Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

Tùy Bút Võ Phiến – Rụp Rụp

Nhà văn Võ Phiến.
L.T.Đ: Từ California, nhà văn Phạm Xuân Đài vừa cho biết một tin buồn:
“Nhà văn Võ Phiến đã qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, Santa Ana, thọ 90 tuổi...Nhà văn Võ Phiến là một tác giả quan trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là công chức thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa cho đến 1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả, nhưng từ sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông). Ông sang Hoa Kỳ từ 1975 và làm việc cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về hưu. Tại hải ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn học. Từ cuối thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền thân của tạp chí Văn Học sau này.
Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận, tùy bút, lý luận và phê bình văn học. Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có, về truyện ngắn và tiểu thuyết: Chữ Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ, Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà...; về tùy bút, tạp bút: Tạp bút I, II, III, Đàn Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết, Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I, II, Đàm Thoại v.v... Tại hải ngoại, ông đã bỏ công sức trong nhiều năm trời để soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ nền văn học miền Nam đã bị Cộng Sản thiêu hủy từ sau 1975.
Để tưởng niệm một vì sao vừa khuất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một tuỳ bút tiêu biểu của ông. Bài viết này  được trích từ tập Đất Nước Quê Hương, do nhà Lửa Thiêng  xuất bản lần vào năm 1973.
Tưởng Năng Tiến

Ông Bình Nguyên Lộc quả quyết rằng trong một bàn ăn mười ba người, gồm mười hai người Việt và một người Hoa, đồng vóc dáng, đồng trang phục, ngồi im không nói, ông cũng phân biệt được kẻ Việt người Hoa.

Như vậy đã là tài, nhưng ông còn đi xa hơn: có thể nhìn hình dáng mà phân biệt được người Tàu Phúc Kiến với người Tàu Quảng Ðông, người Tàu tỉnh này với người Tàu tỉnh khác.(1) 

Đinh Cường - Tôi không còn nghe thác đổ sau nhà

Võ Phiến thời ở Qui Nhơn, 
sơn dầu trên gỗ 22 x 28 cm dinhcuong


từ biệt anh Võ Phiến,

Mai kia ta đi mất
Tháng tư cuối vườn hoa tử đằng tím ngát
( Võ Phiến )

Tháng tư hoa tử đằng tím ngát
mà trời mới chớm thu lá phong vàng
anh ra đi rồi sao. chị hết đưa anh ra
công viên trước nhà từ mấy tháng nay
anh không còn đi nổi nữa. anh nằm …

chín mươi tuổi. thôi anh như vậy là thọ.
để lại cho đời cả một gia sản văn chương
anh là nhà văn lớn của Việt Nam, của cả thế kỷ 
hai mươi. nếu thay đổi vùng địa lý. chính trị.
Việt Nam mình  không biết trọng nhân tài

Võ Phiến. Dostoyevsky hay Gabriel
Garcia Marquez ở ba đất nước khác biệt
nhưng ở những nơi kia được tôn vinh
biết chừng nào. nhà văn mình chỉ chốn
chợ lao xao. ồn ào tiếng nói không phải.
anh như ông Phật chuyện gì cũng bỏ qua thôi [1] 

nhìn anh phút cuối nằm đó. có Thầy Viên Lý
có chị Viễn Phố chắp tay tụng niệm
có chuỗi hạt bồ đề có cả trang kinh
ở  xa bên này miền Đông tôi tụng niệm tiếp dây chuyền

anh ra đi thanh thản yên lành là Phước Đức.
từ nay tôi không còn nghe tiếng thác đổ sau nhà ...[2]

Virginia  Sept 30 , 2015
Đinh Cường


[1] trong bài thơ Rồi cũng bỏ qua thôi, mùa thu năm 1995
[2] một chương truyện Thác đổ sau nhà của Võ Phiến


Song Thao - Hai lần gặp Võ Phiến

Với nhà văn Võ Phiến. (Santa Ana, 12/2006).
Nguyễn Mộng Giác là người đưa tôi tới gặp Võ Phiến lần đầu vào cuối năm 2006. Chính xác là vào đúng ngày lễ Giáng Sinh năm 2006. Lúc đó anh Nguyễn Mộng Giác chưa vướng căn bệnh ung thư gan ác nghiệt và nhà văn Võ Phiến còn rất khỏe mạnh. Võ Phiến là tác giả tôi mến mộ từ tạp chí Bách Khoa ngày nào. Từ thời sinh viên, tôi đã quen với anh Bốn Thôi nhổ cái lông mũi mà tốn bốn trang giấy in. Võ Phiến là nhà văn có lối viết tỉ mỉ, rề rà mà nếu không quyến rũ được người đọc thì dễ làm các độc giả bỏ cuộc. Tài của Võ phiến nằm trong việc níu kéo được người đọc ở lại với nhân vật của ông. Nhưng có lẽ ông chẳng cần níu kéo. Chính cái rề rà của ông làm cho nhân vật của ông rõ nét hơn, thân mật với độc giả hơn.

Đặng Tiến - Chim và Rắn : cái nhìn tương đối trong văn chương Võ Phiến

Võ Phiến và tác giả, sông Loiret 1986
Sau khi mình chết mà con cháu có làm tới quận công, sao bằng đang sống mà gặp được sự chung tình. (Võ Phiến)
Tạp chí Văn học (Cali) có lần đã đăng một tạp luận của Võ Phiến : « Đối thoại về thịt cầy ».
Người quen đọc Võ Phiến sẽ ngạc nhiên : cái gì vậy cà ? Xưa nay có bao giờ nghe Võ Phiến đòi đối thoại ? Hai chữ đối thoại nó lơ láo trong từ vựng Võ Phiến. Và sao lại đối thoại về thịt cầy, một món ăn mà ông chưa chắc đã sành ? Ông đã viết về thịt ếch, thịt rắn, thịt rùa, có nghe chuyện thịt cầy bao giờ đâu ? Chắc là ông ngụ ý cái gì đây. Tôi lại có dịp suy nghĩ thêm về tác phẩm Võ Phiến.

NGUYỄN HƯNG QUỐC/VOA: VÕ PHIẾN, MỘT TÀI NĂNG LỚN, ĐÃ RA ĐI

Nhà văn Võ Phiến (Ảnh: Huỳnh Ngọc Dân)
Đó là một cái tang lớn không những đối với gia đình của ông mà còn đối với văn học Việt Nam nói chung: Một tài năng lớn đã ra đi.

Nếu hiểu nhà văn chuyên nghiệp là người dành toàn bộ thì giờ lao động cho việc viết lách và sống nhờ hẳn vào việc viết lách, tức là người coi việc viết lách như một nghề nghiệp theo cái nghĩa kinh tế học chúng ta thường dùng thì Võ Phiến chưa bao giờ là nhà văn chuyên nghiệp: suốt đời ông là công chức. Ở Việt Nam, ông làm công chức; sang Mỹ, ông cũng lại làm công chức. Viết lách, với ông, chỉ là nghề tay trái, đúng nghĩa tay trái: ông viết trong những ngày lễ, ngày nghỉ, viết giữa hai công việc trong sở, v.v... Vậy mà, nhìn lại số tác phẩm ông đã xuất bản, chúng ta không thể không kinh ngạc: hơn 40 đầu sách. Không phải ít. Chưa nói về chất lượng, chỉ kể số lượng, với hơn 40 đầu sách ấy, Võ Phiến rõ ràng là một trong những nhà văn có năng suất cao ở Việt Nam, không thua gì những người suốt đời sống bằng nghề cầm bút hay gần gũi với nghề cầm bút như dạy học hay quản lý các sinh hoạt văn học nghệ thuật, chẳng hạn.

Trần Vấn Lệ - Vĩnh Biệt Võ Phiến

Nhà văn Võ Phiến (Ảnh: Huỳnh Ngọc Dân)
Tối đó trăng tròn, trăng tròn đầy, người đi tan khuất tựa làn mây! Cali đưa tiễn mưa không hạt, tôi nóng ran người thương tiếc ai…
Con hạc vàng bay trong trăng vàng. Con hạc vàng bay về Quy Nhơn. Tôi đưa tay hứng gì, không biết. Một chiếc lá rơi. Một nỗi buồn!
Tôi khóc. Trời ơi tôi bật khóc. Từ nay tôi mất một Tình Yêu. Từ nay, vĩnh viễn…người-tro-bụi, còn lại Người…trang sách lật theo!
Còn lại Người…Non Nước mỏng manh. Mừng Người rời được chốn hôi tanh. Mừng Người, lòng vẫn nguyên lòng dạ. Mà quạnh hiu đời. Tôi ngó quanh…
Từ nay…cánh cổng nhà ai mở? Cánh cổng nhà tôi đứng bấm chuông. Con quạ lặng thinh…không thấy Bác, không thấy gì…gì nữa, ngoài sương!
Bác Võ Phiến ơi, thôi vậy…hết! Trăm năm, Bác thiếu nợ mười năm. Tách trà bay khói thơm thơm phức, con nhớ Bác hoài những tối trăng…(*)


(*) Nhà văn Võ Phiến mất lúc 7 giờ chiều 28 tháng 9 năm 2015. Trăng 16 tháng Tám năm Ất Mùi đang lên. Thọ 90 tuổi. Tôi từng chúc Bác sống tới trăm tuổi, mà thôi! Xin gửi những giọt nước mắt lăn theo tiễn Bác…

PHÂN ƯU gia quyến nhà văn Võ Phiến của Diễn Đàn Thế Kỷ


Nhà văn Võ Phiến qua đời là một mất mát lớn lao của nền văn học Việt Nam.

Ông đã để lại một văn sản đồ sộ, sau một đời dài không ngừng sáng tác.
Diễn Đàn Thế Kỷ xin chân thành chia buồn cùng bà Võ Phiến và gia đình. Xin cầu chúc nhà văn thảnh thơi với hạc nội mây ngàn...

Ban Chủ Trương
Nguyễn Minh Cần, Song Chi, Trần Mộng Tú,
Đỗ Quý Toàn, Đinh Xuân Quân,
Vũ Quý Hạo Nhiên, Phạm Phú Minh.

Tòa soạn:
Phạm Phú Minh,
Trần Minh Triết

CÁO PHÓ của gia đình nhà văn Võ Phiến (Đoàn Thế Nhơn)


Gia đình chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin:
Chồng, Anh, Cha, Ông Nội, Ông Ngoại, Ông Cố chúng tôi là:

Ông ĐOÀN THẾ NHƠN
Tức nhà văn VÕ PHIẾN
Pháp danh NHẬT TRÍ

Đã mệnh chung lúc 7 giờ chiều 
ngày 28 tháng 9 năm 2015 
tại Orange County, California, USA

Hưởng thọ 90 tuổi.

Linh cữu được quàn tại Peek Family Funeral Home
7801 Bolsa Avenue, Westminster CA 92683 - Phòng số 1
Điện thoại (714) 893-3525

CHƯƠNG TRÌNH TANG LỄ

Lễ nhập quan và phát tang: 
10 giờ sáng  ngày Thứ Bảy, 03 tháng 10, 2015.

Thăm viếng: 
Thứ Bảy 03-10-2015, từ 11 giờ sáng - 8 giờ tối.
Chủ Nhật 04-10-2015 từ 8 - 11 giờ sáng.

Di quan lúc 11 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04-10-2015.

Hỏa táng: 12 giờ 30 ngày Chủ Nhật 04-10-2015.

TANG GIA ĐỒNG KHẤP BÁO

Vợ: Bà quả phụ ĐOÀN THẾ NHƠN, 
nhũ danh Võ Thị Viễn Phố.

