Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015
Ngự Thuyết - Thu Về Chuyện Trò Với Thơ
Bài viết này muốn nói về vài vấn đề trong Thơ, nhưng xin được mở đầu bằng một mẩu chuyện nhỏ trong văn xuôi có liên quan.
Tác phẩm Vang Bóng Một Thời (Tân Dân – Hà
Nội, 1940) của Nguyễn Tuân
ra đời cách đây trên 70 năm, cho đến nay vẫn được nhiều nhà phê bình
văn học đánh giá cao. Vũ Ngọc Phan, đồng thời với Nguyễn Tuân, trong Nhà Văn Hiện Đại (Tân Dân – Hà Nội, 1942) nhận xét về tập truyện Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân như sau: “Tác phẩm đầu tay của ông là một văn
phẩm gần tới sự toàn thiện toàn mỹ.” Quả thế, những truyện ngắn, bút ký
trong Vang Bóng Một Thời đều có
giá tri, và, cũng theo Vũ Ngọc Phan, “Tập
bút ký này của Nguyễn Tuân thật là một tập rất qúy. Cái quý giá
ấy sẽ còn tăng lên nữa với thời gian, như một thứ đồ cổ vậy.”
Truyện Báo Oán trong Vang Bóng
Một Thời bắt đầu bằng hai đoạn văn ngắn sau đây:
“Ở
cuốn lịch năm ấy bìa vàng nhòe nét son dấu
kìm ấn tòa Khâm Thên Giám có niên hiệu Duy Tân thập niên, người ta
thấy tiết thu phân và ngày lập thu qua đã lâu rồi.
Mùa
mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt nước
mắt triền miên than vãn của kỳ thất tịch
còn sót lại mãi đến bây giờ. Xứ đồng chiêm Sơn Nam Hạ đã biến thành
một vùng nước mất hẳn bờ trên đó nhấp nhô những con đò đồng lí tí.
Ngọn sóng đồng hỗn loạn vỗ tung bùng vào mép những con đường đất
thó nhuyễn và những lũy tre già ướt át. Làng mạc vùng quê Nam Định
nhoi lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo hoang vu.”
Đó là những câu văn xuôi nghe như thơ, đầy
hình ảnh của quá khứ, man mác hoài cổ, đầy thi vị, đầy nhạc điệu.
Chữ dùng lại rất tinh vi, chọn lọc, những từ Hán Việt cũng được sử
dụng một cách thích đáng. Thế nhưng trong tập truyện Yêu Ngôn của
Nguyễn Tuân (Nguyễn Đăng
Mạnh sưu tầm và giới thiệu, in lần thứ II, Nhà Xuất Bản Hội Nhà
Văn, 65 Nguyễn Du – Hà Nội, 2005), truyện Báo Oán được/bị
đổi tên thành Khoa Thi Cuối Cùng, và
hai đoạn nói trên được/bị sửa lại như sau:
“Ở
cuốn lịch niên hiệu Duy Tân năm thứ mười, bìa vàng nhòe nét son dấu
kìm ấn toà Khâm Thiên Gíám, thấy tiết thu phân và ngày lập thu qua
đã lâu rồi.
Mùa
mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt than vãn triền miên của kỳ Ngâu
còn kéo dài mãiđến bây giờ. Xứ đồng chiêm Sơn Nam hạ đã biến thành
một vùng nước rộng nhấp nhô những con đò đồng li ti. Sóng đồng hỗn
loạn vỗ vào mép những con đường đất thó nhuyễn và những bờ lũy tre
già ướt át. Làng mạc vùng quê Nam Định nhoi lên khỏi làn nước trắng
lạnh như những quần đảo xanh một màu hoang vu.”
Trước hết, ta hãy tạm gác lại vấn đề
nguyên tắc, đó là phải tuyệt đối tôn trọng văn bản của tác giả,
không được thêm, bớt hay sửa chữa dù một dấu chấm, dấu phẩy. Ở đây ta chỉ thử
xem việc sửa chữa ấy có làm tăng thêm giá trị của nguyên tác hay
không. Ta thấy ngay phần được
sửa chữa có đơn giản và rút ngắn đi chút ít, tránh một cách
khiên cưỡng vài ba từ Hán Việt [“Ở cuốn lịch năm ấy bìa vàng nhòe nét son
dấu kìm ấn tòa Khâm Thiên Giám có niên hiệu Duy Tân thập niên, người
ta thấy ... ” được
thay bằng “Ở cuốn lịch niên hiệu Duy Tân năm
thứ mười bìa vàng nhoè nết son dấu kìm ấn toà Khâm Thiên Giám, thấy
...”, “... những giọt nước mắt triền miên than vãn của kỳ thất tịch
còn sót lại mãi đến bây giờ.” được thay bằng“...
