Thứ Năm, 10 tháng 9, 2015
Hùng Tâm - Sợ Tầu là bệnh hay lây
Quãng ba chục
năm trước, nước Mỹ xôn xao vì sức mạnh kinh tế Nhật Bản, đến nỗi trong xã hội
đã nổi lên phong trào “Bài Nhật.” Ngày nay, người ta đang thấy tái diễn một
phản ứng tương tự, là bệnh “Sợ Tầu.”
Vào đầu thập
niên 1980, người Mỹ thấy kinh tế Nhật phát triển quá mạnh, tư bản Nhật tràn
ngập Ðông Á đã ào ào chảy vào Hoa Kỳ như thác lũ. Giá nhà đất của một quận của
thủ đô Tokyo còn cao hơn giá đất của cả tiểu bang California. Xe hơi Nhật chạy
như mắc cửi trên xa lộ Mỹ, với ưu điểm đẹp rẻ bền lại ít tốn xăng. Doanh nghiệp
Nhật mua các phim trường, bất động sản và cả biểu tượng văn hóa Hoa Kỳ là
Rockefeller Center ở New York. Người ta bình luận về sức mạnh Nhật Bản, viết
truyện và dựng phim về âm mưu mờ ám của tư bản Nhật. Ðây đó có người treo xe
Nhật lên rồi lấy búa nện cho tan tành....
Sau đó là lịch
sử: kinh tế Nhật bị khủng hoảng từ năm 1991, đến tuần qua mới có vài chỉ dấu
tạm gọi là khả quan mà không bền. Ở giữa là sáu đợt suy trầm mà chưa chắc là
“ba mũi tên cải cách” của chính quyền Shinzo Abe đã có thể đảo ngược nổi. Nhưng
dư luận Hoa Kỳ đã hướng nỗi lo qua chuyện khác.
Nói tắt về bối
cảnh thì sau gần chục năm lo sợ kinh tế Trung Quốc sẽ bắt kịp Hoa Kỳ khi Mỹ bị
khủng hoảng tài chánh năm 2008 và kinh tế của Tầu vượt Nhật năm 2010, ngày nay
dư luận Mỹ lại sợ nạn trời sập bên Tầu sẽ văng miểng vào kinh tế Mỹ. Hồ sơ
Người Việt sẽ tìm hiểu về cái bệnh “Sợ Tầu” này.
Trung Quốc cất cánh
Từ 15 năm nay,
sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO với sự đồng ý của
Hoa Kỳ, thế giới bắt đầu giật mình vì sự xuất hiện của một cường quốc kinh tế
mới. Sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, Liên Âu thành hình năm 1992 và khối Euro
ra đời vào năm 2000, thiên hạ mới chú ý đến nền kinh tế Hoa lục có một tỷ 300
triệu dân, theo kinh tế thị trường từ năm 1980 và có đà tăng trưởng cao. Sau
khi là thành viên WTO, nền kinh tế đó hội nhập vào luồng giao dịch toàn cầu với
mũi nhọn là xuất cảng các mặt hàng chế biến với giá rất rẻ và thu về một kho
ngoại tệ vĩ đại.
Sự thật là sau
30 năm hoang tưởng của Mao Trạch Ðông từ 1949 đến 1978 làm mấy chục triệu dân
thác oan, Ðặng Tiểu Bình mới tiến hành kế hoạch “cải cách và khai phóng kinh
tế” từ đầu năm 1979. Khi ấy, Bắc Kinh áp dụng chiến lược phát triển của các xứ
Ðông Á đã theo kinh tế thị trường từ trước, như Nhật, Nam Hàn, Ðài Loan và
Singapore. Nhưng khác với các mẫu mực Ðông Á là lấy tiêu thụ làm sức mạnh,
chiến lược Trung Quốc lấy đầu tư làm lực đẩy cho sản xuất và sản xuất nhiều và
rẻ thì tìm sức kéo ở xuất cảng.
Trung Quốc
không phát minh ra chiến lược ấy nhưng có ưu thế là dân số cao, nhân công nhiều
và rẻ được giải phóng khỏi chế độ tập trung kế hoạch nên đạt mức tăng trưởng
trung bình là gần 10% trong ba chục năm. Với sức tăng trưởng đó thì mỗi bảy năm
sức nặng kinh tế của xứ này lại nhân đôi, làm nhiều người Mỹ gọi là sự kỳ diệu
và báo hiệu một “Thế kỷ 21 của Trung Quốc.”
Họ không thấy
trào lưu tương tự ở các nước Ðông Á đi trước, khi ấy được ca tụng là “tân
hưng,” với phẩm chất tăng trưởng cao chứ không tệ hại như Trung Quốc. Sau đó
các nước này còn chuyển lượng thành phẩm và thoát khỏi hiện tượng “bẫp sập của
lợi tức trung bình” để tăng trưởng thấp hơn nhưng người dân có mức sống cao
bằng khối công nghiệp hóa tiên tiến trong thể chế dân chủ.