Em: Bà quả phụ Đoàn Thế Hối, 
nhũ danh Lê Thị Hạnh, các con, các cháu. 
Đoàn Thế Tâm và gia đình, các con, các cháu.
Đoàn Thị Hòa và gia đình, các con, các cháu.
Đoàn Thế Đinh và gia đình, các con, các cháu.
Đoàn Thị Diệu Ngọc và gia đình.

Con: Đoàn Giao Liên và gia đình, các con, các cháu.
Đoàn Thế Long và gia đình, các con.
Đoàn Thế Phúc
Đoàn Minh Đức và các con.

CÁO PHÓ NÀY THAY THẾ THIỆP TANG
XIN MIỄN PHÚNG ĐIẾU




Thứ Ba, 29 tháng 9, 2015

Bùi Tín - Gỡ bỏ năm cùm và một xích

Ông Tập Cận Bình và Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng.  
Trong bản Hướng dẫn tiếp nhận sự góp ý của toàn dân vào các Dự thảo văn kiện sẽ trình Đại hội XII, do Văn phòng TƯ đảng và Ban Tuyên huấn TƯ thực hiện, thấy ý định của lãnh đạo là khoanh lại, chỉ cho góp ý vào những phần cụ thể của Báo cáo Chính trị và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từ 2016 đến 2020. Họ khoanh lại, cứ như bịt mồm dân khi dân chưa kịp phát biểu.

Phạm Chí Dũng - Vì sao dự luật về hội bị Ủy ban Thường vụ Quốc hội trì trệ vô thời hạn?


Các công đoàn cơ sở tự lập của công nhân - nằm trong định chế Công đoàn độc lập của TPP - làm sao có thể đăng ký hoạt động và được trao cho những điều kiện hoạt động, nếu chính quyền VN cố tình không ban hành Luật Lập hội?
Khi chủ tịch Quốc hội quay ngoắt
Bằng một hành động rất khó hiểu và gây nghi ngờ lớn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam vừa quyết định “nên tạm lùi để chuẩn bị kỹ hơn” việc thông qua dự luật về hội - một dự án có độ lùi đến 23 năm, tính từ Hiến pháp 1992 hiến định quyền người dân “được tự do lập hội”.
Quyết định trên được Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đưa ra vào ngày 25/9/2015. Lý do ông Hùng viện dẫn là “còn có nhiều ý kiến khác nhau” về một số nội dung trong dự luật, trong đó có vấn đề về quy định “Hội có tư cách pháp nhân”.

Nguyễn-Xuân Nghĩa - Bây giờ chưa đến Tháng Mười


Mà người Mỹ đã cười cười đi đốt nhà...

Người viết không tính bình nghị gì về cuộc tranh cử tổng thống tại Hoa Kỳ. Bây giờ chưa đến Tháng Mười, tức là còn cả năm nữa mới đến ngày dân chúng đi bỏ phiếu. Nhưng thời sự tuần qua khiến mình phải nhìn lại Hoa Kỳ, từ bên ngoài.

Tuần qua, nước Mỹ chào đón một anh tổ sư vô thần là Chủ Tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc, người cầm đầu nền kinh tế thần kỳ đã làm thế giới kinh ngạc rồi kinh hãi về sức mạnh lẫn nhược điểm. Nhưng chuyến Mỹ du của họ Tập lại như trái bóng bay. Rất huê dạng đi tìm cái đinh lơ lửng.
Cái đinh của thời sự tuần qua là việc dân Mỹ chào đón bậc lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ, Đức Giáo Hoàng Francis. Trái bóng của kẻ vô thần đã bể vì cái đinh của niềm tin tôn giáo. Chẳng ai nói đến Tập Cận Bình mà chỉ theo dõi từng sinh hoạt của Đức Thánh Cha trong sáu ngày liền cho đến khi ngài lên máy bay vào tối Chủ Nhật 27 tại Philadelphia để trở về Roma.