những giọt than vãn triền miên của kỳ Ngâu còn kéo dài mãi đến bây
giờ.”, “ ... một vùng nước mất hẳn bờ trên
đó nhấp nhô những con đò đồng lí tí.” được thay bằng “...
một vùng nước rộng nhấp nhô những con đò đồng li ti”, “Ngọn sóng
đồng hỗn loạn vỗ tung bùng vào mép những con đường đất thó nhuyễn
và những lũy tre già ướt át.” được thay bằng “Sóng
đồng hỗn loạn vỗ vào mép những con đường đất thó nhuyển và những
bờ lũy tre già ướt át.”,“...như những quần đảo hoang vu.” được thay bằng “...như
những quần đảo xanh một màu hoang vu.” ], nhưng rõ ràng kém xa nguyên văn. Những câu,
những chữ được sửa, cũng như những thêm bớt đều biểu lộ ngay cái
vụng về, khập khiểng, tùy tiện, lạc điệu. Muốn cho câu văn đơn giản
hơn, muốn rút ngắn lối viết “dài dòng”, “khệnh khạng”, muốn thay thế
một số từ Hán Việt, người ta đã vô tình chà đạp cái tinh tế, duyên
dáng, thi vị rất độc đáo của văn tài Nguyễn Tuân.
Thế đối với thơ thì sao? Trong lãnh
vực thơ, ai cũng phải công nhận rằng Cung
Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều là một tác
phẩm “kỳ cổ’, văn chương điêu luyện, súc tích, nhiều điển cố, nhiều
từ Hán Việt, nhiều gợi ý. Chẳng hạn để nói lên trò dâu biển, tính
cách vô thường của cuộc đời, tác giả chỉ viết hai câu thơ ngắn:
Cầu
thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán
thu phong đứng rũ tà huy
Trí tưởng tượng của người đọc đã
được đưa đi rất xa. Xưa ở đấy là một bến đò có con đò ngang qua lại đưa
khách sang sông. Khách đến trễ, đò đã rời bến, thì đã có cái quán
nhỏ bên sông để khách vào ngồi chờ cùng những người khác, chuyện
trò, tán gẫu, ăn củ khoai luộc, uống bát chè tươi. Những sinh hoạt
nho nhỏ trong cái quán cạnh bến đò xem ra cũng vui thú. Có khi nhờ
những lần chờ đò trong quán nhỏ mà nên duyên vợ chồng. Bỗng chiếc
cầu được bắc ngang sông nhìn dòng nước chảy, bến đò cũ ngồi trơ. Con
đò phải đi kiếm ăn nơi khác. Quán bên sông hoang vắng, tàn tạ, rách
nát, đứng rũ trong ánh chiều tà, mặc gió mùa thu luồn qua.
Hai câu thơ quả là tuyệt diệu, nhưng
vẫn có người chê Nguyễn Gia Thiều đã dùng nhiều từ Hán Việt, và
sửa lại như sau:
Cầu
nước chảy ngồi trơ bến cũ
Quán
gió thu đứng rũ bóng chiều
Hai câu sửa nghe cũng gẫy gọn với cố
gắng dịch sát những từ Hán Việt sang chữ Việt thuần túy. Nhưng không
hàm súc bằng hai câu nguyên văn. Bùi Giáng đã rất tinh tế khi bảo
rằng “hồng quần” trong câu “Phong lưu
rất mực hồng quần” (Truyện Kiều) không chỉ có nghĩa rằng nàng Kiều thuộc gia
đình phong lưu và mặc chiếc quần màu đỏ. Cũng thế, “cầu thệ thủy” không
chỉ là “cầu nước chảy”, quán “thu phong” không chỉ là “quán gió thu”,
nó còn có những gợi ý miên man. Hơn nữa, vào nửa sau của thế kỷ thứ 18 khi Cung Oán Ngâm Khúc ra đời, tức là
vào thời kỳ văn học ta viết bằng chữ Hán chiếm ưu thế áp đảo, ảnh
hưởng Hán học rất sâu đậm, thế mà Nguyễn Gia Thiều đã vận dụng chữ
nôm như vậy thì quả thật đáng được khâm phục. Những tiếng thuần nôm đưa vào như
trong ví dụ trên nghe lạc lõng, ngơ ngác, làm giảm hẳn giá trị của
nguyên tác.