Cụ thể thì theo
một công trình nghiên cứu vào Tháng Năm vừa qua của Ngân Hàng Dự Trữ Hoa Kỳ tại
khu vực Minneapolis, lợi tức trung bình một đầu người của Trung Quốc đã từ
1,300 đô la vào năm 1980 tăng đến 7,700 đô la vào năm 2010: tăng 500% trong 30 năm
(năm 2010 đó là khi sản lượng kinh tế Tầu vừa vượt Nhật Bản). Nếu chỉ nhìn vào
Trung Quốc thì đấy là sự kỳ diệu. Nhưng ngày nay dân Nhật, Nam Hàn hay Ðài Loan
lại giàu gấp bội, với lợi tức đồng niên cho một người là hơn 36,000, hơn 28,000
hay hơn 22,000. Ðó là nhìn vào không gian.
Nhìn theo trục
thời gian thì có một trào lưu chung là sau thời tăng trưởng cao như khi một phi
cơ mới cất cánh, các nước đó bước vào thời kỳ bay ngang, hay “bằng phi,” với đà
tăng trưởng thấp hơn. Nhật cất cánh từ 1951 và Nam Hàn từ 1954 và sản lượng một
đầu người tăng mạnh trong mấy thập niên đầu rồi chậm dần. Của dân Nhật thì khởi
đầu là 6.1% một năm rồi 5.4% vào thập niên 1970, rồi chỉ còn 2.2% từ thập niên
90. Nam Hàn cũng thế, sản lượng một đầu người tăng 8.5% một năm trong thập niên
80, rồi 5.8% trong 10 năm kế, và từ quãng 2000 về sau thì chỉ còn 3.8%. Trường
hợp Trung Quốc cũng không khác và họ đang bước vào thời trì trệ, nhưng với lợi
tức trung bình một năm vẫn ở dưới 10 vạn đồng và lạc quan lắm thì năm 2030 sẽ
bằng 32,8% của dân Mỹ hoặc quãng 2061 thì mới bằng được phân nửa của dân Mỹ.
Phi cơ hạ cánh vào thời đình trệ
Sau khi Trung
Quốc cải cách kinh tế thì thế giới ngợi ca việc đổi mới là có ý nghĩa lịch sử.
Nếu so với
nhiều quốc gia đã theo quy luật của thị trường cho tự do hơn, như Nhật Bản, Nam
Hàn, Ðài Loan hay Ấn Ðộ sau này, thì mức tăng trưởng của Trung Quốc chẳng là
phép lạ. Nó còn được thổi phồng như cơ quan nghiên cứu độc lập của Mỹ là
Conference Board vừa lượng định lại sau nhiều năm khảo sát công phu. Một cách
cụ thể thì trong 25 năm, đà tăng trưởng thực của Trung Quốc thấp hơn số chính
thức đến hơn một phần tư, là tăng quãng 7.5% một năm thôi, cho nên thật ra kinh
tế của xứ này chưa có sức nặng như người ta nghĩ.
Ði vào chi tiết
thì trong 35 năm sau khi Ðặng Tiểu Bình mở cửa, kinh tế Trung Quốc đã qua ba
giai đoạn cất cánh tuần tự.
Trước hết về
phẩm thì họ giải tỏa cho dân được làm ăn cho nên từ cái đáy của sự bần cùng nên
kinh tế dễ bật dậy. Về lượng là nhà nước chủ động dùng đầu tư làm lực đẩy, đến
khi đụng vào giới hạn của cơ chế kinh tế từ bảy tám năm trước thì yêu cầu cải
cách được đặt ra. Nhưng năm 2008, thế giới lại bị Tổng Suy Trầm và Bắc Kinh sợ
suy thoái nên hoãn cải tổ mà ào ạt bơm tín dụng để kích thích kinh tế. Khi đó,
tư bản ứ đọng từ khối Âu-Mỹ-Nhật bị đình trệ chảy về Châu Á để tìm mức lời cao
hơn. Nhờ vậy mà khi thế giới bị trì trệ thì Trung Quốc vượt lên và qua mặt Nhật
Bản từ năm 2010, đấy là giai đoạn thứ ba.
Nhưng cũng do
đó mà Trung Quốc tích lũy thêm yếu tố bất ổn và đang gây mối sợ khủng hoảng cho
Hoa Kỳ.
Vắn tắt thì cái
nhân khủng hoảng bên trong đã có, cái duyên ngày nay khi khối công nghiệp hóa,
trước hết là Mỹ, muốn tăng xuất cảng, giảm mức bơm tiền, hút lại lượng tiền đã
bơm ra và sẽ nâng lãi suất. Khi ấy, kinh tế Trung Quốc bị rủi ro lớn, là điều
có thể xảy ra từ năm tới.