Minh Anh/RFI - Trung Quốc chựng lại, Mỹ cũng thụt lùi

Tổng thống Mỹ Barack Obama (P) và đồng nhiệm Trung Quốc Tập Cận Bình tại Nhà Trắng, Washington ngày 25/09/2015.Reuters/路透社
Quan hệ Mỹ - Trung vẫn thu hút sự quan tâm của báo giới Pháp. Nhật báo Le Figaro trong mục Ý kiến độc giả, có bài nhận định về đường hướng ngoại giao của hai cường quốc hiện nay. Ông Nicolas Baverez, trong bài viết đề tựa « Trung Quốc trì trệ, Hoa Kỳ thoái lui » cho rằng chuyến công du Hoa Kỳ đầu tiên của ông Tập Cận Bình đang làm sáng tỏ sự đối đầu giữa hai cường quốc thế giới. Những cường quốc quyết định vận mệnh thế giới trong suốt thế kỷ XXI.
Nhưng dưới sự đối đầu trực tiếp này lại cho thấy một sự bất cân xứng. Trung Quốc tuy trì trệ nhưng vẫn tiếp tục đi lên thành cường quốc. Trong khi đó, Hoa Kỳ đang dần hồi phục nhưng lại thụt lùi. Vì sao lại có sự nghịch lý như vậy ? Tác giả có những giải thích như sau.
Kiểm soát Biển Đông là một trong ba ưu tiên của Trung Quốc
Trung Quốc, 30 năm thời vàng son đã qua, giờ đang bước vào một thời kỳ đầy biến động. Thách thức lớn hiện nay là làm thế nào thoát được cái bẫy của những quốc gia có thu nhập ở mức trung bình. Nghĩa là phải chuyển từ một mô hình tăng trưởng theo số lượng nhờ vào xuất khẩu qua mô hình tăng trưởng chất lượng dựa vào nhu cầu nội địa, từ một nền kinh tế nặng về quản lý hành chính sang nền kinh tế thị trường.
Nhưng đồng thời cũng phải tránh được một sự hạ cánh « đau đớn » được hiểu là gây ra bất ổn mạnh về xã hội và chính trị. Để có thể làm được điều đó, ông Tập Cận Bình ấn định 3 ưu tiên. Thứ nhất, tăng tốc cải cách kinh tế với việc huy động nguồn dự trữ ngoại tệ 3.560 tỷ đô-la để kìm hãm bong bóng địa ốc và tài chính ; tái cơ cấu khoảng 200.000 doanh nghiệp Nhà nước và quốc tế hóa nhân dân tệ.
Thứ hai, thâu tóm quyền lãnh đạo Đảng bằng cuộc chiến chống tham nhũng và trấn áp mọi hình thức đối kháng chính trị. Và thứ ba, thống trị vùng Châu Á – Thái Bình Dương thông qua việc kiểm soát Biển Đông, các thỏa thuận thương mại và cơ cấu tài chính xung quanh những con đường tơ lụa mới và thông qua quỹ đầu tư hạ tầng Châu Á.
Bắc Kinh công khai phản đối Washington trên ba lãnh vực
Kể từ giờ, Trung Quốc trực tiếp phản đối vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ trong ba lãnh vực quan trọng. Một là tính hiệu quả tốt nhất của cơ chế ra quyết định – dân chủ hay độc đảng – để quản lý chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa và những chấn động do chính hệ thống tư bản này gây ra.
Lĩnh vực thứ hai là nghiên cứu và công nghệ với việc bành trướng ra quốc tế của các tập đoàn Trung Quốc, không chỉ tại Châu Á, Châu Phi mà cả tại các nước phương Tây, đi đôi với thực hiện các vụ tấn công tin tặc và gián điệp điện tử một cách có hệ thống.
Lĩnh vực cuối cùng là vai trò lãnh đạo Châu Á – Thái Bình Dương, trung tâm của nền kinh tế thế giới, với việc xây dựng hơn 800 ha đảo nhân tạo và 3 căn cứ quân sự quan trọng trên Biển Đông từ đầu năm nay. Sự việc đang gây lo ngại cho nhiều nước Châu Á trong khu vực là Biển Đông sẽ trở thành một vùng biển của Trung Quốc.
Hai điểm yếu của Hoa Kỳ
Đối mặt trước sự hung hăng của Trung Quốc, đương nhiên Hoa Kỳ phải ở thế phòng thủ. Kinh tế có dấu hiệu hồi phục vững chắc, với mức tăng trưởng là 2,7%/năm. Nhưng sự tái tạo mô hình kinh tế Mỹ lại đang lộ rõ hai yếu điểm.
Đầu tiên, đấy là một nền kinh tế bong bóng, được chứng minh rõ qua việc Ngân hàng dự trữ Liên bang Fed mất khả năng nâng mức lãi suất. Tiếp đến, kinh tế Mỹ lại quá lệ thuộc vào Trung Quốc với tư cách là cơ sở sản xuất và thị trường tiêu thụ, như những gì mà ông Tập Cập Bình đã không quên nhắc lại tại buổi hội thảo ở Silicon Valley.
Trên bình diện chiến lược, cái gọi là chính sách xoay trục sang Châu Á được xem như là một sự rút lui hỗn loạn, do thiếu phương tiện và khả năng triển khai các chiến dịch, để cho Trung Quốc tại Thái Bình Dương,   Nga tại Châu Âu và Iran tại Trung Đông, rộng đường hành động, đồng thời gây bất ổn cho các liên minh đóng vai trò giữ ổn định cho Châu Âu và thế giới Ả Rập.
Một Hoa Kỳ bất lực và lỗi thời ?
Như vậy, sức mạnh chiến lược của Hoa Kỳ đang bị vô hiệu hóa. Sức mạnh đó bị tan rã trong một thế giới đa cực, không giúp thắng được một cuộc chiến nào, không duy trì được một nền hòa bình, cũng không tìm được các động lực thúc đẩy, tiếp nối trong các liên minh.
Hoa Kỳ thực hiện quyền lực mềm qua công nghệ, luật pháp và tình báo. Thế nhưng, quyền lực này được thực hiện bất chấp quyền lợi của các đồng minh, không tỏ ra có tác dụng trong quan hệ với các đế chế mới – Trung Quốc, Nga, Iran và Thổ Nhĩ Kỳ - cũng như không giúp đối phó được với cuộc chiến tôn giáo toàn cầu của quân thánh chiến tổ chức Nhà nước Hồi giáo.
Sự thụt lùi của quyền lực mềm của Hoa Kỳ, thậm chí, còn thể hiện trong chính sách tiền tệ của Fed cực kỳ dễ dãi, có lợi cho Trung Quốc bằng cách tạo thuận lợi cho việc nới lỏng hối đoái và thanh toán ở bên ngoài. Thế nhưng, chính sách tiền tệ này lại đi ngược lại chiến lược chống thoái lạm mà Châu Âu và Nhật Bản đang theo đuổi. Do đó, cho đến giờ, Trung Quốc của Tập Cận Bình có được một sự bảo đảm là không bị trừng phạt, đáp trả. Như vậy, cuộc đọ sức giữa hai người khổng lồ sẽ hình thành trong thế kỷ 21 này.
Khí hậu: sợi dây chung cho quan hệ Mỹ - Trung
Nhật báo Kinh tế Les Echos loan báo : « Khí hậu : Một lời hứa hẹn mới của Bắc Kinh và Washington » như hàng tít nhỏ trên trang nhất. Trong cuộc họp báo chung hôm thứ Sáu 26/9, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đưa ra một cam kết đầy tham vọng thành lập một thị trường khí carbon, nhằm giảm thiểu từ 60-65% khí thải gây hiệu ứng nhà kính tại Trung Quốc từ đây cho đến năm 2030 (so với giai đoạn 2005). Như vậy, với tuyên bố chung trên, « Về lĩnh vực khí hậu : Trung Quốc và Hoa Kỳ đang gia tăng tốc độ ».
Nhưng nhật báo Công giáo La Croix thì lại thấy rằng « Trung Quốc đang muốn tự cho mình vai trò lãnh đạo chống biến đổi khí hậu ». Tờ báo giải thích ba điểm : Nội dung đề xuất của Trung Quốc về khí hậu là gì ? Trung Quốc có đề xuất này trong bối cảnh nào ? Và phải chăng Trung Quốc đang muốn tự cho mình vai trò lãnh đạo trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu ?
Với Syria : Putin lật ngược thế cờ ngoại giao ?
Sau 10 năm vắng bóng, ngày 28/09/2015 Tổng thống Nga Vladimir Putin có bài phát biểu trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc, với hồ sơ Syria là trọng tâm chính. Bên lề cuộc họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Tổng thống Nga gặp với đồng nhiệm Hoa Kỳ sau hơn hai năm lạnh lẽo trong mối quan hệ vì hồ sơ Ukraina. Chủ đề này hầu như lấn át mọi tin tức khác trên các báo Pháp.
Có một điểm chung mà hầu hết các báo đều công nhận, trước khi phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, ông Vladimir Putin đã ghi được điểm khi trở lại là một nhà đối thoại không thể thiếu được. Đến mức, nhật báo công giáo La Croix phải thốt lên rằng « Tại Liên Hiệp Quốc, Vladimir Putin tự đặt mình vào trung tâm của sự hỗn độn tại Syria ».
Nhật báo tin chắc là tại Liên Hiệp Quốc, ông Putin sẽ tự cho mình cái tư thế người bảo vệ trật tự thế giới chống lại mối đe dọa khủng bố và lên án việc áp đặt các lệnh trừng phạt đơn phương của Hoa Kỳ. Hơn nữa, sự can dự của Nga vào hồ sơ Syria đã bắt đầu làm thay đổi định kiến. Đức, Thổ Nhĩ Kỳ cho rằng có lẽ cũng nên có sự tham dự của Assad. Anh, Pháp và Mỹ tuy cứ nói vòng vo, nhưng cũng đang xích lại gần với quan điểm của Nga và cũng chẳng lên tiếng đòi hỏi sự ra đi của ông Bachar el-Assad như là một điều kiện tiên quyết cho các cuộc thương lượng.
Les Echos quan sát thấy là « Trở lại Liên Hiệp Quốc, ông Putin triển khai các biện pháp mới ». Bởi vì, trên hồ sơ Syria, Tổng thống Nga còn muốn đi xa hơn. Bài phát biểu của ông tại New York phải là điểm nhấn quan trọng cho chính sách ngoại giao của Nga nhằm thoát khỏi thế cô lập do cuộc khủng hoảng Ukraina gây ra.
Tờ báo trích nhận định của ông Pavel Felgenhauer, chuyên gia quân sự tại Matxcơva : « Mọi thứ đều phụ thuộc vào sự đón tiếp của Obama dành cho ông. Hiện tại, Tổng thống Nga đang cho thấy Matxcơva đủ phương tiện để đơn phương hành động tại Syria ». Theo quan điểm của Les Echos, Nga có thể sử dụng Syria như là một đòn bẩy để đánh lạc hướng và sau này buộc các nước phương Tây phải xử lý tương tự trong hồ sơ Ukraina.
Putin lại thắng thêm một nước cờ
Liệu đó có là « Một thắng lợi mới của ông Putin về Syria ? » là thắc mắc của Libération. Nếu như lần này Tổng thống Nga thành công trong việc kêu gọi thành lập liên minh chống tổ chức Nhà nước Hồi giáo, đây sẽ là thắng lợi thứ hai ông có được trong vòng hai năm về hồ sơ Syria. Lần thứ nhất là vào cuối mùa hè năm 2013, Vladimir Putin đã cứu được chế độ Damas khi đưa ra đề xuất gỡ bỏ các kho vũ khí hóa học.
Dẫu sao thì việc Nga trở lại thành cường quốc có lẽ giảm nhẹ gánh hơn là làm cho phương Tây lo lắng, chừng nào mà Putin vẫn chỉ đề cập đến chống khủng bố. Bởi vì cần phải chấm dứt khẩn cấp tình trạng hỗn loạn tại khu vực mà quân thánh chiến đang sinh sôi nảy nở.
Đồng thời, cũng phải nhanh chóng tìm ra một giải pháp chính trị cho một cuộc chiến đã cướp đi hơn 240 000 sinh mạng, chủ yếu là nạn nhân của các trận không kích và sự hung hãn vô kỷ luật của binh sĩ chế độ Damas. Libération nhắc lại rằng cho đến giờ, không một bên nào thắng thế trên trận địa, một giải pháp có thể chỉ được thông qua bằng một liên minh quốc tế và các cuộc thương thuyết kể cả với chế độ Damas.
Putin muốn gì ?
Để làm sáng tỏ hơn những ý định của ông Putin và chiến lược đối ngoại của Nga, đặc biệt trong hồ sơ Syria, báo Le Monde, số ra ngày 27/09/2015, có bài phân tích « Điều mà Putin muốn » của Sylvie Kauffmann.
Theo nhà báo Kauffaman, chiến dịch triển khai quân sự bắt đầu từ cuối tháng Tám vừa qua, giống như Nga đã từng làm hồi năm 2014, tại Crimée. Nga đã lập cầu hàng không, đường biển, chuyên chở binh sĩ và vũ khí hạng nặng tới sân bay ở phía Lattaquié và tới căn cứ hải quân Nga ở Tartous. Các hoạt động này được tiến hành một cách công khai, ảnh vệ tinh và các thông tin trên mạng xã hội cũng khẳng định điều này. Thậm chí, các cố vấn quân sự Nga còn thông báo cho các nhà báo biết là trong giai đoạn đầu của chiến dịch, có khoảng 2000 binh sĩ Nga tới Syria và đó là một hoạt động bình thường, vẫn có từ trước tới nay.
Theo Le Monde, việc triển khai này là một động thái mang tính lịch sử và không hề bình thường chút nào. Chỉ trong vòng có một tháng, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã tạo được một « việc đã rồi » trên thực địa, tại Syria, làm thay đổi tương quan ngoại giao.
Bởi vì, cho đến nay, Nga là cường quốc duy nhất có một căn cứ hải quân, một sân bay quân sự được tăng cường với các tiêm kích và trực thăng chiến đấu tân tiến, có xe tăng T90 và một lực lượng viễn chinh trên lãnh thổ Syria. Như vậy, bất kể tình hình Syria tiến triển ra sao, không thể có một giải pháp nào cho nước này mà không có vai trò của Nga.
Từ chỗ là một lãnh đạo bị cô lập, thậm chí xa lánh, kể từ sau vụ sáp nhập Crimée, ông Putin giờ đây chắc phải rất hài lòng về những gì đã diễn ra trong tuần lễ vừa qua. Ông lại đóng vai trò trung tâm trong « cuộc chơi » Syria. Đối với báo Le Monde, ông Putin có quyền hài lòng, vì việc triển khai quân sự ở Syria diễn ra ngay trước mũi các nước phương Tây mà không một ai có thể ngăn cản được. Hoa Kỳ đã tìm mọi cách để thuyết phục các nước đồng minh không cho các máy bay vận tải quân sự của Nga đi qua không phận của mình, thế nhưng, chỉ có Bulgari nghe theo Mỹ, còn Irak thì không. Do phải đối phó với làn sóng người nhập cư lớn chưa từng thấy, Châu Âu đã có phản ứng yếu ớt hoặc im lặng.
Câu hỏi đặt ra là ông Putin muốn gì ? Phương Tây thừa nhận là không biết và phải phán đoán như phải chăng Tổng thống Nga muốn mở thêm một mặt trận mới, sau Ukraina hay ông muốn đánh lạc hướng dư luận trong nước để che dấu những khó khăn của Nga trong hồ sơ Ukraina, liệu Nga có thể ngăn cản được đà tiến của tổ chức Nhà nước Hồi giáo hay không ?
Phải chăng Matxcơva đang tìm cách chia rẽ phương Tây và đưa ra điều kiện tiên quyết để giải quyết cuộc khủng hoảng Syria là phải hợp tác với Tổng thống khát máu Bachar Al Assad ? Ông Putin muốn cứu Assad, tránh cho nhân vật này có nguy cơ có cùng số phận như Sadam Hussein ở Irak, Kadafi ở Libya ? Hay phải chăng ông Putin nghĩ rằng Assad đã hết thời và Nga chỉ quan tâm bảo vệ căn cứ hải quân Tartous và bảo vệ duy trì sự hiện diện của Nga trong khu vực ?
Báo Le Monde cho rằng câu trả lời khá đơn giản : Đó là sức mạnh cường quốc. Khi khẳng định vai trò của mình trong hồ sơ Syria, Nga đương nhiên giành lại vị thế là một siêu cường. Cho dù đang gặp nhiều khó khăn về kinh tế,  nhưng với một hệ thống vũ khí được hiện đại hóa, Nga muốn khẳng định vị thế bình đẳng, ngang hàng với Hoa Kỳ, có vai trò trong nhiều hồ sơ quốc tế, giống như thời của Liên Xô trước đây.
Syria : Pháp cũng bon chen
Về phần mình, Le Figaro nhận thấy, trên hồ sơ « Syria : Pháp đang tìm chỗ đứng của mình giữa Nga và Mỹ ». Vào lúc Tổng thống Nga phải phát biểu trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc và có cuộc gặp bên lề với đồng nhiệm Mỹ, Tổng thống Pháp François Hollande đã ra lệnh không quân dội bom vào trại huấn luyện của Daesh.
Tờ báo thiên hữu, trong bài xã luận đề tựa « Phạm vi hoạt động hạn hẹp », cho rằng chuyện ngoại giao Pháp một mình chống lại tất cả đôi khi có thể xảy ra, như chống cuộc xâm lược Irak của Hoa Kỳ năm 2003. Nhưng kinh nghiệm cũng cho thấy là trong cuộc chơi giữa các « ông lớn », người ta cũng không thể một mình áp đặt, hoặc ngăn cản người khác.
Vậy thì liệu có gì phải đáng lo nếu bị gạt ra ngoài cuộc chơi ? Nhật báo đặt câu hỏi. Phạm vi hoạt động có thể có một lợi ích ngoại giao, nhưng về mặt chiến lược thì chẳng đi tới đâu. Nước pháp không thể một mình dấn thân vào cuộc chiến Syria song song với liên minh phương Tây và các đồng minh Nga – Iran của Assad. Để được đếm xỉa đến, Pháp phải chọn đứng về phe nào – hay đóng vai trò làm cầu nối giữa Nga và Mỹ.
Giáo Hoàng Phanxicô : Một vị giáo hoàng cấp tiến
Một đề tài khác cũng được báo chí Pháp bàn luận khá sôi nổi, đó là chuyến tông du Hoa Kỳ của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Nhật báo công giáo La Croix hoan hỉ nhận định : « Thành công chuyến tông du Mỹ củng cố vị thế Đức Giáo hoàng », để khai mở Hội nghị tôn giáo nhạy cảm với chủ đề chính là « gia đình ».
Một quan điểm cũng được Le Figaro đồng chia sẻ trong mục Ý kiến độc giả. Với bài nhận định đề tựa « Công dân Mỹ Phanxico càng vững tin hơn với thiện chí cởi mở », tác giả bài viết, ông Jean-Marie Guénois cho rằng : « Thành công của chuyến tông du bên kia bờ Đại Tây Dương củng cố thêm chính sách thích nghi của Giáo hội với các vấn đề đương đại do Đức Giáo hoàng đề xướng ».
Nhật báo Le Monde lại thấy Ngài là một vị « Giáo hoàng cấp tiến đầu tiên ». Ngài là Đức Giáo hoàng đầu tiên phát biểu trước Quốc hội Hoa Kỳ, nhưng Ngài rất khẳng khái đề cập đến những chủ đề đang gây tranh cãi tại Mỹ : Khí hậu và di dân, đồng thời lên án mạnh mẽ các cuộc chiến do Mỹ dẫn đầu như ở Irak. Tại Liên Hiệp Quốc, Ngài theo đuổi cuộc chiến của mình kêu gọi chống đói nghèo, lên án việc các định chế tài chính thế giới « bóp nghẹt » những nước nghèo qua các chính sách khắc khổ.
Ngài cũng muốn đưa Giáo hội theo một kỷ nguyên hiện đại. Giáo hoàng tỏ ra kiên quyết chống lại nạn « lạm dụng tình dục » trẻ em đang làm vấy bẩn Giáo hội. Nhưng Ngài cũng cho thấy không thấy thay đổi học thuyết của Giáo hội như chống lại việc phá thai, hôn nhân đồng tính. Tuy vậy, vào tháng 10 này, Đức Giáo hoàng sẽ cố đưa ra hình ảnh cởi mở khi đề cập đến những ca ly dị, tái hôn hay như về giới đồng tính.