Vậy phải chăng muốn cho câu văn hay,
phải cầu kỳ, phức tạp như Nguyễn Tuân, muốn cho câu thơ hay phải viết
một cách trau chuốt và dùng nhiều từ Hán Việt như Nguyễn Gia Thiều?
Câu trả lời là không nhất thiết phải thế. Chẳng hạn bài thơ Thu Điếu rất
nôm na, rất bình dị của Nguyễn Khuyến vẫn là một kiệt tác. Nhan đề
của bài thơ là hai từ Hán Việt, Thu
Điếu, nhưng trong toàn thể 56 từ của bài thơ, chỉ có 5 từ gốc
chữ Hán đã được Việt hóa từ xa
xưa (thu, thuyền, trúc, khách, động), 51 từ còn lại đều thuần Việt. Đây
là một trường hợp rất hiếm hoi trong thi ca Việt Nam vào thời Hán
Học còn được trọng dụng. Ngoài lối dùng từ rất nôm na, rất bình dị,
tác giả lấy toàn những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc và rất quen thuộc của
làng quê Việt Nam miền Bắc làm chất liệu, làm nguồn cảm hứng. Ta còn nhớ ngay cả trong thời kỳ Thơ
Mới Tiền Chiến, và ngay cả nhà thơ cách tân nhất của thời kỳ đó là
Xuân Diệu cũng đã từng mơ đến bến Tầm Dương khi nghe tiếng đàn trong
một đêm thu lạnh:
Thu
lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn
ghê như nước lạnh trời ơi
Long
lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng
nhớ Tầm Dương nguyệt nhớ người[1]
Và bến Tầm Dương là một địa danh mà
Bạch Cư Dị đời Đường đã nhắc đến trong bài Tỳ Bà Hành nổi tiếng:
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt
sắt
(Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu
hiu)
Cũng thế, sau cả Xuân Diệu, nhà thơ
Bích Khê hẳn đã nghĩ đến hai câu thơ Tàu:
Ngô
đồng nhất diệp lạc
Thiên
hạ cộng tri thu
(Một lá ngô đồng rụng
Thế
gian biết thu về)
khi viết hai câu thơ tuyệt vời:
Ô!
Hay buồn vươn cây ngô đồng
Vàng
rơi, vàng rơi, thu mênh mông
Còn Thu
Điếu của Nguyễn Khuyến? Trong Thu
Điếu, tuyệt nhiên không có những hình ảnh ước lệ, vay mượn từ văn
thơ cổ của Tàu.
Thế nhưng cái đơn giản, bình dị cùng
cực của ngôn ngữ, của hình ảnh, vẫn chuyên chở những ý nghĩa và
cảm xúc sâu xa. Bên dưới quang cảnh một ngày thu lạnh, lặng lẽ, êm
đềm, trong sáng là những sâu lắng, những xôn xao, trăn trở, trầm tư.
Tả cảnh câu cá chăng? Không. Chỉ trong câu thứ hai có nói đến Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo, và câu cuối có nhắc đến Cá đâu đớp động dưới chân bèo, sáu câu còn lại tác
giả đề cập đến chuyện khác. Ta cảm nhận ngay
rằng câu cá chỉ là cái cớ để cụ già đắm chìm trong cái bao la của
trời đất mà “ngộ” ra được cái lạnh lẽo, cô đơn, trống vắng, nhỏ
nhoi, ngắn ngủi của kiếp người. Đã già yếu, “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được”, mải mê trong suy tưởng, bỗng
giật mình thảng thốt vì tiếng cá đớp động.
Xin dẫn toàn bài:
Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo
Một
chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng
biếc theo làn hơi gợn tí
Lá
vàng trước gió sẽ đưa vèo
Từng
mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ
trúc quanh co khách vắng teo
Tựa
gối ôm cần lâu chẳng được
Cá
đâu đớp động dưới dưới chân bèo
Trở lại với vấn đề sử dụng chữ
Hán, chữ Nôm, nếu ta thử “cắc cớ” thay vài ba từ Hán Việt vào bài Thu Điếu, chẳng hạn:
Thu
trì lạnh lẽo nước trong veo
Một
chiếc ngư châu bé tẻ teo ...
câu thơ sẽ lục cục như miếng cơm nhai
trong miệng lẫn lộn vài hạt sạn. Tóm lại cái trong sáng, đơn giản trong
Thu Điếu lại là ưu điểm lớn.