Thật ra từ
Tháng Ba năm 2007, tổng lý Quốc Vụ Viện là Thủ Tướng Ôn Gia Bảo nêu ra bốn
nhược điểm kinh tế là “không ổn định, không cân đối, không phối hợp và không
bền vững.” Ðáng lẽ ông phải nêu thêm một cái không nữa là không công bằng. Ba
năm sau, Tháng Sáu năm 2010, người lên làm thủ tướng ngày nay là Phó Thủ Tướng
Lý Khắc Cường cũng viết trên tạp chí “Cầu Thị,” cơ quan lý luận của Trung Ương
Ðảng và của Trường Ðảng, rằng công cuộc phát triển của họ “tạo ra một cơ cấu
kinh tế phi lý” và “ngày càng thấy rõ chiều hướng thiếu phối hợp và không vững
bền.” Khi ấy các lãnh tụ khác như Chủ Tịch Hồ Cẩm Ðào sắp mãn nhiệm và Tổng Bí
Thư Tập Cận Bình sẽ lên thay cũng đều phát biểu như vậy.
Nghĩa là lãnh
đạo xứ này thấy ra vấn đề từ đã lâu mà không cải cách được cho tới ngày hạ
cánh.
Hạ cánh bấp bênh
Y hệt như về
Nhật Bản ba chục năm trước, nhiều người không thấy ra các vấn đề của Trung
Quốc.
Nền kinh tế này
nén tiêu thụ để lấy đầu tư làm lực đẩy mà đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước
kém năng suất lại là chính nên mới gây lãng phí. Số đầu tư ấy lấy tiết kiệm rất
cao của dân mà đền bù rất rẻ nên gây ra bất công. Nhờ sản xuất ồ ạt bằng mọi
giá, Trung Quốc có thể xuất cảng rẻ, là công xưởng cho thế giới, và giúp nhà
nước độc quyền thu về một lượng ngoại tệ kỷ lục có lúc lên tới bốn ngàn tỷ đô
la làm dân Mỹ hãi sợ vì trong đó có hơn ngàn tỷ là cho Mỹ vay. Bất trắc lớn là
trong cơ chế ấy, các đảng viên cán bộ cao cấp của khu vực nhà nước và ở địa
phương thì làm giàu dễ nên ủng hộ chiến lược cũ và cản trở việc cải sửa với lý
do là sợ giảm đà tăng trưởng.
Thế rồi vì đà
tăng trưởng nhờ đầu tư mạnh bắt đầu giảm và kinh tế toàn cầu bị suy trầm nên
hãm đà tiêu thụ hàng hóa Trung Quốc cho nên kể từ năm 2008, lãnh đạo ồ ạt bơm
tiền kích thích sản xuất. Tín dụng quá rẻ, lại dồn vào thành phần kinh tế nhà
nước và đảng bộ địa phương nên thổi lên bong bóng đầu cơ trong tình trạng nợ
quá sức trả. Trong khi đó, tư doanh mới là lực lượng tạo ra việc làm nhờ tiểu
doanh thương thì không dễ vay tiền từ hệ thống chính thức, họ phải vay gián
tiếp qua thị trường chui, hay tín dụng ngoại ngạch, shadow banking, với lãi
suất cắt cổ và chỉ có thể hoàn trả nếu đầu cơ theo lối chụp giựt đầy rủi ro.
Hậu quả là kể từ 2008, kết số nợ của các cấp nhà nước công và tư nhân đã tăng
hơn sản lượng cả năm, bên trong có nhiều khoản nợ xấu, khó đòi và sẽ mất. Mà
xấu đến cỡ nào thì không ai đoán biết được.
Vì vậy, ngày
nay, Hoa Kỳ cũng lại Sợ Tầu. Nhưng là nỗi sợ ngược: Sợ kinh tế Trung Quốc hạ
cánh nặng nề, hoặc hạ cánh tan tành rồi sẽ bị khủng hoảng tài chánh vì gánh nợ.
Kết luận ở đây là gì?
Nền kinh tế
đứng hạng nhì sau Hoa Kỳ là Nhật Bản đã bị khủng hoảng từ năm 1991 mà kinh tế
Hoa Kỳ không bị ảnh hưởng nặng. Ngày nay, nếu mà nền kinh tế hạng nhì là Trung
Quốc có bị khủng hoảng thì hậu quả kinh tế cũng chẳng đáng ngại.
Nhưng hậu quả
chính trị lại khác, vì Nhật Bản là đồng minh của Mỹ mà Trung Quốc thì không.
Ðấy mới là
chuyện đáng lo và đáng theo dõi khi Mỹ-Hoa có thượng đỉnh vào cuối Tháng Chín
này.