Orientales, 1992.
Chú thích
1. Map of the
River of Don-Nai from Cape St. James to the City of Saigon, from the original
by M. Dayot, Hydrographer to the King of Cochin China 1791 with additions to
1820 by John White U.S.N. Thomas Suárez, Early
Mapping of Southeast Asia (Periplus Editions [HK] Ltd., 1999) tr. 253
2.
Xem thêm Santanee Phasuk & Philip Stott, Royal Siamese Maps: War and Trade in Nineteenth Century Thailand
(Bangkok: River Books Co. , Ltd., 2004)
3.
Ðồng Khánh Ðịa Dư Chí (同慶地輿志). Ngô Ðức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên,
Philippe Papin biên tập. (ba tập) Hà Nội: Thế Giới, 2003
4.
John White, sđd. tr. 225-6
5.
Trịnh Hoài Ðức, sđd. tr. 217
6.
Trịnh Hoài Ðức, sđd. tr. 216-7
7.
... carefully omitted any reference to
foreigners or their achievements. Frédéric Mantienne, tài liệu đã dẫn tr.
523. Ðại Nam Nhất Thống Chí quyển
XXXI viết về tỉnh Gia Ðịnh chỉ nhắc đến “năm
Canh Tuất (1790) đắp thành Bát Quái ở trên gò cao thuộc địa phận thôn Tân Khai
tổng Bình Dương” Quốc Sử Quán Triều
Nguyễn, Ðại Nam Nhất Thống Chí, tập V
(Huế: Thuận Hoá, 1997) tr. 201
(bản dịch Phạm Trọng Ðiềm)
8.
Geoffrey Parker, The Military Revolution:
Military Innovation and the Rise of the West 1500-1800. (Cambridge
University Press, 1996) tr. 42-3
9.
Frédéric Mantienne, “The Transfer of Western Military Technology to Vietnam in
the Late Eighteenth and Early Nineteenth Centuries: The Case of the Nguyễn”
(Cambridge University Press: Journal of Southeast Asian Studies, Volume 34,
Number 3, October 2003) tr. 522
10.
Nguyên tác viceroy tức phó vương
11.
John White, sđd. tr. 220-1
12.
Trịnh Hoài Ðức, sđd. tr. 217
13.
M.P. Trương Vĩnh Ký. Souvenirs
historiques sur Saigon et ses environs (Saigon: Imprimerie Coloniale, 1885)
tr. 7
14.
Phan Khoang, Việt Sử xứ Ðàng Trong
(Văn Học, 2001) tr. 529 và Ðại Nam Thực Lục
(Chính Biên, Ðệ Nhất Kỷ – Quyển V) (bản dịch Viện Sử Học, 2002) tr. 272. Ðạn đại
bác nổ khi tới đích là một phát minh lớn và chỉ mới được sử dụng một thời gian
ngắn trước khi chúa Nguyễn trang bị cho quân Gia Ðịnh. Theo Ivan V. Hogg trong The Illustrated History of Ammunition (New
Jersey: Chartwell Books Inc., 1985) thì đạn nổ được Captain Mercier dùng trong
trận vây hãm Gibraltar và sau đó được Shrapnel cải tiến năm 1784, áp dụng rộng rãi trong chiến tranh từ năm 1792 (tr. 28). Năm 1792,
theo những tin tức truyền
ra Ðàng Ngoài, Nguyễn vương có cả tàu bọc đồng và khinh khí cầu. Có thể nói
chúa Nguyễn đã đem những kỹ thuật quân sự mới mẻ nhất trên thế giới vào công cuộc khôi phục qua trung
gian những người ngoại quốc mà ông có dịp tiếp xúc.
15.
Nguyên tác là bungalo[w], một thứ hành lang chỉ có mái che, không có vách
16.
Vua Pháp trị vì rất lâu (1643-1715) ở thời kỳ thịnh trị.
17.
John White, sđd. tr. 224-6
18.
Một điều đáng lưu ý là hình ảnh “đầu đội nón dấu vai mang súng dài” ấy chỉ
mới xuất hiện trong quân đội Việt Nam trong khoảng 200 năm gần đây thì lại được
sử dụng để miêu tả người lính nước ta trong suốt chiều dài lịch sử, kể cả những chiến sĩ từ thời Hán trong cơ ngũ của Trưng
Vương trong các truyện lịch sử hay ở các buổi tế lễ, chỉ khác là thay vì mang súng thì
cầm giáo, cầm gươm.