Hai câu thơ tả người chinh phu trong Chinh Phụ Ngâm, “Áo chàng đỏ tựa ráng
pha/Ngựa chàngsắc trắng như là tuyết in” cũng trong sáng, đơn giản
so với hai câu trong Truyện Kiều tả
Kim Trọng, “Tuyết in sắc ngựa câu
giòn/Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”. Tôi lại nhớ đến một đoạn
bình giảng của Giáo Sư Phạm Văn Diêu trong cuốn Việt Nam Văn Học Giảng Bình(in lần thứ ba, Nhà Xuất Bản Hoành Sơn, Sài
Gòn - 1970) trong đó tác
giả ca ngợi Nguyễn Du và chê bai Đoàn Thị Điểm:
“Nhằm
thực hiện mục đích trên, văn từ thi pháp ở đây có tính cách thật là
cao quý, tao nhã. Tả Kim Trọng trong buổi chiều xuân lửng lơ, Nguyễn Du
viết:
Tuyết
in sắc ngựa câu giòn,
Cỏ
pha màu áo nhuộm non da trời.
Màu
sắc chọn lọc, âm thanh tinh tế, cú pháp phóng túng, làm ta nhớ đến
người chiến sĩ trong câu thơ Chinh Phụ:
Áo
chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa
chàng sắc trắng như là tuyết in.
mà
không khỏi thấy vẻ mộc mạc, non tay trong nghệ thuật nhà nữ sĩ họ Đoàn,
để nhận rõ rằng Tố Như quả là ‘già tay bút pháp’”.
Đọc đi đọc lại đoạn trích dẫn trên,
tôi không khỏi bỡ ngỡ. Đành rằng Truyện
Kiều là một kiệt tác, giá trị nghệ
thuật của nó cao hơn Chinh Phụ Ngâm, nhưng
nói thế không có nghĩa rằng mọi câu thơ trong Truyện Kiều đều hay hơn.
Riêng hai câu của Truyện Kiều nêu trên, theo
tôi, có vài điểm cần xét lại. Trong câu lục, “Tuyết in sắc ngựa câu giòn”, chữ “giòn” thừa, cứng, nó
chỉ có nhiệm vụ gieo vần cho chữ thứ sáu của câu bát, trong khi chính câu bát này, “Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”, cũng có phần rườm rà. Tác giả muốn nói áo màu cỏ xanh,
mà phải là cỏ xanh non như màu da trời chăng? Thì viết áo màu xanh da
trời là đủ. Hơn nữa cấu trúc của nhóm chữ “nhuộm non da trời” hơi hàm
hồ. Màu da trời xanh non, hay (núi) non có màu da
trời? Đó
là vài chi tiết có thể bàn thêm, nhưng dù sao hai câu thơ ấy cũng vẽ ra
được những nét đầu tiên sơ ngộ của một trang thanh niên phong lưu, cao
sang.
Hình ảnh người chiến sĩ trong Chinh
Phụ Ngâm khác hẳn, và cũng được mô tả bằng lời thơ khác hẳn. Người
chinh phụ tiễn đưa chồng ra mặt trận lòng buồn “dặc dặc” (Đưa
chàng lòng dặc dặc buồn) trước bao nhiêu cảnh tượng diễn ra trước mắt. Đấy là những “bóng cờ tiếng trống xa xa”, những
đoàn “Quân đưa chàng ruổi lên đường”,
những “Tiếng nhạc ngựa lần chen
tiếng trống”,những “Tiếng địch
thổi đồng vọng”. Giữa tất cả những xôn xao, rộn ràng, cuồng nộ của
âm thanh, của tiếng động, của di chuyển, của cát bụi, lẫn lộn và mờ
mịt trong tâm trí của nàng, hình ảnh chói lọi nhất, rực rỡ nhất,
gây ấn tượng nhất, cái hình ảnh sẽ không bao giờ phai mờ trong lòng
người chinh phụ, đó là chiếc chiến y màu đỏ như ráng pha và con
chiến mã màu trắng như tuyết in mà nàng được thấy lần cuối cùng
trong đời. Vâng, biết đâu chàng sẽ không bao giờ trở về.