Cũng như nhiều chủ đề khác, Ngài có nguy cơ đối đầu với những kháng cự mạnh mẽ. Nhưng điều đó sẽ không cản bước Ngài theo đuổi hành trình đấu tranh của mình, Le Monde kết luận.

Thứ Hai, 28 tháng 9, 2015

Tương Lai - Biện chứng hay nguỵ biện?


Thật ra, biện chứng cũng không “biện chứng” như người ta tưởng. Càng sính biện chứng khi không hiểu về nó lại càng dễ nguỵ biện. Cứ tưởng là biết nhưng lại không biết được rằng người đời thường biết nhiều hơn những cái họ hiểu. Và khi hiểu ra thì mới thấy là dốt ơi là dốt.

Cho nên với bài viết này, vì tự biết là mình dốt nên không dám mon men vào lĩnh vực lý luận để dông dài về nguồn gốc tiếng Hy Lạp cổ của từ biện chứng, rồi dần hình thành cái mà sau này gọi là phương pháp luận, khởi đầu từ những cuộc đối thoại kiểu Socrates của Plato. Càng không dám so sánh phương pháp nguỵ biện với các nhà ngụy biện Hy Lạp cổ (Sophist) dạy cho các môn đệ sự dối trá, quanh co và những mẹo vặt trong hùng biện để giành phần thắng với mục đích rất thực dụng chứ không nhằm khai minh như Socrates hay Plato. Lại càng không liều mạng lạm bàn về phép biện chứng duy tâm từ Kant đến Hégel, rồi phép biện chứng duy vật với K. Marx và Engels. Là nói liều mạng na ná như “chúng tôi không cho rằng định hướng xã hội chủ nghĩa mâu thuẫn với kinh tế thị trường. Trái lại, đó là sự kết hợp biện chứng, cần thiết, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”.*

Lê Phan - Hoa Kỳ không hiểu nổi ông Tập


(viết theo The New York Times)

Khi ông Tập Cận Bình trở thành lãnh tụ Trung Cộng vào cuối năm 2012, nhiều người ở Washington đã thở phào nhẹ nhõm. Sau cả thập niên của người tiền nhiệm của ông, ông Hồ Cẩm Đào, các viên chức Hoa Kỳ chào đón một vị chủ tịch nước có vẻ tự tin hơn.

Nhưng tuần này, khi ông Tập đến Washington trong một cuộc công du chính thức từ hôm thứ năm, tình hình giữa hai chính phủ hết sức căng thẳng, và chính phủ Obama không biết nghĩ sao về chủ tịch nước của Trung Cộng. Ít ai dám nghi ngờ về sự chế ngự nhanh chóng mà ông đã đạt được đối với hệ thống hành chánh song hành, nhưng thay vì có được một nhà canh tân về kinh tế như mọi người chờ đợi, ông Tập bị coi như là giáo điều hơn, khó hiểu hơn và có tiềm năng nghi ngờ các công ty ngoại quốc.

Minh Anh/RFI - Tập Cận Bình : Thế giới này là đế chế của ông ta

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (P) và Tổng thống Mỹ Barack Obama, trong buổi họp báo chung ngày 25/09/2015.REUTERS/Gary Cameron
Đã qua rồi giai đoạn ẩn mình chờ thời như những người tiền nhiệm. Đang công du chính thức tại Hoa Kỳ, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình liên tục đưa ra những sáng kiến ngoại giao trên mọi lãnh vực. Việc vươn lên thành cường quốc nhằm bảo về các lợi ích của Bắc Kinh trên toàn cầu cũng gây ra không ít căng thẳng. Trên đây là những nhận xét chung của tuần san L'Express (số ra từ 23-29/09/2015) về đường lối ngoại giao hiện nay của Trung Quốc. Bài phân tích đề tựa « Tập Cận Bình : Thế giới này là vương quốc của ông ta ».

Luật sư Vũ Đức Khanh - Về khả năng xung đột Việt-Trung

Gửi cho BBC từ Ottawa, Canada



Hai nguyên thủ đã có họp báo chung sau khi gặp

Hôm 25/9, trong cuộc họp báo chung tại Vườn Hồng của Tòa Bạch Ốc, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã khẳng định trước Tổng thống Mỹ Barack Obama và báo giới rằng, “Các quần đảo ở Nam Hải (“Biển Nam Trung Hoa” theo cách gọi của Phương Tây hoặc “Biển Đông” của Việt Nam) từ thời cổ đại là lãnh thổ của Trung Hoa”.

Đây là thông điệp mạnh mẽ nhất từ trước đến nay của người đứng đầu Nhà nước Trung Quốc để khẳng định chủ quyền ở vùng đang có tranh chấp với các nước láng giềng trong đó có Việt Nam.

Nguyễn Hữu Vinh - Chủ nghĩa lý lịch và hậu quả quái đản

viết từ Hà Tĩnh

Một kỳ thi tuyển sinh đại học quốc gia tại trường Đại học Bách Khoa học và Công nghệ Hà Nội ngày 01 tháng 7 năm 2015. AFP photo 
Nhìn lại những vấn đề qua kỳ tuyển sinh vừa qua của Bộ Giáo dục, người ta thấy nổi lên quá nhiều điều bất cập.

Sau những vụ cả thí sinh và phụ huynh nháo nhác chạy rút ra đút vào hồ sơ của mình để kiếm tìm khả năng vào trường đại học gây bức xúc dư luận nhân dân, thì lại nổi lên việc nhiều học sinh vào trường Công an không được tuyển, chỉ vì "lý lịch gia đình".

Những vấn đề đó phản ánh một tình trạng đặc thù của Việt Nam thời Cộng sản. Thời mà đến mấy thế hệ được giáo dục bởi "Nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam" (Hồ Chí Minh - Thư gửi Học sinh nhân ngày khai trường 1945).

Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015

Anh Vũ - NGƯỜI CON GÁI HUẾ


Bài thơ này ra đời mùa hè cuối năm học 1955-56, lúc tác giả rời trường Quốc Học, mang theo nhiều hình ảnh đẹp của tuổi đôi mươi. Năm 1958, thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã chọn bài thơ để khai mạc mục “Thơ và Thi Nhân” trên báo Tự Do do ông Phạm Việt Tuyền chủ trương, và Chu Tử sau đó có in lại trong một số báo “Sống” đặc biệt về Huế. Với thời gian, và qua các biến cố lịch sử, Huế và người Huế đã đổi thay, và chắc không còn cứ mãi “xuôi bên cạnh cuộc đời” nữa, nhưng chắc nét kín đáo “phong trong một dãy thành” và giấc mơ êm đềm của Ngự Bình “gối đầu trên bến lặng” thì vẫn còn; và đó mới chính là cái đẹp của “Người Con Gái Huế”.

Năm xưa có một người…xưa lắm
Sách vở chưa tròn mộng thủy chung,
Bóng lẻ kinh thành men lối học,
Trăng mùa cổ độ sáng mông lung.

Ngự Thuyết - Thu Về Chuyện Trò Với Thơ


Bài viết này muốn nói về vài vấn đề trong Thơ, nhưng xin được mở đầu bằng một mẩu chuyện nhỏ trong văn xuôi có liên quan.
Tác phẩm Vang Bóng Một Thời (Tân Dân – Hà Nội, 1940) của Nguyễn Tuân ra đời cách đây trên 70 năm, cho đến nay vẫn được nhiều nhà phê bình văn học đánh giá cao. Vũ Ngọc Phan, đồng thời với Nguyễn Tuân, trong Nhà Văn Hiện Đại (Tân Dân – Hà Nội, 1942) nhận xét về tập truyện Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân như sau: “Tác phẩm đầu tay của ông là một văn phẩm gần tới sự toàn thiện toàn mỹ. Quả thế, những truyện ngắn, bút ký trong Vang Bóng Một Thời đều có giá tri, và, cũng theo Vũ Ngọc Phan, “Tập bút ký này của Nguyễn Tuân thật là một tập rất qúy. Cái quý giá ấy sẽ còn tăng lên nữa với thời gian, như một thứ đồ cổ vậy.”

Đỗ Hồng Ngọc - THỞ và THIỀN



Tôi đến với Thiền rất trễ. Trước đó, những năm hai mươi tuổi tôi cũng có đọc  thiền, biết thiền qua sách vở, qua Krishnamurti, Suzuki, thầy Minh Châu, thầy Nhất Hạnh… nhưng đọc để biết, để có kiến thức thế thôi. Tôi cảm thấy thiền là cái gì đó huyền bí xa vời, có phần như mê tín dị đoan nên chỉ “kính nhi viễn chi”. Tôi là một bác sĩ, hơn 12 năm làm ở Cấp cứu Bệnh viện Nhi đồng Saigon, rồi hơn 20 năm phụ trách Trung tâm truyền thông và Giáo dục sức khỏe, thực hiện các chương trình Chăm sóc sức khỏe ban đầu (Primary Health Care), tham gia giảng dạy ở đại học Y, viết sách báo v.v… làm việc như điên, cho đến một hôm người ta phải đưa tôi đi bệnh viện để mổ sọ não cấp cứu vì tai biến mạch máu não. Từ lúc lơ mơ đến lúc tỉnh dậy ở phòng hồi sức… hình như tôi đã trải qua một cuộc… phiêu lưu kỳ thú! Khi bước đi được trên nền đất những bước đầu tiên lẩm đẩm như một em bé, tôi thấy quả là một phép lạ. Tôi nhìn tôi trong gương với cái đầu trọc lóc mà thấy tức cười. Bạn bè trong ngành ai cũng thương cho thật nhiều thuốc. Tôi chọn dùng một thứ duy nhất bởi biết bệnh mình không thể chữa bằng thuốc mà phải thay đổi cách sống, cách nghĩ, cách làm. Phải tìm một con đường khác thôi. Rồi tình cờ tôi đọc lại Tâm Kinh “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẫn giai không, độ nhất thiết khổ ách…”. Những câu kinh xưa mịt mờ bây giờ bỗng sáng rõ lạ lùng với tôi. Phải rồi. Phải tự tại thôi. Phải dựa vào chính mình thôi. Tôi vừa tìm hiểu kinh thư vừa lục toang đống sách y khoa đã học từ mấy chục năm trước để tìm kiếm con đường mới mẻ này. Thì ra đã sẵn có một con đường mà bấy lâu tôi mãi xa lạ. “Đây là con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết Bàn…” (Satipatthana, Tứ Niệm Xứ).  Con đường độc nhất ư? Có thể dẫn tới thanh tịnh ư? Còn mong gì hơn khi ta đang sống trong một thời đại đầy “điên đảo mộng tưởng”.  Có thể diệt trừ khổ ưu ư? Còn mong gì hơn khi ta đang sống một nếp sống đầy khổ đau và phiền muộn. Rồi còn thành tựu chánh trí nữa ư?... Thì ra cái “trí” của ta bấy lâu chỉ là cái trí tích cóp, cái “thức” của ta bấy lâu chỉ là cái thức phân biệt, thị phi… 

Nguyễn Duy Chính - SỰ ÐÓNG GÓP CỦA GIÁM MỤC PIGNEAU DE BÉHAINE VÀO CÔNG CUỘC CẢI CÁCH Ở GIA ÐỊNH (Tiếp theo và hết)

3. Thiết kế đô thị
Việc quan tâm đầu tiên của chúa Nguyễn có sự đóng góp của người ngoại quốc là xây dựng một kinh đô. Kinh đô đó vừa là nơi thị tứ tập trung được một số lượng quần chúng đông đảo để bảo đảm cho việc bổ sung theo nhu cầu mà còn phải thuận tiện cho thuyền bè nước ngoài vào buôn bán. Riêng trường hợp của chúa Nguyễn, xây dựng kinh đô cũng là củng cố căn cứ phòng thủ chống lại những trận “giặc mùa” của Tây Sơn nên hai mục tiêu kinh tế và quân sự đều phải quan tâm.
Việc trở về của Pigneau de Béhaine khiến ông thất vọng khi không có tất cả những gì ông mong đợi nhưng cũng đem lại một số niềm vui. Hiệp ước Versailles không thi hành nên sau này ông không vướng vào món nợ với nước Pháp và những người sang giúp ông lại có khả năng thiết kế một mô hình đô thị phòng thủ (city-fortress). Một số bản đồ về thành phố Saigon còn tồn tại đến ngày nay có thể giúp chúng ta đưa ra một số phỏng đoán về khả năng của họ.

Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2015

Trần mộng Tú - Thời Tỵ Nạn Tuổi Lưu Vong


Con cá đá Xiêm mua từ tháng hai, chết một tuần nay rồi. Như vậy là từ khi về nhà tôi, nó sống được 7 tháng và nó đã được giữ vai chính trong truyện 
“Mùa Phấn Hoa Anh Túc” của tôi.

Người bán cá bảo nó có thể sống lâu hơn nữa cơ. Nhưng một tuần đi xa nhà, trước khi đi tôi quên thay nước, khi về thấy nó bơi uể oải trong bình nước đục tôi biết ngay là nó bị bệnh trong nước bẩn rồi. Tôi vội thay nước và nhớ thay thường xuyên. Nó sống, nhưng cái giải đuôi như lụa của nó không uốn lượn phất phơ nữa. Nó bơi lừ đừ, cái đuôi thỉnh thoảng mới đưa nhè nhẹ, như một ông lão đi chậm chạp, cầm cái quạt giấy, thỉnh thoảng mới phất phơ. Tôi biết là nó sắp sửa phải vào Hospice rồi. Cuối cùng, một buổi sáng nó nằm im dưới đáy bình, trên mấy cái lá rong xanh như một người bình thản đặt đầu trên gối lụa.

Nguyễn Hưng Quốc - Mất cảnh giác


Một người bạn của tôi, từ Hà Nội sang, kể tôi nghe chuyện này: Cách đây mấy năm, Bộ Công an Việt Nam xây dựng trụ sở mới ở đường Phạm Hùng, Cầu Giấy, Hà Nội. Trụ sở rất đồ sộ và lộng lẫy do một nhà thầu Trung Quốc thiết kế và xây dựng. Đến lúc xây xong, người ta mới sực nhớ một chuyện: Có thể Trung Quốc cho gắn các thiết bị do thám trong toà nhà để ghi âm tất cả các cuộc đối thoại trong đó. Thế là người ta sợ. Nhưng không có cách gì lật tung cả toà nhà ra để tìm các thiết bị do thám ấy. Mà tìm chưa chắc đã thấy. Cuối cùng, người ta chọn giải pháp: cho các nhân viên cấp trung và cấp thấp vào làm việc trong trụ sở mới, còn giàn lãnh đạo cao cấp thì vẫn ở lại trụ sở cũ.

Ngô Nhân Dụng - Đừng nghe những gì Tập Cận Bình nói


Đọc câu tự đề trên đây, quý vị biết ngay còn một vế thứ hai: Mà hãy nhìn kỹ những gì Tập Cận Bình làm.

Trước khi sang thăm Mỹ chuyến này, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã viết bài trả lời nhật báo Wall Street Journal, trong đó có một đoạn giải thích tại sao Trung Cộng xây phi trường trên các hòn đảo nhân tạo vùng Trường Sa, mà người Tàu gọi là Nam Sa. Ngay câu đầu tiên Tập Cận Bình viết trả lời bài phỏng vấn đã nói một điều gian dối trắng trợn: “Từ thời xưa Nam Sa đã thuộc địa phận Trung Quốc; theo các bằng chứng lịch sử và luật pháp.”

Nguyễn Duy Chính - SỰ ÐÓNG GÓP CỦA GIÁM MỤC PIGNEAU DE BÉHAINE VÀO CÔNG CUỘC CẢI CÁCH Ở GIA ÐỊNH


LỜI MỞ ÐẦU
Trong chiều hướng đưa ra một lời giải thích cho thời k tranh hùng cuối thế kỷ XVIII giữa hai thế lực Tây Sơn và chúa Nguyễn, nhiu sử gia cận đại đã đồng hóa những giáo sĩ với các thế lực ngầm khuynh loát trong các âm mưu chính trị. Quan điểm này còn nhiu điểm cần đánh giá lại. Tuy không thể phủ nhận những thừa sai có ý định khai thác ảnh hưởng với chính quyn để truyn đạo nhưng ngược lại nhà cầm quyn cũng lắm phen sử dụng họ vào những mục tiêu quân sự.



Mọi việc không đơn giản khi chúng ta lại tìm ra những chứng cớ chúa Nguyễn và đồng minh thân cận nhất của ông là giám mục Pigneau de Béhaine [1741-1799] – thường được biết dưới tên Hán dịch là Bá Ða Lộc - đã bôn ba cầu viện không phải một thế lực mà gõ cửa rất nhiều nơi, lân bang cũng có, các nước Tây phương như Anh, Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Hoà Lan, Pháp ... cũng có. Vai trò độc đáo của chúa Nguyễn khiến cho nhiều thế lực công khai đầu tư vào ông như một hình thức buôn vua đủ biết chính chúa Nguyễn cũng có những hình thức tự vận động rất đáng kể. Tuy ông được người Xiêm giúp đỡ trong một số trường hợp nhưng không phải không có lúc lâm nguy một khi chính ông lại trở thành một mầm hoạ đáng quan ngại cho chính họ.
Cuối thế kỷ XIX, khi người Pháp dùng võ lực chiếm Việt Nam họ đã nỗ lực đề cao vai trò của Bá Ða Lộc và các giáo dân trong khuynh hướng làm nổi bật sự đóng góp vào công cuộc trung hưng của nhà Nguyễn – biến ông thành một “điệp viên chính trị” đi tìm cơ hội bành trướng thuộc địa nên đã trở thành mục tiêu tấn công của một số người có tinh thần cực đoan chính trị hay tôn giáo.
Sau khi hoàn thành việc thống trị toàn cõi Ðông Dương, một pho tượng cao gần 3 thước tạc giám mục Pigneau de Béhaine, một tay dắt hoàng tử Cảnh, một tay đưa ra bản hiệp ước Versailles 1787 được nhà cầm quyền Pháp dựng lên ngay trước nhà thờ Sài gòn trong một đại lễ năm 1901.[1]  (1)
Khi tường thuật về vai trò của Pigneau de Béhaine, các tác giả Tây phương thường nhấn mạnh vào việc ông xả thân cứu chúa Nguyễn khi còn đang bôn đào nhất là được tin cậy để cầm quốc ấn và đưa hoàng tử Cảnh qua Pháp cầu viện rồi trở về Gia Ðịnh với một số chiến thuyền, thủy thủ, súng ống. Người ta cũng nhắc đến vai trò của ông trong những chiến dịch đánh với Tây Sơn trước khi ông qua đời nhưng lại đề cập rất giản lược vai trò trung gian trong du nhập kỹ thuật và văn hóa vào nước ta, coi như một chuyện bình thường. Chính vì thế vị thừa sai chỉ được coi như một kẻ chủ mưu đáng lên án và những người ngoại quốc đến giúp chúa Nguyễn cũng chỉ coi như một số lính đánh thuê vì mục tiêu danh lợi chứ không phải là những cố vấn đóng góp vào việc xây dựng một quốc gia theo kiểu mẫu Tây phương.
CON NGƯỜI BÁ ÐA LỘC
Cho đến nay, khi viết về giám mục Pigneau de Béhaine [1741-1799], tức Evêque d’Adran, hay Bá Ða Lộc, mỗi sử gia có một nhận định, đôi khi hoàn toàn trái ngược. Một số nhà biên khảo kết án giám mục Pigneau có đầu óc thực dân đã mở đường cho cuộc xâm lăng của Pháp nhưng một số khác lại cho rằng ông thuần tuý là một nhà tu, những việc ông giúp chúa Nguyễn ngoài tình bạn cũng chỉ nhằm mục tiêu được dễ dàng hơn trong việc truyền giáo sau này.
Tiểu sử của ông chép trong Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện quyển XXVIII là quyển chép về những người nước ngoài theo giúp chúa Nguyễn như Hà Hỉ Văn, người Trung Hoa [một dư đảng Thiên Ðịa Hội], Nguyễn Văn Tồn, người Cao Miên, Hà Công Thái, người Mường, Bá Ða Lộc, người Pháp và Vĩnh Ma Ly, người Xiêm.[2] (2)
Nói chung, tuy Bá Ða Lộc có công lớn nhưng sử triều Nguyễn chép về ông lại khá sơ sài, có vẻ muốn cho lu mờ để nâng cao vai trò sáng nghiệp của Nguyễn Ánh. Tuy nhiên, nếu đánh giá cho khách quan và dù mục tiêu đích thực của ông là gì chăng nữa, Bá Ða Lộc quả đóng góp rất lớn trong việc phục quốc của chúa Nguyễn.
Khác hẳn với lối nhìn của Á Ðông khi đưa ra mẫu người “quân sư” mưu trí “ngồi trong trướng mà quyết thắng chuyện ngoài ngàn dặm”, giám mục Pigneau hành động giống như những cố vấn Tây phương gần đây, đưa ý kiến đồng thời phân tích lợi hại để chúa Nguyễn chọn lựa giải pháp chứ không ép buộc hay đòi hỏi kế hoạch của mình phải được thực hiện triệt để. Nhiều lý do khiến chúng ta có thể tin rằng những mâu thuẫn hay xung đột với vị giáo sĩ nếu có thường bắt nguồn từ tính đa nghi của Nguyễn Ánh và sự ghen ghét của những cận thần.
Cũng vì thế tuy Bá Đa Lộc qua đời khá đột ngột, sự nghiệp của chúa Nguyễn không bị bế tắc như Lưu Bị mất Khổng Minh. Cái chết của giám mục Pigneau gần như không ảnh hưởng gì đến thế lực của chúa Nguyễn lúc bấy giờ và người thừa sai đã hoàn tất vai trò đầu cầu trung gian, tạo điều kiện để Nguyễn Ánh tiếp thu được văn minh Âu Châu làm nền tảng cho những cải cách. Ðối chiếu với phát triển thực tế, những thay đổi mạnh mẽ về tổ chức và kỹ thuật là những nhân tố cốt yếu giúp chúa Nguyễn thành công.


N
ếu không có Bá Ða Lộc, chúa Nguyễn sẽ không thể đột phá được những bế tắc của khu vực và rất khó tồn tại khi lực lượng của Gia Định so với anh em Tây Sơn quả là kém thế. Thắng lợi của Nguyển Ánh đã khiến cho cả Xiêm lẫn Pháp đu cho rằng vai trò của mình quan trọng hơn nhưng thực tình mà nói, Xiêm La cho ông nương thân khi còn hàn vi nhưng giúp đỡ cũng có giới hạn, một phần vì họ còn nhiu việc phải lo, phần khác cũng không thực tâm muốn Việt Nam sẽ trở thành một nước láng ging nguy hiểm. Ngược lại, giám mục Bá Ða Lộc có quyết tâm giúp chúa Nguyễn vì mục tiêu lâu dài trong công tác truyn giáo ở Á Ðông và có thể ảnh hưởng từ chủ trương của một số người đi trước. Việc ông đưa bán đảo Tourane vào trong nhượng địa mà chúa Nguyễn sẽ phải nhường cho Pháp cho thấy ông đã đồng tình với Poivre [một nhà truyn giáo sau đổi sang ngh con buôn] v khởi đầu một chủ trương can thiệp sâu hơn vào bán đảo Ðông Dương nhưng cũng có thể chỉ là một đổi chác thường tình. Nếu so sánh với những ưu đãi mà Nguyễn Nhạc đ nghị với Chapman[3] (3) khi đòi mua khí giới và nhờ người Anh giúp đỡ thì thái độ của chúa Nguyễn còn dè dặt hơn và cũng không đáng kết án một cách nghiệt ngã.
Một điều chắc chắn, chúa Nguyễn không bị ai dẫn dắt theo đường lối của họ mà chỉ tham khảo rồi có quyết định tối hậu, dẫu rằng khi đúng, khi sai. Ông là kiến trúc sư trong việc xây dựng mô hình quốc gia và cũng là vị tham mưu trưởng trong mọi chiến dịch lớn.

 VIỆC CẢI CÁCH Ở GIA ÐỊNH 

Trong bài này chúng tôi lược bỏ phần giám mục Adran đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp để cầu viện và ký với bá tước de Montmorin [khi đó là ngoại trưởng nước Pháp thời vua Louis XVI] một bản hiệp ước gọi là hiệp ước Versailles (1787). Vì nhiều lý do, hiệp ước này không thi hành được nên giám mục Bá Ða Lộc phải xuất tiền ra chiêu mộ binh sĩ và mua chiến thuyền đem về Gia Ðịnh năm 1789. Những chi tiết cụ thể về chuyến đi này có thể tìm thấy trong những biên khảo về công cuộc khôi phục của vương triều Nguyễn, đặc biệt là tiểu sử của Bá Ða Lộc trong Mgr Pigneau de Behaine, Évêque d’Adran của Alexis Faure (Paris, 1891).


Nguồn ki
ến thức dùng trong cải cách
Theo hai tác giả đến Ðàng Trong trong những thời điểm mà ảnh hưởng và vai trò của giám mục Adran còn hiện hữu, chúng ta biết được một số chi tiết sử triều Nguyễn đã không nhắc đến khiến vai trò của vị thừa sai mờ nhạt hơn nhưng thực ra công lao của ông là những trọng điểm đưa đến sự thành công của vua Gia Long sau này.
Trong A Voyage to Cochin China [John Barrow, 1806], tác giả người Anh ghi lại những điều mắt thấy tai nghe ở Ðàng Trong khi Barrow cùng phái bộ Macartney có dịp ghé ngang nước ta trên đường sang Trung Hoa năm 1792.
Gần 30 năm sau [1819] John White, một thương gia người Mỹ trong một tác phẩm cùng tên [A Voyage to Cochin China, 1824] ghi lại những gì ông ta thấy ở Gia Ðịnh giúp chúng ta kiểm chứng được những gì đã thực sự hiện hữu 30 năm trước.
Theo Barrow, khi tìm hiểu bản dịch bộ Encyclopedie của giám mục Pigneau de Béhaine, Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm về hai phương diện: hàng hải và đóng thuyn (navigation and ship-building).[4] (4)
Chi tiết này quan trọng và cho chúng ta thấy giám mục Adran đã trao lại cho chúa Nguyễn kiến thức khoa học và quân sự Tây phương thông qua một số đề tài thích đáng trong bộ bách khoa vì đó là nguồn tài liệu tương đối cập nhật và chính xác, đại diện cho văn minh Âu châu thời đó. Một số thành quả khác do những người đi cùng với Pigneau de Béhaine đến Ðàng Trong còn được ghi lại trên giấy trắng mực đen, chẳng hạn như Victor Olivier là tổng công trình sư (chief engineer) xây thành Gia Ðịnh và Le Brun được coi như đại kế hoạch gia (principal architect-planner) của Saigon khi đó. Ðây là mô hình thiết kế đô thị (urban planning) theo khuôn mẫu Tây phương sớm sủa nhất ở khu vực Ðông Nam Á thời bấy giờ.
Một vai trò quan trọng khác cũng ít được nhắc đến là việc Pigneau de Béhaine đã thực hiện công tác phiên dịch các tài liệu kỹ thuật Tây phương sang chữ Hán [và có thể cả tiếng Nôm hay quốc ngữ] để chúa Nguyễn và ban tham mưu có ý niệm và hiểu biết về văn minh cơ khí trong một giai đoạn còn manh nha, đi trước tất cả mọi nơi khác trong khu vực. Công lao của ông riêng trong lãnh vực phiên dịch cũng đã là một đóng góp to lớn cho việc khai sinh ra vương quốc Ðồng Nai.

Giám mục Pigneau vốn là một chuyên gia ngôn ngữ, đã đóng góp chính yếu trong việc hoàn thành bộ từ điển Annamite-Latin [Dictionarium Anamitico-Latinum] vào khoảng 1772-3, được giám mục Jean-Louis Taberd bổ túc và ấn hành năm 1835. Ông cũng thông thạo tiếng Việt và am hiểu chữ Hán, chữ Nôm nên có lẽ ông đã dùng thì giờ khi đi trên tàu từ Pháp về Gia Ðịnh để tìm hiểu, chọn lựa và phiên dịch những gì ông thấy rằng cần thiết cho chúa Nguyễn.
Cũng nên thêm rằng, bộ bách khoa đại từ điển không phải chỉ thuần túy là chữ mà có rất nhiều hình vẽ được in theo lối đồng bản họa (copper plate printing) nên chúa Nguyễn cũng có thể tìm hiểu nguyên bản, xem hình ảnh. Không thấy tài liệu nào nói Nguyễn Ánh có biết chữ viết theo mẫu tự Latin hay không nhưng Rei, một thương gia người Pháp có đề cập đến thái tử Ðảm biết viết chữ quốc ngữ.[5] (5) Trong những lá thư của các thừa sai gửi về giáo hội hay liên lạc với nhau, thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy kèm theo một số từ ngữ Việt viết theo lối mẫu tự Latin.
Do đó, muốn tìm hiểu xem chúa Nguyễn đã học hỏi được gì về kỹ thuật của Tây phương – một phần chìm mà sử sách không đề cập đến nhiều – chúng ta phải đi sâu vào nguồn kiến thức, nếu không có nguyên bản bộ sách mà giám mục Adran đã dùng thì ít ra cũng phải qua sách vở cùng thời kỳ để dựng lại một quá trình học hỏi và ứng dụng trong việc canh tân tổ chức hành chánh và quân sự.
Chúng ta cũng có thể xem những miêu tả, qua bản đồ, hình ảnh của những người có mặt ở Ðàng Trong thời kỳ đó để ít nhiều biết được ảnh hưởng Tây phương như thế nào, hay những gì mà sinh hoạt truyền thống chưa hiện hữu. Trước đây khi đề cập đến thắng lợi của chúa Nguyễn, các sử gia thường chỉ nhấn mạnh vào sự tiếp sức của người Pháp qua viện trợ súng đạn và số tướng sĩ đi theo giám mục Adran sang giúp mà thường không nhắc đến những định chế tổ chức và mô hình hành chánh là nền tảng giúp cho cải cách có cơ hội phát triển.
Về bộ Encyclopedie mà giám mục Pigneau de Béhaine có thể tìm được trong khoảng tháng 2 đến 12-1787 là thời gian ông và hoàng tử Cảnh ở Pháp thì chỉ có bộ Encyclopédie của Denis Diderot, ấn hành trong khoảng từ 1751-1766 mà bộ này cũng chỉ dịch lại từ bộ Cyclopaedia của Anh ấn hành năm 1728. Tuy nhiên bộ Encyclopédie của Diderot khó có thể kiếm được tại Paris sau 21 năm xuất bản, nhất là bộ này có nhiều chi tiết bị coi là trái với đường lối của giáo hội (heretical).
Bộ đại từ điển dễ kiếm hơn trong thời gian đó có lẽ là bộ Encyclopedia Britannica ấn bản đầu tiên in từ năm 1768 đến 1771 [gồm 3 quyển, 2391 trang, với 160 trang đồng bản hoạ] hay lần thứ hai năm 1784 được cải biên có thêm phần lịch sử, địa lý và tiểu sử các danh nhân thế giới [tổng cộng 10 quyển, 8,595 trang và 340 trang hình vẽ].[6] (6) Do đó, muốn tìm hiểu những kiến thức và kỹ thuật mà giám mục Bá Ða Lộc mang từ Tây phương truyền đạt cho chúa Nguyễn, chúng ta không thể không tìm hiểu về những sở đắc cụ thể hiện hữu trong bộ sách này.
TỔNG QUÁT
Từ những kiến thức mang tính thời đại, chúng ta có thể dựng lại những mô hình gần nhất với kiến thức khoa học quân sự từ bốn mục quan trọng là kỹ thuật xây thành (fortification), kỹ thuật hàng hải (navigation), kỹ thuật chế tạo súng (gunnery) và kỹ thuật đóng tàu (ship building) để đối chiếu với những gì được thực hiện ở Ðàng Trong trong khoảng từ 1789 đến 1799 là thời gian Bá Ða Lộc cộng tác mật thiết với Nguyễn Ánh. Ngoài ra chúng ta cũng không thể quên được những dự án về xây dựng đô thị (urban planning) rất mới mẻ so sánh với những thành phố khác trên bán đảo Ðông Dương. Thành phố Saigon vào cuối thế kỷ XVIII là một mô hình Tây phương, ngoài thành trì là căn cứ quân sự còn có những đường sá thẳng và rộng được trắc địa theo ô vuông, có những khu vực trại lính, kho gạo, xưởng đóng tàu, lò đúc súng và cả một nghĩa địa riêng biệt thay vì bạ đâu chôn đó như tập quán của người Á Ðông.
Chúng ta cũng không thể bỏ qua mô hình hành chánh vì đó là nền tảng cơ sở để có thể ứng dụng những kỹ thuật mới. Tuy chỉ trong một thời gian rất ngắn, trên dải đất Việt Nam thời đó đã xuất hiện một tiểu quốc mà người ngoài thường gọi là nước Ðồng Nai, người Thanh gọi là đất Nông Nại còn sử nước ta quen gọi là Gia Ðịnh, những cái tên còn tồn tại đến tận bây giờ. Theo những chi tiết mà chúng ta có được, về phương diện hành chánh vương quốc này có thể coi là thoái thân của vương triều Nguyễn, được tổ chức theo một khuôn mẫu tổng hợp nhiều mô hình nhưng đã được cải biên cho phù hợp với nhu cầu. Trên nhiều lãnh vực, chúa Nguyễn Ánh đã áp dụng nhiều canh tân và học hỏi từ Xiêm La và các nước Ðông Nam Á nhưng cũng mạnh dạn cải cách theo đường lối Tây phương, chủ yếu là các lãnh vực quân sự, thương mại, kỹ thuật.
Giữa Bá Ða Lộc và Nguyễn Ánh, chúng ta thấy hai người tuy vẫn hết lòng với nhau nhưng mặt khác cũng tìm cách khai thác cho mục tiêu riêng của mình. Chúa Nguyễn muốn Bá Ða Lộc làm đầu cầu trung gian để thủ đắc kỹ thuật và sự giúp đỡ của Tây phương, trong khi vị giám mục cũng mong việc làm của mình sẽ đem tới những ưu đãi để truyền đạo một khi chúa Nguyễn thành công.
Không nói tới những âm mưu hay tham vọng dựa trên suy luận cảm tính, trong biên khảo này chúng tôi cố gắng đào sâu vào một số chi tiết cụ thể, những kỹ thuật mới du nhập vào nước ta trong đó bao gồm các kỹ thuật quân sự và một số định chế được giám mục Pigneau de Béhaine giới thiệu vào một tiểu quốc mới thành lập: Ðồng Nai hay đất Gia Ðịnh. Việc du nhập đó được áp dụng một phần lớn vì đã giúp cho chúa Nguyễn gia tăng khả năng chống lại Tây Sơn nhưng đồng thời cũng là một mô hình thí nghiệm theo kiểu Tây phương đầu tiên trong vùng Ðông Nam Á. Miền nam nước ta đã hình thành một quốc gia với đầy đủ cơ chế, dung hợp thực lực bản địa với ba nguồn “chân khí ngoại chủng”, từ Trung Hoa của những người di dân gốc nhà Minh, từ Xiêm La mà chúa Nguyễn đã lưu ngụ rút tỉa kinh nghiệm chiến đấu, từ Tây phương do những thừa sai và những người Âu Châu sang giúp.
Những vấn đề chính trị xen kẽ với quân sự và một tập thể đa dạng đặt ra những câu hỏi về quản trị. Cũng vì trưởng thành trong gian nan và luôn luôn bị đe doạ bởi chung quanh, chúng ta phần nào có thể hiểu được thái độ quyết liệt, lắm khi tàn nhẫn của chúa Nguyễn khi đã lên nắm quyền. Trên thực tế Nguyễn Ánh vẫn khôn khéo quân bình mọi lực lượng phò tá ông nên tuy những người Pháp có nổi bật trong những ngày đầu về sau lại lui vào bóng tối khi người Việt đã thủ đắc những ưu điểm về quân sự và kỹ thuật của họ. Ngoài Bá Ða Lộc hầu như không một người ngoại quốc nào được coi trọng hơn một tướng lãnh bậc trung.
Trong một thời gian tương đối ngắn 1788 – 1792, chúa Nguyễn đã hoàn thành được những cơ cấu căn bản để chuẩn bị tấn công. Trong những năm sau đó, ông đã đẩy đối phương vào thế thủ và chưa đầy 10 năm thì ông đã lấy lại được vương quốc của Nguyễn Nhạc và chiếm luôn cả lãnh thổ miền bắc trong tay Nguyễn Quang Toản.
Việc cải cách ở Gia Ðịnh không phải chỉ nhằm mục tiêu khai khẩn một vùng đất hoang hay tổ chức một vương quốc độc lập mà mục tiêu tối hậu là khôi phục lại vùng lãnh thổ ở phương nam nói theo từ ngữ ngày nay là xây dựng một hậu phương để hoàn thành công việc bắc tiến. Tuy nhiên, đó chỉ là một suy luận sau khi ông đã thành công còn ngay trong thời điểm đó, tuy Nguyễn Ánh vẫn nhắm tới vùng đất của cha ông từ sông Gianh đổ vào nhưng làm sao bảo đảm được khu vực Ðồng Nai không bị anh em Tây Sơn xua quân vào chiếm lại như thời kỳ trước mới thực sự quan trọng.
Kinh nghiệm cũ cho thấy một khi bị địch quân đuổi đánh phải bôn đào, mọi công trình chúa Nguyễn đã và đang xây dựng đều trở thành tay trắng, tan biến như những viên cát tròn của con dã tràng trên bờ biển khi bị sóng đánh qua. Do đó, trước khi tập trung được sức mạnh để tiến ra bắc, nỗ lực củng cố, xây dựng và phòng thủ là ưu tiên hàng đầu lúc bấy giờ.
Cuối thế kỷ XVIII, cuộc nội chiến tại Việt Nam cũng đưa đến những phát triển căn bản khiến chiến lược, chiến thuật phải thay đổi theo. Những tiến bộ kỹ thuật về vũ khí và qui mô của đội hình, vận chuyển để sử dụng những đội quân đông đảo nên việc phòng thủ theo kiểu cũ không còn hiệu quả. Súng đại bác và thần công đã tương đối thông dụng nên hai bên không còn phải cận chiến mà có thể bắn từ xa. Thành trì vì vậy được tổ chức sao cho linh hoạt hơn, có thể tự túc được một thời gian dài mà không bị kiệt quệ về lương thực, nước uống hay đạn dược.
Những cuộc công thành vì thế thường lâu hơn, kéo dài hàng tháng, có khi hàng năm nên chiến thuật “thần tốc”, đánh mau đánh mạnh, lấy số đông để áp đảo không còn hiệu quả. Thành Qui một mặt dựa vào sông Sài Gòn, ba mặt còn lại có nhiều đầm lầy là những chướng ngại thiên nhiên.
Nỗi ám ảnh lớn nhất của chúa Nguyễn khi mới lấy lại được Gia Ðịnh là e ngại một cuộc tấn công qui mô của Tây Sơn, chiếm lại những gì ông vừa có được. Chính vì thế, trong giai đoạn đầu ông trông chờ ở viện binh do giám mục Bá Ða Lộc đang đi vận động. Ông đã thiết lập những hệ thống thông tin từ biển vào đất liền để có được những tin tức sớm sủa nhất.
Khi Bá Ða Lộc trở về, tuy không mang được những gì ông mong đợi nhưng lại có được những cơ bản cần thiết đúng lúc mà ông yêu cầu. Không phải vũ khí hay nhân sự, tiền bạc, giám mục xứ Adran đã trao lại cho ông kỹ thuật của Tây phương, ngay cả những gì thuộc loại bí mật, không như người Á Ðông thường thường dấu kín cho riêng mình.
Việc đầu tiên mà chúa Nguyễn nhờ đến người Tây phương giúp sức là xây dựng một thành phố nhưng phòng thủ được (fortified citadel). Cứ theo những tường thuật của người nước ngoài, từ nam chí bắc cho tới lúc đó người Việt chưa xây được một thành theo nghĩa đó, nếu không có chướng ngại thiên nhiên như sông núi, đầm lầy thì chỉ biết đắp lũy, đào hào và dựng những chướng ngại chung quanh nơi đóng quân. Lũy Ðồng Hới hay Lũy Thầy do Ðào Duy Từ thiết trí được coi là một công trình lớn nhưng thực tế chỉ là một bức tường có đặt súng theo mẫu Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa ở một qui mô nhỏ.
Trong khi đó, Tây phương thời trung cổ đã có những tiến bộ đáng kể về việc xây dựng những thành trì (citadel) và lâu đài (castle) và đạt tới một hệ thống công sự (fortification) chu đáo. Muốn đạt tới tiêu chuẩn này, một thành phố phải có thể tự bảo vệ được và nhất là mọi cơ cấu trong đó đều thông được với nhau khiến cho chỉ cần một nhóm nhỏ có thể ngăn chặn được một lượng địch quân lớn và theo thời gian, quân địch sẽ hao binh tổn tướng để chờ dịp phản công.
Trong bộ Encyclopaedia Britannica in lần thứ nhất (1771) phần công sự đã được miêu tả kỹ lưỡng trong 8 trang chữ nhỏ và ba trang hình ảnh, khá đầy đủ chi tiết bình đồ, thiết đồ đủ thiết kế một tòa thành với những ưu điểm vượt trội.
  1. Hành chánh, tổ chức
Về phương diện tổ chức quốc gia, thời kỳ đầu chúa Nguyễn mới lấy lại Gia Ðịnh chúng ta thấy có những kế hoạch xây dựng một kinh đô cho tiểu vương quốc, tái phân chia lại địa giới các khu vực để hình thành một bộ máy chính quyền tương đối hữu hiệu nếu không hơn thì cũng không kém các nước láng giềng.
Việc xây thành Qui có thể do Nguyễn Ánh nung nấu đã lâu, kết hợp cả những điều mới học hỏi lẫn kinh nghiệm đã qua. Muốn biết ông học hỏi được gì, chúng ta không thể không xét đến quá trình lưu vong tại Xiêm La trong khoảng thời gian 1784 đến 1787 và những gì ông chứng kiến quân Xiêm đối phó với những cuộc tấn công khốc liệt của quân Miến từ phương bắc kéo xuống. Có thể nói, chính cuộc chiến tranh Xiêm – Miến đã là một mô hình tốt để ông suy ngẫm về phương thức đối phó với Tây Sơn mà ông sử dụng sau này.
Hoàn cảnh của Xiêm La có thể nói rất gần với hoàn cảnh của Việt Nam thời đó, chỉ khác nhau là những việc xảy ra ở Xiêm đi trước Việt Nam khoảng vài mươi năm. Vào giữa thế kỷ XVIII, người Miến thường xuyên đem quân xuống cướp phá kinh đô Ayutthaya ở lưu vực sông Chao Phya. Năm 1767, quân Miến phá kinh đô Ayutthaya thành bình địa, giết và bắt làm nô lệ gần như toàn bộ dân chúng khi đó khoảng một triệu người. Quốc vương bị giết và chỉ khoảng 10,000 người thoát chết.[7] (7)
Một trong những tướng lãnh tên là Taksin trốn thoát, chiêu tập binh mã chỉ một năm sau đánh đuổi quân Miến và dựng lại một kinh đô mới ở phía nam là Thonburi, bên kia sông của một làng chài có tên Bangkok.[8] (8) Cũng thời gian đó, gần như toàn bộ lực lượng Miến Ðiện bị cầm chân trong chiến tranh với Trung Hoa năm 1768 khiến cho việc chiếm đóng Ayutthaya lỏng lẻo và Taksin có thể tiến đánh từng doanh trại của người Miến không mấy khó khăn.[9] (9) Cục diện hoàn toàn thay đổi khi quân Xiêm do tướng Suki chỉ huy tại Posamton thắng được một trận quyết liệt đưa đến thắng lợi hoàn toàn. Năm 1782, Taksin bị hạ bệ và xử tử, tướng Chakkri lên ngôi vua [sử gọi là Rama I] rồi dời đô sang Bangkok.
Việc thiên đô này có mục tiêu chiến lược của nó. Vua Rama I cho rằng việc thành lập kinh đô ở phía đông của bán đảo có lợi thế về phòng thủ vì hơn một nửa chu vi bao quanh là sông. Ngoài ra, việc chọn một kinh đô mới cũng là dấu hiệu của việc khởi đầu một triều đại theo tin tưởng của người dân Nam Á.[10] (10) Vua Rama I cũng đổi tên Bangkok thành Krungthep [City of Deities] nhưng người ngoại quốc vẫn quen gọi theo tên cũ.
Thời gian chúa Nguyễn sống lưu vong giúp ông học hỏi kinh nghiệm thực tế của nước Xiêm và tham gia một số trận đánh với quân Miến Ðiện. Thành Gia Ðịnh có khá nhiều tương đồng với kinh đô Krungthep, cũng nằm cạnh bờ sông cách biển không xa lắm. Tuy nhiên, ngoài vị trí địa lợi, chúa Nguyễn còn đi thêm một bực là xây thành không phải chỉ là một hoàng cung như mẫu của Xiêm La mà còn là một mô hình phòng thủ Tây phương mà chúng ta thường gọi là kiểu Vauban đề phòng một trận tấn công đại qui mô của Tây Sơn từ Thuận Hóa đánh vào nhất là sau khi vua Quang Trung đánh bại quân Thanh tạo nên một chiến tích lẫy lừng. Việc xây một toà thành kiên cố ở Gia Ðịnh kết hợp nhiều nguyên nhân, từ việc chọn địa điểm phù hợp với phong thuỷ, cho đến sự thuận lợi để phòng thủ và là hậu phương để làm điểm xuất phát tấn công ra bắc.
Trước đó đất Gia Ðịnh mới khai khẩn, tình trạng tổ chức sơ sài, chưa thích hợp cho tổng hành dinh qui mô để trú đóng lâu dài. Gia Ðịnh Thành Thông Chí viết:
Trấn Gia Ðịnh xưa có nhiu ao đầm, rừng rú, buổi đầu thời Thái Tông (Nguyễn Phúc Tần 1648-1687), sai tướng vào mở mang bờ cõi, chọn nơi đất bằng rộng rãi, tức chỗ chợ Ðiu Khiển ngày nay, xây cất đồn dinh làm chỗ cho Thống suất tham mưu trú đóng, lại đặt dinh Phiên Trấn tại lân Tân Thuận ngày nay, làm nha thự cho các quan Giám quân, Cai bạ và Ký lục ở, được trại quân bảo vệ, có rào giậu ngăn cản hạn chế vào ra, ngoài ra thì cho dân trưng chiếm, chia lập ra làng xóm, chợ phố. Nơi đây nhà ở hỗn tạp, đường sá chỗ cong chỗ thẳng, tạm tu tiện cho dân mà chưa kịp phân chia sửa sang cho ngăn nắp. Chức Khổn suý thay đổi lắm lần cũng để y như vậy. Ðến mùa xuân năm Ất Mùi (1775), đời vua Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) thứ 11, xa giá phải chạy đến trú ở thôn Tân Khai. Mùa thu năm Mậu Thân (1788) năm thứ 11, buổi đầu đời Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh) Trung hưng, việc binh còn b bộn, ngài phải tạm trú nơi đồn cũ của Tây Sơn ở phía đông sông Bình Dương để cho nghỉ quân dưỡng dân.[11] (11)
Việc cải tổ hành chánh của Nguyễn Ánh bao gồm cả cải cách tổ chức lẫn định chế cai trị. Về tổ chức, chúa Nguyễn chia lại địa giới các tỉnh và xây dựng một mạng lưới giao thông, liên lạc. Những cải cách kinh tế đã biến vùng Ðồng Nai từ một khu vực hoang vu, ít người ở thành một tiểu quốc trù phú. Vì miền nam là một tâm điểm giao lưu, một khi tình hình an ninh được ổn định, các thương thuyền qua lại buôn bán đem đến những món tiền lớn.
Trong một thời gian tương đối ngắn, đất Ðồng Nai có thêm nhiều đại lộ, được vẽ và trắc địa theo kiểu Tây phương, một hệ thống sông đào qui mô vừa thuận tiện cho việc giao thông, vừa cải cách hệ thống thoát nước để thuần hoá một khu vực rộng vốn chỉ là đầm lầy không thể canh tác được.
Những con đường trong thành phố cũng được mở theo đường thẳng và nếu định vị với bản đồ Saigon về sau, chúng ta còn có thể tìm ra được một số đại lộ chính. Nhờ các phóng đồ này, khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, việc mở rộng thành phố không đòi hỏi việc tái qui hoạch toàn bộ khu vực mà chỉ tiếp nối vào những công trình cũ còn dở dang hoặc thoái hóa vì đã lâu không tu bổ.
Theo tài liệu của người nước ngoài, một số định chế pháp luật tương đối mới mẻ và công bình được ban hành. Các chính quyền triều đại của phương Ðông thường không minh bạch về luật lệ và dành quyền phán quyết cho các quan lại. Vì thế để có được những dễ dãi, các thuyền buôn thường phải biếu xén rất nhiều cấp, nhiều lần vì chỗ nào cũng có thể gây khó khăn, hạch sách làm ngăn trở công việc.
  1. Phát triển kinh tế
Ngoài ý nghĩa giao thông, hệ thống đường bộ, đường sông cũng giải quyết việc lương thực, hậu cần để cung ứng cho chiến tranh với đối phương ở Ðàng Ngoài.
Theo Barrow, chúa Nguyễn có mấy năm tương đối bình yên[12] (12) và nhờ sự cố vấn của giám mục Pigneau de Béhaine, ông đã dốc toàn lực vào việc kiến tạo đất nước. Ông xây dựng một nhà máy diêm tiêu (salpetre) ở Fen-tan (Tsiompa)[13] (13), mở mang liên lạc giữa những vị trí quan yếu từ thành phố này đến thành phố khác, và trồng cây hai bên đường lấy bóng mát.
Chúa Nguyễn cũng khuyến khích việc tái xây dựng những đồn điền trầu cau bị phá hủy vì chiến tranh và khuyến khích việc trồng dâu, nuôi tằm. Ông dành một vùng đất lớn để trồng mía làm đường và xây dựng những xưởng làm keo, nhựa trét và hắc ín [dùng trong kỹ nghệ đóng thuyền].[14] (14)
Tuy không biết rõ có những cải tiến nào cho kinh tế địa phương, nhưng ngay cả trong thời kỳ suy thoái cũng có rất nhiều mặt hàng, đặc biệt giá cả rất rẻ so với các quốc gia khác.

(Còn tiếp)

Chú thích:

1.James P. Daughton, “Recasting Pigneau de Béhaine” trong Tran Tuyet Nhung & Anthony Reid (chủ biên). Việt Nam – Borderless Histories (Wisconsin: The University of Wisconsin Press, 2006) tr. 307
2. Một số sĩ quan được liệt kê Chaigneau, de Forçant, Vannier, Dayot, Ollivier, Le Brun, Barizy, Girald de l’Isle Sellé, Despiaux, Guillion, Guilloux ... [A. Folliot, Notions sur l’histoire de l’Annam et sur les résultats de l’occupation Française, (Saigon, 1905)] tr. 20. Cũng theo Folliot thì những người Âu có kiến thức và năng động này đã giúp ông xây dựng một đội chiến thuyền, phòng thủ thành trì và xung phong giúp ông trong mọi trường hợp cần đến sự can trường và thiện chí của họ (...Ces auxiliaires instruits et énergetiques lui construisirent une flotte, lui fortifièrent ses villes eit lui prétèrent dans toutes les circonstances l’appui de leur courage et de leur dévouement)
3....They were no less than to subdue the Kingdom of Cambodia with the whole peninsula as far as Siam, and the Provinces belonging to Cochin China to the north now in the hands of the Tonquinese. To effect these (and indeed it would be requisite) he wished much for the assisstance of some English vessels, in recompense for which he would make them such grants of land for settlement as they might think proper. “... Phải làm sao chinh phục vương quốc Cambodia và toàn thể bán đảo cho tới tận Xiêm La, cùng [lấy lại] những tỉnh thuộc Ðàng Trong ở phía bắc nay đang ở trong tay người Ðàng Ngoài. Và để thực hiện dự tính đó, ông (Nguyễn Nhạc) mong được người Anh giúp cho một số tàu chiến, và để trả lại thì ông sẵn lòng nhường cho họ mảnh đất nào họ thấy thích hợp để trú đóng.” Alastair Lamb, The Mandarin Road to Old Hué: Narratives of Anglo-Vietnamese Diplomacy from the 17th century to the eve of the French Conquest (London: Chatto & Windus, 1970) tr. 100
4. ...and, through the translations into the Chinese character of the Encyclopedie by the Bishop Adran, he has acquired no inconsiderable knowledge of European arts and sciences, among which he is most attached to such as relate to navigation and ship-building.
... qua bản dịch bộ Encyclopedie sang chữ Hán do giám mục Adran thực hiện, ông đã thu lượm được một số kiến thức Tây phương đáng kể v kỹ thuật và khoa học trong đó hai ngành ông chú trọng nhất là hải hành và đóng tàu. John Barrow, A Voyage to Cochinchina (Kuala Lumpur: Oxford University Press, 1975) tr. 277
5. “Voyage from France to Cochin-China : in the Ship Henry / Captain Rey, of Bordeaux, in the years 1819 and 1820” (London : Printed for Sir Richard Phillips and co., 1821)
6. Hiện nay trên thị trường còn có một ấn bản chụp lại y như bản chính – kể cả những dấu giấy cũ và những phần bị loại bỏ theo lệnh giáo hội [Authentic Replica of the First Edition of the Encyclopedia Britannica, 1768-1771 (Three Volume Facsimile Set) (Hardcover)]. Dựa theo nội dung trong bộ từ điển này, chúng tôi dựng lại các kiến thức cơ bản mà giám mục Bá Đa Lộc đem về cho chúa Nguyễn trong thời gian ấy.
7. John Blofeld, Bangkok (TIME-LIFE International, 1979) tr. 10
8. Việc khôi phục lại vương quốc Xiêm La thành công chính vì quân Miến chỉ xuống để cướp bóc tài vật và bắt người về làm nô lệ mà không có ý định chiếm đóng đất đai, tương tự như quân Tây Sơn khi xuống Gia Ðịnh hay vào Thăng Long với chủ đích thu góp chiến lợi phẩm, tiền bạc rồi lại rút về nên sau khi địch đi khỏi chúa Nguyễn lại có cơ hội hồi sinh.
9. Các sử gia Thái Lan cũng vì quá đề cao việc phục quốc của Taksin nên không chú trọng đến yếu tố Miến Ðiện đang có chiến tranh với Trung Hoa, tương tự như trường hợp chúa Nguyễn nhờ vào mâu thuẫn của Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ và việc triều đình Quang Trung đang vướng mắc vào vấn đề ngoại giao với Thanh triều.
10. ... This was a strategic move, since Bangkok was well protected by water on one side and by a vast swampy plain stretching away to east and south on the other. It was also a symbolic move, intended as a fresh and auspicious start for the kingdom. Blofeld, Bangkok, tr. 10. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, ông cũng dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long với cùng một ý nghĩa và mục tiêu như việc vua Rama I chọn Bangkok làm kinh đô mới.
11. Trịnh Hoài Ðức, Gia Ðịnh Thành Thông Chí [bản dịch Lý Việt Dũng] (Biên Hòa: nxb Tổng Hợp Ðồng Nai, 2005) tr. 216
12. John Barrow, sđd. tr. 273. John Barrow ghi lại theo lời tường thuật của người khác nên nhiều chỗ không chính xác, nhất là niên biểu. Ông chép rằng hai năm bình an đó là 1797 và 1798 nhưng thực ra hai năm này là hai năm chiến sự đang căng thẳng. Hai năm mà chúa Nguyễn được thong thả để củng cố lực lượng phải là năm 1789 và 1790 khi Bá Ða Lộc vừa ở Pháp v, Nguyễn Huệ đang bận giao thiệp với nhà Thanh nên chưa tính chuyện đánh vào nam.
13. Tsiompa có lẽ là phiên dịch hai chữ Chiêm Ba (tức Champa hay Chiêm Thành) nhưng không biết địa điểm nào. Vào thời đó, người Tây phương gọi chung cà khu vực là Champa. Fen-tan có thể là Phiên An, tên cũ của thành Saigon, tức ngay tại thủ phủ Gia Định.
14. John Barrow, sđd. tr. 273-4
15. Miền nam gọi là một quài chuối, gồm nhiều nải chưa cắt riêng.