19.
Ở đây chúng tôi không nói đến
những đội thân binh mặc áo đỏ, cờ đỏ mà người ta thường miêu tả như một đặc
trưng của quân đội Tây Sơn. Hình ảnh này chỉ áp dụng cho một số đơn vị tuyển chọn
chứ không phải là toàn bộ vì đa số quân Tây Sơn thuộc dạng dân quân, trang bị và
y phục rất tuỳ tiện.
20. Theo truyền thống, các chức vụ quan trọng
trong quân đội thường giao cho người thân tín trong gia đình. Một số võ quan
được tuyển bổ qua các kỳ thi võ, thường chỉ là thi sức mạnh, cưỡi ngựa, bắn
cung. Cũng thời kỳ đó, Nguyễn Huệ chia miền Bắc thành ba vùng [có lẽ ảnh hưởng
văn minh Chiêm Thành], mỗi con ông đảm trách tư lệnh quân đội một vùng [gọi là
tiết chế] trong khi thực tế họ chỉ mới ngoài 10 tuổi. Sau khi ông qua đời,
những người phò tá các tiết chế đem quân đánh lẫn nhau để tranh quyền đưa đến
sự suy vi của nhà Tây Sơn.
21. Những người lính đánh thuê đó
không giống như các lực lượng Tàu Ô mà Tây Sơn sử dụng. Hầu hết những thuỷ thủ
Âu Châu thời trung cổ là chiến binh chuyên nghiệp tình nguyện chiến đấu vì óc
phiêu lưu, ưa mạo hiểm và chưa hẳn chỉ vì tiền. Nhiều người có tài nhưng không
có cơ hội thi thố nên trốn đi khỏi nước gia nhập quân đội nước ngoài.
22.
Li Tana, “The Water Frontier: An Introduction”, Water Frontier: Commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750-1880
(ed. Nola Cooke và Li Tana) (Singapore: Singapore University Press, 2004) tr. 4
(reprinted in USA by Rowman & Littlefield Publishers, Inc., 2004)
23.
Chúa Nguyễn đã gửi nhiều
phái đoàn đi các nước chung quanh như Cao Miên, Xiêm La, Ấn Ðộ, Mã Lai [Melaka],
Phi, Ma Cao và Pháp, trao đổi và giao thiệp với người Anh, người Bồ Ðào Nha,
Tây Ban Nha, Hoà Lan, Pháp ... Xem thêm Wynn Wilcox, “Transnationalism and
Multiethnicity in the Early Nguyễn Ánh Gia Long Period”, Việt Nam: Borderless Histories tr. 194-216
24.
John Barrow, sđd. tr. 274
25.
Ivan V. Hogg, The Illustrated History of
Ammunition (New Jersey: Chartwell Books Inc., 1985) tr. 15-6
26.
It is stated, on what appears to be good authority, that, in order to obtain a
thorough knowledge of the practice as well as theory of European naval
architecture, he purchased a Portugueze vessel, for the sole purpose of taking
in pieces, plank by plank, with his own hands, fitting in a new piece of
similar shape and dimensiona as the old one he removed, till every beam,
timber, knee and plank had been replaced by new ones of his own construction,
and the ship thus completely renovated. John Barrow, sđd. tr. 277
27.
John White, sđd. tr. 234-6
28.
... The officers of the navy were instructed in naval tactics by Frenchmen; his
army was divided into regular regiments; military schools were established, and
the officers taught the science of gunnery. John White, History of a Voyage to
the China Sea (Boston: Wells and Lilly, 1823) tr. 94. He distributed his land
forces into regular regiments, established military schoool, where officers
were instructed in the doctrine of projectiles and gunnery by European masters.
John Barrow, sđd. tr. 274
29.
Adrien Launay, Histoire de la Mission de
Cochinchine 1658-1823 [Documents Historiques III: 1771-1823] (Paris,
Anciennes Maisons Charles Douniol et Retaux, 1925) tr. 374
30.
Chi tiết này sai, giám mục Pigneau
de Béhaine chết năm 1799, 2 năm trước khi
nhà Tây Sơn bị diệt vong.
31.
John White, sđd. tr. 262-3