Cảm xúc của người chinh phụ hẳn là
trực tiếp, cụ thể, nhanh chóng, không qua tính toán, lý luận, không
chải chuốt, tô điểm, không vướng mắc tu từ, đã được phô diễn bằng hai
câu đơn giản như câu nói bình thường mà chứa đầy tình ý sâu xa, trung
thực:
Áo
chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa
chàng sắc trắng như là tuyết in
Nhưng nàng thơ khó tính lắm. Khi thì
đòi đơn giản như Thu Điếu, lúc
thì mong cầu kỳ như Cung Oán Ngâm.
Trực tiếp, đơn sơ như hai câu tả người chinh phu trong Chinh Phụ Ngâm là hay, nhưng trong trường hợp khác, gián
tiếp, bóng bảy lại đạt. Câu thơ cổ “Buồn
trông con nhện giăng
tơ” trong bài Vì Nhớ Mà Buồn (Đêm qua ra đứng bờ ao/Trông
cá cá lặn trông sao sao mờ/Buồn
trông con nhện giăng
tơ/Nhện
ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai...) nghe thật chân phương, hiền từ, đã được Huy
Cận viết lại một cách tài tình, tuy vẫn dùng chừng ấy sáu từ,
cũng “buồn”, cũng “con nhện”, cũng “giăng” tơ trong bài Ngậm Ngùi. Chỉ thay đổi vài chữ, chỉ vận dụng một cấu trúc khác,
mà câu thơ trở nên linh động, mạnh mẽ và mới mẻ. Hơn nữa, cái buồn
da diết hơn, dồn dập hơn, đan quyện vào nhau qua hình ảnh “con nhện giăng
mau” : Sợi buồn con nhện giăng mau (Nắng chia nửa bãi chiều rồi/Vườn
hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu/Sợi
buồn con nhện giăng mau/ Em
ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây – Ngậm Ngùi).
Hơn nữa, nếu câu “Buồn trông con nhện giăng
tơ” gần gũi với lối
nói bình thường, với văn xuôi, thì “Sợi
buồn con nhện giăng
mau” lại hoàn toàn là một
câu thơ lung linh, bóng bảy dù đứng riêng rẻ một mình hay nằm cạnh
những câu thơ khác của bài thơ.
Cho nên, đơn giản hay cầu kỳ, cụ thể
hay trừu tượng, chân phương hay bóng bảy, vân vân, đấy không phải là
vấn đề.
Thế nhưng lối nói bình thường, đơn
giản lại được hoan nghênh trong lối thơ Tân Hình Thức. Trong vòng 15 năm
nay loại thơ Tân Hình Thức (New Formalism) ra đời ở California chủ tương đưa vào thơ sự
đơn giản, trung thực của đời thường, giảm thiểu tu từ bóng bảy, loại
bỏ những ẩn ý, những thông điệp cao siêu, sử dụng lối vắt dòng và lặp
lại để thay thế vần điệu cũ, thêm tính truyện v.v... Một số bài thơ
Tân Hình Thức có giá trị ra đời.
Dưới đây là bài thơ “Khúc Hai Hai” của Nguyễn Thị Ngọc Lan, một bài thơ hội
đủ những đặc trưng của loại thơ ấy:
Mẹ
cõng nỗi buồn của con, qua những
chặng
đường, hai mươi năm. Đèn đỏ mẹ
cùng
con dừng lại, cùng hát cùng cười,
đèn
xanh mẹ tha con đi như mèo
mẹ
tha con. Vụng về mẹ làm con
đau,
bướng bỉnh con làm mẹ đau. Hai
mươi
năm, chỉ có con làm nhân chứng
cho
niềm đau của mẹ, hai mươi năm,
chỉ
có mẹ đeo riết niềm đau của
con.
Rồi một ngày, con đi vào đời
một
người đàn ông bạc ác, và nỗi
buồn
của mẹ nhân đôi, vì có vài
người
đàn ông bạc ác trôi qua đời mẹ.
Cứ
thế, mẹ cõng niềm đau của con
nhưng
niềm đau của mẹ không ai biết
đến.
Và chiều nay, chiều nay, mưa rơi
mưa
rơi, có bao nhiêu người đàn bà
khóc
một mình. Có bà ngoại, có mẹ,
có
con ...
Loại Thơ Tân Hình Thức tại Mỹ, Canada
đã đạt những thành tựu lớn lao, tuy nhiên khi được du nhập vào làng
thơ Việt Nam, sức lôi cuốn của nó bị giảm đi rất nhiều. Tại sao thế?
Có lẽ vì tiếng độc âm
của ta không thích ứng với việc tạo dựng vần điệu, nhịp điệu, nghệ
thuật cú pháp thay thế nghệ thuật tu từ như trong loại thơ Tân Hình Thức tiếng Anh.
Ở Úc, thơ Hậu Hiện Đại, Lưu vong, “Lai
Ghép Xuyên Quốc Gia”, có vẻ phát triển khả quan. Thử đọc hai đoạn thơ
trong bài trong bài Cuối năm Ợ Lên
Nhai Lại của nhà thơ trẻ Tú Trinh:
Cuối
Năm Ợ Lên Nhai Lại
…
như thể là chỉ còn một khung cửa
gỗ mở ra
và hiên mưa và bầu trời đêm quên
lấp lánh
và tiếng dòng sông chảy sau rừng
và tiếng thở nhẹ nhàng của người
khách lạ
đã quên tên họ mình
đã quên những gì đã qua
đã quên những gì chưa tới
[đi lạc trong
hiện thực như thực của mưa]
như
thể là những người Nam Á di cư từ
ngàn xưa
đem
đến vùng đất mới những mảnh vụn quê cũ
mấy
câu thơ rơi rớt dọc đường
vài
hạt giống nảy mầm ủ rũ
nằm
chờ sự ghép lai
[kính thưa các thể loại]
...
Thi ca
Việt Nam biến
chuyển nhiều từ trước đến giờ. Có người xem những dòng thơ đi trước
họp lại làm thành những bệ phóng nhờ đó thơ hôm nay cùng với những
thử nghiệm đầy gian nan sẽ có ngày đạt được thành quả rực rỡ hơn. Nhưng cũng có người cho rằng thơ truyền
thống là những gông cùm cần phải đập tan thì thơ của ta mới có thể
vươn lên ngang tầm thế giới. Đó là chọn lựa của những nhà phê bình
thơ, những người làm thơ. Riêng giới độc giả thì tha hồ tìm kiếm cái hay, cái đẹp mà
thưởng ngoạn.
Mùa thu đang về. Nắng vàng thêm một
chút, gió chớm se lạnh, ngày trở dậy muộn, chiều mau tới. Bài viết
này nói về thơ nhưng khởi đầu bằng vài đoạn văn xuôi của Nguyễn Tuân có
nhắc đến “ngày lập thu qua đã lâu
rồi”. Vậy cũng nên kết thúc bằng vài câu
văn xuôi của Nhất Linh mở đầu cho cuốn Đôi
Bạn:
“-Trời
muốn trở rét ...
Nói
xong và nghe tiếng mình nói, Trúc nhớ lại rằng câu nói ấy chàng đã
thốt ra nhiều lần, năm nào cũng vậy. Sự rung động êm ái và hiu hắt
buồn trước cơn gió lạnh đầu tiên khiến vẻ mặt Trúc trở nên dịu dàng
và thoáng trong một giây chàng sống lại hết cả những ngày mới trở
rét trong đời...
Tuy
đã cuối tháng chín nhưng đối với Trúc cứ lúc nào trời đổi gió heo
may mới thực là lúc bắt đầu mùa thu.”
[1]Nhưng cũng phải công bằng với nhà thơ
tài ba này: hai bài thơ Thu khác rất hay của Xuân Diệu không hề mang
dấu vết của thơ Tàu, đó là Đây Mùa
Thu Tới và Thu. Xin chép lại
toàn bài thơ Thu.
Thu
Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu
Nắng
nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì
Hư
vô bóng khói trên đầu hạnh
Cành
biếc run run chân ý nhi
Gió
thầm mây lặng dáng thu xa
Mới
tạnh mưa trưa chiều đã tà
Buồn
ở sông xanh nghe đã lại
Mơ
hồ trong một tiếng chim qua
Bên
cửa ngừng kim thêu bức gấm
Hây
hây thục nữ mắt như thuyền
Gió
thu hoa cúc vàng lưng dậu
Sắc
mạnh huy hoàng áo trạng nguyên
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét