Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2015
Thụy Khuê - Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long: Chương 21: Philippe Vannier Nguyễn Văn Chấn (1762-1842)
Philippe Vannier Nguyễn Văn Chấn và Jean-Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng là hai nhân vật đã ở lại Việt Nam lâu nhất, tới đầu đời Minh Mạng. Về hộ tịch của Vannier, André Salles, tìm thấy những chi tiết sau đây:
Philippe Vannier sinh ngày 6/2/1762,
tại Locmariaquer (Morbihan), con Francois Vannier và Vincente Joannis. Tại Huế,
ngày 12/11/1811, Vannier cưới cô Nguyễn Thị Sen (1791-1878), con một gia đình công
giáo ở Phường Đúc [hay Thợ Đúc] gần Huế, do giám mục Véren [Labartette] làm lễ.
Có 7 con. 5 người sinh tại Huế, gồm: Philippe sinh ngày 23/6/1811 (con ngoại hôn, sinh trước đám cưới cha mẹ 5 tháng, sẽ ở lại Việt Nam, sau làm thông ngôn cho vua Minh Mạng. Ngày 17/3/1835, vua Minh Mạng gửi 2 tầu đi mua bán ở Singapore, Pinang, Batavia, vv... còn thấy Philippe làm việc trên tầu). Michel (1812-1889) sinh 12/10/1812. Magdeleine (1814-1902), 11/11/1814. Elisabeth, 9/11/1816. Marie (1822-1882), 17/12/1822. Gia đình trở về Pháp, cư ngụ ở Auray từ ngày 28/12/1825. Các con sinh tại Lorient: Adèle-Louise, 19/7/1827. Eugène-Auguste, 24/3/1831.
Có 7 con. 5 người sinh tại Huế, gồm: Philippe sinh ngày 23/6/1811 (con ngoại hôn, sinh trước đám cưới cha mẹ 5 tháng, sẽ ở lại Việt Nam, sau làm thông ngôn cho vua Minh Mạng. Ngày 17/3/1835, vua Minh Mạng gửi 2 tầu đi mua bán ở Singapore, Pinang, Batavia, vv... còn thấy Philippe làm việc trên tầu). Michel (1812-1889) sinh 12/10/1812. Magdeleine (1814-1902), 11/11/1814. Elisabeth, 9/11/1816. Marie (1822-1882), 17/12/1822. Gia đình trở về Pháp, cư ngụ ở Auray từ ngày 28/12/1825. Các con sinh tại Lorient: Adèle-Louise, 19/7/1827. Eugène-Auguste, 24/3/1831.
Vannier mất ngày 6/6/1842. Bà Nguyễn
Thị Sen mất ngày 6/4/1878 tại Lorient.
Khi phái đoàn Phan Thanh Giản sang Pháp,
bà Nguyễn Thị Sen lên Paris yết kiến và dự lễ mừng sinh nhật vua Tự Đức (Documents
Salles, Philippe Vannier, BAVH, 1935, cả cuốn II, t. 127, 129, 130, 131, 145,
153, 158).
Vannier
đến Nam Hà
Người ta
không biết rõ năm tháng và duyên cớ gì Vannier đến Nam Hà, những điều chính ông
viết ra cũng mơ hồ, dường như ông có ý muốn giấu quá khứ của mình: có chỗ ông
nói đã đến Nam Hà cùng với Félix Dayot (em JM. Dayot) năm 1789. Có chỗ lại nói đi cùng với Bá
Đa Lộc. Lá thư ông viết cho Bộ trưởng Nội vụ Pháp để xin học cho hai con, năm
1826, cho ta biết một số thông tin sai cũng như đúng về ông. Trong thư, ông tự xưng
mình ở ngôi thứ ba (3e personne), có lẽ theo phép nhún nhường Đông
phương. Thư không đề ngày, nhưng có thể đoán là viết năm 1826:
«Auray...
«Thưa ngài Bộ trưởng Nội vụ,
«Philippe Vannier ở Auray, nhân viên Hải
quân (employé de la Marine Militaire), sau khi dự những chiến dịch dưới lệnh
ông Dorvilliers, và các chiến dịch năm 1779, 1780, 1781, dưới lệnh ông de
Grasse; đã rời Pháp ngày 28/3/1788. Tới Pondichéry, kẻ tên Vannier (le
Sieur Vannier), được Đức giám mục Bá Đa Lộc, Thượng Thư của vua Nam Hà, tuyển
mộ, đi tới điểm đầu tiên trong chiến dịch Nam Hà. Họ [Cha Bá và Vannier] đi từ Pondichéry đến
Sài Gòn, vùng nhà vua vừa chiếm lại. Nhà vua quen biết 14 sĩ quan và 80 người lính
đến giúp ông dựng lại ngai vàng. Sau khi nước này bình an, những người Pháp ở
lại lập thân. Tất cả đã qua đời, trừ hai kẻ tên Vannier và Chaigneau.
M. Vannier, từ lúc ấy, giữ một vai
trò, càng thêm quan trọng vì ở cạnh vua và được thưởng chức quan cấp bậc đệ bát
đẳng [tức Cai Đội],
và được vua đặc biệt tin dùng. 34 năm ông ta vừa trải qua ở Nam Hà, đã dùng để làm
tăng uy tín của nước Pháp đối với vị quân vương và thần dân của ông. Kẻ tên
Vannier đã không uổng công hy sinh cả cuộc đời ở xa xứ như thế nếu y không có
hy vọng kết nối mối quan hệ thương mại; rất có lợi cho hai vương quốc; và lại càng
chắc chắn rằng các vua Nam Hà [sợ hay ghét; chữ này viết rồi
gạch đi] không thể dung thứ người Anh.
Nhà vua già là bạn của người Pháp, đã
mất, con ông nối ngôi, M. Vannier, sau khi cưới một người vợ Nam Hà có đạo,
sinh được 6 đứa con, muốn cho gia đình đông con có một nền giáo dục Pháp và có
đạo, nên đã xin phép vua mới [Minh Mạng] về Âu Châu, và đã được chấp thuận. Trước khi đi, nhà vua
bảo phải hứa sẽ gửi con về lại Nam Hà, để chúng đem những kiến thức Âu Châu về,
sẽ có ích cho nước ông và làm cho quan hệ thương mại giữa hai nước được dễ dàng.
Vua trước, chỉ biết có gia đình
Bourbon, đã có lần nói với kẻ tên Vannier về người chinh phục Bonaparte mà ông
so sánh với Timour và với... rằng ông chỉ thiết lập lại quan hệ với nước Pháp
nếu dòng họ Bourbon trở lại ngai vàng.
Ông de Kergariou dưới thời Vương
Chính Trùng Hưng [Restauration
(1815-1830)] đến nước Nam [1817], được M. Vannier, nhân danh vua, tiếp;
nhưng M. de Kergariou không được bệ kiến vua vì không đem theo đủ hình thức
nghi lễ, không có uỷ nhiệm thư [của vua Pháp].
Trước khi mất, nhà vua đã bảo đảm sẽ
gửi M. Vannier về Pháp, với một phái bộ ngoại giao, để cám ơn vua Louis XVIII [Louis XVI], ngày trước đã giúp
ông khôi phục lại ngai vàng, với vài người Pháp, đếm trên đầu ngón tay, đã sang
đây năm 1788.
Kẻ tên Vannier hy vọng rằng với những
năm dài phụng sự ở Nam Hà, cộng thêm những nhiệm vụ đã làm trong hải quân [Pháp], xứng đáng được ngài Bộ Trưởng
cấp cho con trai y, 14 tuổi, một chỗ học ở trường Ngôn ngữ Đông Phương (...) và
con gái đầu lòng của y, 10 tuổi [thực ra 12 tuổi], một chỗ trong nội trú
hoàng gia ở Ste-Denis...»
Ký tên Vannier (Documents Salles, BAVH, 1935,
II, t. 143-144)
Thư này Vannier viết với mục đích chính
là xin học cho hai con, nên ông phải cố gắng trình bầy những thành tích của mình.
Như chúng ta đã biết, đoạn ông «được Đức giám mục Bá Đa Lộc, Thượng Thư của
vua Nam Hà, tuyển mộ, đi tới điểm đầu tiên trong chiến dịch Nam Hà. Họ đi từ
Pondichéry đến Sài Gòn», là hoàn toàn sai. Nhưng phần còn lại có những chi
tiết đáng chú ý:
- Ông xin về nước và được vua Minh Mạng
cho phép. Việc này hoàn toàn khác với những điều được truyền tụng là vua Minh Mạng
«bạc đãi, vô ơn, đuổi về».
- Vannier cho biết: ông đã
rời Pháp ngày 28/3/1788. Điều này chắc đúng.
- Vannier cho biết: «Nhà vua quen
biết 14 sĩ quan và 80 người lính đến giúp ông dựng lại ngai vàng». Và «vài
người Pháp, đếm trên đầu ngón tay, đã sang đây năm 1788». Điều này cũng
phù hợp với lời Đức Chaigneau viết trong hồi ký, chắc theo lời thuật lại của
cha: « Có 14 hay 15 sĩ quan đến giúp Gia Long» (Souvenirs de Huế, t. 18).
- Vannier nói đến sự kiện ông làm «nhân
viên Hải quân (employé de la Marine Militaire)» và thạm dự «những chiến
dịch dưới lệnh ông Dorvilliers, và các chiến dịch năm 1779, 1780, 1781, dưới lệnh
ông de Grasse». Như vậy chứng tỏ Vannier đã vào hải quân từ năm 17 tuổi; và
đến năm 26 tuổi, ngày 28/3/1788 mới rời Pháp. Các tài liệu khác
không nói rõ vì lý do gì.
Vannier không thuộc diện đào ngũ, người
ta cũng không biết rõ lý do tại sao ông sang Nam Hà.
Nhưng Grimault de Lanoé, một hậu duệ,
sau khi xin phép cải chính năm sang Nam Hà của «ông cố» [mon aïeul] đã kể: "Philippe
Vannier, sĩ quan thuỷ quân hoàng gia, năm 1786 làm chứng trong một cuộc đấu
(súng, gươm) giữa hai sĩ quan thuỷ quân; nhưng người mà ông cố tôi làm chứng không
đến, ông cố bèn thay thế, giết địch thủ, bị kết án tử hình, vượt ngục và chạy
sang nước Nam, năm 1786" (thư Grimault de Lanoé viết ở Lannion ngày
18/1/1921, trả lời thư André Salles hỏi lý do tại sao Vannier sang Việt Nam,
Documents Salles, Philippe Vannier, BAVH, 1935, II, t. 169). Tóm lại, Grimault
de Lanoé xác nhận rằng «ông cố» sang «Nam Hà» (có lẽ muốn nói là Ấn Độ) từ năm
1786, vì trốn tội tử hình. Sau đó mới lưu lạc sang Nam Hà. Ngoài ra, trong lá
thư gửi Bộ trưởng Nội vụ trên đây, Vannier cũng kể rất mơ hồ về việc sang Nam Hà,
và ông chỉ nhận mình là «nhân viên» (employé) trên tầu, chứ không nói là «sĩ
quan», điều này phù hợp với trình độ Pháp ngữ của ông và giải thích tại sao Vannier
không có tên trong danh sách binh lính đào ngũ.
Chức vụ của
Vannier ở Nam Hà
Vannier là
người lớn tuổi nhất trong số những người đến giúp vua Gia Long, đi biển ở tuổi
17; Chaigneau đi biển từ tuổi 12. Do đó, họ là hai thuỷ thủ rành nghề biển hơn
cả. Không thể xác định rõ ngày Vannier đến Nam Hà, nên chúng tôi dựa vào chứng
từ đầu tiên, đó là văn bằng Cai đội, vua cấp cho Vannier ngày 27/6/1790, sau đây:
"Hoàng
Thượng biết rằng thân [le sieur] Philippe Vannier, quốc tịch Pháp,
đã tỏ lòng nhiệt thành làm nhân viên trong thuỷ quân [Pháp], và đã không
quản ngại cả sự xa cách, lẫn sự khác biệt tiếng nói, đến phụng sự nơi đây. Hoàng
thượng tin vào khả năng của y, xét thấy xứng đáng được cấp, và với văn bằng
này, cấp cho chức Cai đội Chấn Thanh Hầu, giao cho quản một trong những tầu của
hoàng thượng là tầu Đồng Nai, dưới quyền điều khiển của Jean-Marie Dagot [Dayot],
chỉ huy phân khu có tầu này. Phải cẩn thận tuân mọi lệnh của Dagot, và trong mọi
trường hợp phải làm gương tận tụy phục vụ công vụ của Hoàng thượng.
Nếu vì phạm
lỗi, không làm tròn nhiệm vụ được giao phó, hoặc coi thường những bổn phận của
chức vụ, thì sẽ bị trừng phạt theo luật pháp.
Ngày 15,
tuần trăng thứ năm, năm 51, đời Cảnh Hưng (27/6/1790 ) (Louvet, I, t. 535).
Vannier
được nhận chức Cai đội tháng 6/1790 cùng với một số người khác. Ta nên chú ý rằng:
Vannier có lẽ là một trong những người hiếm hoi đã không khai man: ông chỉ khai
là “nhân viên” (employé) trên tầu Pháp.
Vannier phải
tuân lệnh Dayot, quản chiếc tầu Đồng Nai, không biết trong bao lâu, vì, theo
Liệt Truyện viết về Trần Văn Học, thì: «Năm Canh Tuất [1790], đắp
thành Gia Định, Học nêu đo phân đất và các ngả đường, rồi cùng người Tây là bọn
Nguyễn Chấn [Vannier] trông coi chiếc thuyền lớn bọc đồng, theo quan
quân đánh giặc. Năm Nhâm Tý [1792], làm đồn Mỹ Tho...» (LT, II, t. 282).
Như vậy, có thể hiểu,
trong hai năm, từ 1790 đến 1792, Vannier đã được bổ cùng với Trần Văn Học điều
khiển thuyền đồng đi đánh trận, rồi sau đó Trần Văn Học tiếp tục vẽ bản đồ các
thành phố khác, như Mỹ Tho, và Vannier có thể vẫn tiếp tục trông coi thuyền, tầu
đồng.
Trận Thị Nại tháng 7-8/ 1792
Vannier có tham dự trận Thị Nại 1792
không?
Theo Thục Lục, thì trong trận này: «Nguyễn
Văn Trương và Nguyễn Văn Thành đi thuyền Long và thuyền Phụng
đánh thẳng vào». Vậy rất có thể Trần Văn Học và Vannier cũng có mặt, tuy nhiên đó
chỉ là giả thuyết, hiện chúng tôi chưa có đủ tài liệu để xác định. Còn những người
cho rằng Vannier dự trận này trong ê-kíp Dayot là sai. Bởi vì Dayot, từ tháng
6/1792, sau vụ thậm lạm ngân quỹ, vua không cho đi ngoại quốc mua bán nữa, chuyển
sang làm vận tải; và trận Thị Nại 1792 -như chúng tôi đã chứng minh trong chương
16, viết về Dayot- đánh chớp nhoáng có 10 ngày, chỉ gửi các đội cảm tử, họ được lệnh đem lương
theo, vua không chỉ định quan tải lương. Như vậy, Dayot không thể dự trận Thị Nại
1792.
Đến khi Gia Long đánh Quy Nhơn lần thứ
nhất, tháng 5-6/1793; đây là một chiến dịch lớn và lâu, chắc chắn Dayot phải
tham dự vì Dayot ở trong đội tải lương, nhưng không biết Vannier có còn ở dưới quyền
Dayot nữa hay không. Lá thư của giáo sĩ Le Labousse viết cho M. Boiret, từ Sài
Gòn ngày 26/6/1793, đoạn cuối có câu:
«Nhà vua vừa thống lĩnh đại binh thủy
bộ đi đánh Quy Nhơn, thủ đô của Nhạc mà người ta gọi là Hoàng Đế. Các ông Dayot
quê Rhedon và Vannier quê ở Auray cũng đi với tầu của họ. Ông Olivier quê ở
Carpendras cũng đi với quân của ông ấy và vài người Âu trong bộ binh. Đức Giám
Mục chưa nhận được tin gì của vua...» (Cadière, Doc. Rel. t. 28-29).
Có lẽ đó là thông tin duy nhất về
Vannier trong chiến dịch Quy Nhơn 1793; không biết Vannier đi trong đội ngũ nào:
đội tải lương của Dayot, hay đội thuyền đồng?
Chính thức quản tầu Long Phi từ năm
1800
Về phần Vannier, từ đó cho đến năm
1800, chúng tôi không tìm được tin tức gì thêm. Không biết ông làm những việc gì.
Bẩy năm sau, mới thấy ông xuất hiện lại, cùng hai người Pháp, cai quản ba chiếc
tầu đồng. Thực Lục việc tháng 2-3/1800, ghi:
«Sai Khâm sai thuộc nội Cai đội
Nguyễn Văn Chấn quản tầu đại hiệu Phượng Phi, Nguyễn Văn Thắng quản tầu đại
hiệu Long Phi, Lê Văn Lăng quản tầu đại hiệu Bằng Phi, theo Trung quân sai phái
đánh giặc (bọn Chấn đều là người Phú Lang Sa)» (TL, I, t. 407).
Và một năm sau nữa, Thực Lục ghi việc
tháng 3/1801: «Sai Nguyễn Văn Trương điều bát thuỷ quân tiến ra Quảng Ngãi,
Quảng Nam đánh giặc (...) các chúa tầu hiệu Long Phi, Phượng Phi, Bằng Phi, là
bọn Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Thắng, Lê Văn Lăng đều thuộc quyền» (TL, I,
t. 432).
Như vậy, trong suốt thời gian Gia Long
xuất quân từ Gia Định tháng 4-5/1800, để giải
vây Bình Định, đến khi toàn thắng, cuối năm 1802, ba người Pháp này đều dự các
cuộc hành quân, khi hộ vệ vua, khi đánh trận, khi tải lương; là ba người cuối cùng
đã đi theo đến khi Gia Long thống nhất đất nước, vì lẽ đó mà họ đã được lên chức
và trọng đãi suốt đời.
Vannier được lên chức Cai Cơ
Tuy nhiên phải công nhận Vannier lên
chức rất chậm, có lẽ vì không phải xông pha, không lập được chiến công. Nhận chức
cai đội từ tháng 6/1790, mãi 11 năm sau, khi chiếm được Phú Xuân tháng 6/1801, trong
dịp thăng chức các tướng sĩ, Vannier cũng được thăng chức Cai Cơ, cùng với các
bạn. Thực Lục việc tháng 7/1801 ghi:
«Cho Khâm sai Thuộc nội Cai đội
Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau), Nguyễn Văn Chấn (Vannier) và Lê Văn Lăng (de
Forçanz) làm Khâm sai Thuộc nội Cai cơ, vẫn quản các thuyền hiệu Long
Phi, Phượng Phi và Bằng Phi» (TL, II, t. 451).
Vannier lên chức Chưởng Cơ
Sau khi thống nhất đất nước, Gia Long
khen thưởng toàn bộ quân đội, và lần này cả ba người Pháp được lên chức Chưởng
Cơ. Đây là văn bằng của Vannier:
«Trung quân, Chánh quản, Phụng phi
đồng tầu, quản chiếc tầu đồng trang trí chim phượng giương cánh.
Khâm sai Thuộc-nội Cai- cơ, thân
Nguyễn Văn Chấn, đã từng vượt biển, chế ngự ba đào, cho rồng mây gặp hội; quản
chế chiếc tầu như người cầm cương ngựa, tuyệt hảo thống trị bằng công trạng lớn
lao.
Vậy nay truyền tưởng thưởng và tăng
chức lên hàng Chánh quản Phụng phi đồng tầu.
Khâm Sai Thuộc nội Chưởng Cơ Chấn Võ
Hầu
Cai quản tầu và thi hành mệnh lệnh
của thuỷ quân
Với đức độ, nghiêm chính và kỷ luật, sáng
trí mau lẹ thi hành mệnh lệnh
Phải tăng tiến trong chiến công và
giữ vững chức vụ
Như vậy danh tiếng mới không khỏi bị
chôn vùi
Văn bằng này phải được tôn trọng
Gia Long, năm thứ nhất, tháng thứ 11,
ngày thứ 12 [6/12/1802]
»
(Dịch lại bản dịch của Salles, Documents
Salles, Philippe Vannier, BAVH, 1935, II, t. 181)
Vannier giải thích tại sao không trở
về Pháp
Sau khi hoà bình trở lại, tại sao Vannier
không hồi hương?
Trong một lá thư viết từ Huế ngày
21/8/1805 không rõ tên người nhận, Vannier cho biết:
"Chúng tôi đã chiếm được Bắc Hà,
bắt được người cầm đầu quân giặc, và đã xử tử, nên tất cả đều bình yên...
... Tôi định quay về Âu Châu sau khi vua
chiến thắng, nhưng cuộc chiến giữa Anh và Pháp gây trở ngại, khiến tôi bắt buộc
phải ở lại chờ dịp thuận tiện hơn, vì không muốn của cải của mình rơi vào sự
rủi ro của chiến tranh. Ngoài ra tôi thích hợp với nước này; được hưởng ân huệ
của vua và rất được trọng nể. Mặc dầu có những lợi điểm như thế, nhưng tôi vẫn
không ngừng nhớ đến quê hương, tới gia đình và bè bạn cũ. Đã 18 năm qua tôi
không nhận được tin tức gia đình. Nếu anh cho tôi biết tin thì thực quý lắm;
bởi vì tài sản của tôi rất lớn lao, có thể giúp đỡ nếu gia đình tôi bị thiếu
thốn, nếu như tôi nhận được tin tức của họ thì tôi đã gửi qua Hội truyền giáo rồi.
Anh có thể chuyển thư cho tôi qua những tầu Trung Hoa, bằng cách gửi cho cha
Marquini, Quản thủ hội truyền giáo ở Macao; hay tới địa chỉ anh Dayot, nhà buôn
ở Manille. Đó là một cách anh giúp người bạn cũ, và tôi sẽ không quên
được". Vannier
(Tài liệu văn khố Ngoại giao, do H. Cordier sưu
tầm, Taboulet chép lại, I, t. 262-263)
Vannier được thăng chức dưới triều
Minh Mạng
Trái với tất cả những lời đồn về sự «vô
ơn, bạc đãi, đuổi về» của vua Minh Mạng, sau đây là văn bằng thăng chức cho
Vannier của Minh Mạng năm 1924:
«Chánh quản Phụng phi đồng tầu,
Chưởng-Cơ, thân Nguyễn Văn Chấn, là kẻ hiền, biết lựa nơi thụ mộc, đến nước ta
và tuân thủ luật lệ ở đây như cây hướng dương thân mềm dẻo, tự do như cá trong
hồ, đã đi ngàn vạn dặm. Sau khi bình định miền Tây [Nam Hà], đã đi khắp các biển bằng tầu y
cai quản. Chiến đấu ở đâu, y cũng là kẻ mạnh nhất. Vì những công trạng này,
truyền cho y một đặc ân mới nữa:
Trẫm cho y lên chức Chưởng Cơ
Gia-Nhứt-Cấp
Chấn Thành Hầu
Cần phải chu đáo hơn nữa, luôn luôn
thi hành mệnh lệnh của trẫm; luôn lôn cố gắng để được hưởng ân huệ và vinh
quang.
Triều Minh Mạng, năm thứ 5, tháng thứ
8, ngày thứ 19 [11/10/1824]
(Documents Salles, t. 182).
Khác với Chaigneau, có vẻ bất mãn
ngay từ năm 1807, Vannier dường như đã thực sự bằng lòng với cuộc sống mũ áo cân
đai được trọng đãi của triều đình, có thể cho đến cuối đời, nếu không xẩy ra biến
cố tầu Cybère của Pháp do thuyền trưởng Kergariou điều khiển, cập bến Đà Nẵng
ngày 30/12/1817. Trong chuyến đi Á Châu này, Kergariou có phận sự ghé lại Đà Nẵng
nhờ Vannier và Chaigneau vận động xin yết kiến vua Gia Long, dâng phẩm vật của
vua Louis XVIII, để tiến tới một thỏa hiệp thương mại, sau gần 30 năm không có
sự giao thương giữa hai nước vì tình hình chính trị xáo trộn ở Pháp.
Vua Gia Long không tiếp Kergariou. Bởi
vì ông ta không mang theo Ủy nhiệm thư của vua Pháp. Đó là lý do chính thức,
chiếu luật triều Nguyễn, áp dụng cho tất cả các tầu ngoại quốc, Anh, Pháp hay các
nước khác. Từ khi còn chiến tranh với Tây Sơn, Gia Long cũng đã nhiều lần từ chối
không tiếp đại diện Anh mang lễ vật đến. Và đối với Pháp, ông cũng không dành riêng
cho một biệt lệ nào. Minh Mạng áp dụng đúng đường lối của cha. Vấn đề này nằm
trong chính sách ngoại giao của Gia Long, sở dĩ ông không nhận đại diện Anh, Pháp,
bởi vì, trong những điều ước xin thông thương của họ, thể nào cũng có điều xin
một mảnh đất làm nơi xây dựng bản doanh, cơ sở. Ví dụ người Anh xin Cù Lao Chàm,
vùng đất chiến lược mà Barrow đã tìm ra. Pháp cũng đòi các cửa bể như Hội An, Đà
Nẵng. Làm sao qua mắt được Gia Long hậu ý đó. Cho nên, Gia Long từ chối không
tiếp sứ giả. Ông giao việc này cho Vannier quản lý. Đối với chính phủ Pháp, đó
là một thất bại của Vannier. Chính phủ Pháp sẽ còn thấy những thất bại sau này
của cả Chaigneau lẫn Vannier, khi Chaigneau về Pháp rồi trở lại với tư cách lãnh
sự Pháp nhưng không được vua Minh Mạng chấp nhận. Tất cả nhũng thất bại liên tiếp
này tứ năm 1817 trở đi, đã khiến Vannier và Chaigneau có những lời lẽ cay đắng
oán hờn các vua, trong những thư viết sau này. Chúng tôi sẽ nói rõ hơn trong phần
viết về Chaigneau.
*
Câu chuyện Vannier liên quan tới nước
Việt, không chỉ ở điểm người lính Pháp này, đến đây, đã phụng sự Gia Long mộc cách
trung thành và những điều ông viết khá là trung thực; mà còn ở gia đình ông, một
gia đình Pháp-Việt, khiến chúng ta có mối quan tâm sâu sắc hơn. André Salles đã
có công sưu tầm nhiều hình ảnh gia đình Vannier, khiến chúng ta có thể nhìn thấy
diện mạo của họ trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ (BAVH), 1935, II.
Một mặt khác, trong BAVH, 1916, III,
Nguyễn Đình Hoè, giám đốc trường Hậu Bổ, tìm dịch được một đoạn hồi ký của Phạm
Phú Thứ viết về chuyến đi Pháp với phái đoàn Phan Thanh Giản, trong đó, ông thuật
lại chuyện bà Vannier Nguyễn Thị Sen đến thăm phái đoàn, mà chúng tôi dịch lại
sang tiếng Việt sau đây.
Phạm Phú Thứ kể lại việc bà Nguyễn
Thị Sen đến thăm phái đoàn Phan Thanh Giản ở Paris
Nguyễn Đình Hoè cho biết:
«Tình cờ đọc sách; tôi rơi vào cuốn 2,
tập Nhật ký của Phạm Phú Thứ, vị đại thần có mặt trong phái đoàn do Ngài Phan
Thanh Giản cầm đầu, được vua Tự Đức gửi đi năm thứ 16 của triều đại [1863].
Những đoạn sau đây tường thuật lại việc gặp gỡ ở Paris giữa các vị sứ giả với
Michel Đức Chaigneau, với bà Vannier cùng con trai và con gái của bà:
«Ngày 12 tháng 8 năm thứ 16 đời Tự
Đức (24/9/1863), vào giờ Tỵ (giữa 9 và 11 giờ), một người Pháp đến trình diện
tại khách sạn của phái đoàn chúng tôi, M. Nguyễn Văn Đức, con trai cựu thuyền
trưởng tầu Long Phi, M. Nguyễn Văn Thắng, tiếng Pháp là Sa-nhô (Chaigneau).
Ông này nói với chúng tôi là ông đã
trở về Pháp với cha được 37 năm, và cách đây khoảng 20 năm, đã có dịp gặp ba đồng
bào ta (Đó là Tôn Thất Thưởng, Trần Viết Xưởng và người thông ngôn Võ Dõng, từ
Singapor đến Pháp, trong năm Minh Mạng thứ 21, 1840). Ông ta 58 tuổi và những kỷ
niệm của ông về nước Nam còn rõ lắm, nhưng ông nói thêm rằng ông rất yếu, và vì
sức khoẻ kém không cho phép ông đi xa. Nếu chỉ nghe theo ý mình, ông đã muốn,
đến chào ngay khi nghe tin chúng tôi đến, ông còn chậm trễ chần chờ vì sợ bị buộc
tội là tò mò, ông mong rằng thái độ của ông không bị xuyên tạc.
Chúng tôi hỏi ông ở đâu và làm gì. Ông trả lời: Tôi về Pháp với cha tôi cùng với cựu thuyền trưởng Nguyễn Văn Chấn, tất cả chúng tôi đều về sống ở Lorient, thành phố bến cảng. Cha tôi mất 11 năm sau. Sau đó tôi dọn đến E-Sơ-Mông [Ermont?] và hiện nay tôi làm tham tá (commis) hay biên tập viên (rédacteur) ở văn phòng Giám đốc Ngân Khố Paris. Uống trà xong, ông ra về.
Chúng tôi hỏi ông ở đâu và làm gì. Ông trả lời: Tôi về Pháp với cha tôi cùng với cựu thuyền trưởng Nguyễn Văn Chấn, tất cả chúng tôi đều về sống ở Lorient, thành phố bến cảng. Cha tôi mất 11 năm sau. Sau đó tôi dọn đến E-Sơ-Mông [Ermont?] và hiện nay tôi làm tham tá (commis) hay biên tập viên (rédacteur) ở văn phòng Giám đốc Ngân Khố Paris. Uống trà xong, ông ra về.
...
Chiều tối ngày 23 (5/10/1863), bà Nguyễn
Thị Sen, vợ cựu thuyền trưởng tầu Phượng Phi Nguyễn Văn Chấn, đến ra mắt chúng
tôi ở khách sạn. Bà đi cùng với cô con gái Marie. Cả hai cùng ở Lorient lên.
Khoảng 10 ngày trước, bà Sen đã viết thư cho ông Hà Bá Lý, biết phái đoàn đã
đến, bà rất hân hạnh được trình diện với phái đoàn. Ngay khi nhận được thư trả
lời, bà cùng con gái lấy tầu lên Paris và ở khách sạn. Vừa vào tới nơi, mắt
dưng dưng lệ, bà nói với chúng tôi: bà đến Pháp với chồng từ 37 năm nay. Đếm
theo kiểu Tây, bà bảo bà 75 tuổi rưỡi. Bà nói: «Nhà tôi vẫn hứa là sẽ trở lại
nước Nam, nhưng ôi thôi, ông ấy đã mất rồi chúng tôi không còn cái hạnh phúc ấy
nữa». Bà thấy mình đã yếu quá rồi, và hơn nữa, các con muốn giữ bà ở lại Pháp,
bà không còn dám hy vọng đến chuyến về hết lòng mong đợi nữa. Bà có ba con trai
và bẩy con gái. Chỉ một người con trai cho bà một đứa cháu nội, hiện nó đang ở
nước Nam với những sĩ quan hay công chức Pháp, năm nay nó 20 tuổi. Hai người con gái của bà đã lấy chồng, nhưng chỉ có
Marie, về Pháp lúc 2 tuổi, năm nay 39 tuổi, là có 1 đứa con trai, 17 tuổi, đang
đi học.
Hôm nay được các sứ thần, là đồng
bào, tiếp, bà nói mình là người sung sướng nhất trên đời. Bà chắp tay cao lên trán
để chúc mừng Hoàng đế vạn tuế. Bà bảo: «Dưới thời các vua Gia Long, Minh Mạng, nhà
tôi và tôi, đã được các Chúa Thượng ban áo đại trào, cho văn bằng và chúng tôi
kính cẩn tôn thờ cất giữ, để kỷ niệm nước Nam tôi». Trong lúc uống trà, bà còn
cho biết bà người Phường Đúc (khu thợ rèn) [chú thích của Nguyễn Đình Hoè: Khu công giáo
Thợ Đúc, ở cạnh Les Arènes, trên đất của làng Dương Xuân, gợi lại tên Phường
Đúc] ở đó còn cha bà là Nguyễn Văn Dõng và các anh/em bà : Nguyễn Văn
Hương, Nguyễn Văn Hữu, Nguyễn Văn Tảng, người sau cùng là Cai đội, trong đội tả
quân thuỷ binh; nhưng từ lâu lắm rồi, bà không có tin tức của tất cả gia đình.
Bà hỏi trong đám nhân viên của phái đoàn có ai quen biết gia đình bà; Tạ Huệ Kế
và Ngô Văn Nhuận trả lời lấp lửng câu hỏi này.
Rồi bà kể cho chúng tôi nghe cách đây
20 năm, có hai đồng bào ta, tên là Liễu (Tôn Thất Thưởng) và Dõng, có nhiệm vụ
đi Pháp, đã được chồng bà và bà tiếp, và ông bà đã vô cùng sung sướng được dịp
nói về những điều êm dịu trong lòng, những kỷ niệm nơi bà sinh ra đời. Bà hỏi
hai người này còn sống không. Chúng tôi trình bầy với bà rằng, những người này,
năm Minh Mạng thứ 21 (1840), không có nhiệm vụ chính thức nào, họ chỉ là những
đại diện thương mại đi dịch vụ bình thường thôi.
Bà thực tình cảm động khi nhớ lại, đã
đi Pháp lâu như thế, bà không còn nói thạo tiếng Việt. Câu chuyện có chút khó
khăn, trước mặt cô con gái Marie, thỉnh thoảng cũng biết một vài câu, chữ, nhưng
nhất là nhờ các ông Hà Bá Lý và Lý Nại A, cả hai, cũng rất thích cuộc truyện
trò lý thú này. Sau đó bà Nguyễn Thị Sen cáo từ chúng tôi...
Ngày 25 cùng tháng (7/10/1863), trong dịp lễ sinh nhật Hoàng thượng, ông Nguyễn Văn Đức (Đức Chaigneau), bà Nguyễn Thị Sen cùng con trai Nguyễn Văn Lễ, 51 tuổi, và con gái Marie, đến dự buổi dạ tiệc chính thức do phái đoàn khoản đãi. Các bà cô này, nhân dịp, cả hai, đều đội khăn nhiễu, mặc áo gấm. Bà Sen bảo: «Y phục này chính Đức Kim Thượng đã ban cho chúng tôi tận tay». (Nguyễn Đình Hoè dịch Phạm Phú Thứ, Quelques renseignements sur les familles de Chaigneau et de Vannier, BAVH, 1916, III, t. 273-275).
Ngày 25 cùng tháng (7/10/1863), trong dịp lễ sinh nhật Hoàng thượng, ông Nguyễn Văn Đức (Đức Chaigneau), bà Nguyễn Thị Sen cùng con trai Nguyễn Văn Lễ, 51 tuổi, và con gái Marie, đến dự buổi dạ tiệc chính thức do phái đoàn khoản đãi. Các bà cô này, nhân dịp, cả hai, đều đội khăn nhiễu, mặc áo gấm. Bà Sen bảo: «Y phục này chính Đức Kim Thượng đã ban cho chúng tôi tận tay». (Nguyễn Đình Hoè dịch Phạm Phú Thứ, Quelques renseignements sur les familles de Chaigneau et de Vannier, BAVH, 1916, III, t. 273-275).
Đoạn nhật ký trên đây cho thấy con người
Phạm Phú Thứ cùng tài năng và đức độ của ông: Là nhà biên khảo, ông không
bỏ sót một chi tiết nào. Chỉ cần có cuộc gặp gỡ trong một (vài) tiếng đồng hồ, ông
đã ghi hết chi tiết về gia đình bà Nguyễn Thị Sen. Là một nhà văn, ông ghi cả tinh
thần con người bộc lộ qua cử chỉ và lời nói, không cần thêm bớt một lời bình luận
nào.
Nguyễn Văn Đức hay Michel Đức
Chaigneau, sau này sẽ viết cuốn Souvenirs de Huế, đã hiện ra với lòng ngờ
vực, khinh thị các quan, tự coi mình là quan trọng, muốn giữ khoảng cách với phái
đoàn; trong lúc các đại thần được vua Tự Đức cử sang Paris để điều đình chuộc lại
ba tỉnh miền Đông.
Những lời Nguyễn Văn Đức viết ở trang
8, cuốn Souveniers de Huế, phản ảnh đúng con người này: Trách Trịnh Hoài
Đức trong Gia Định Thành Thông Chí (qua bản dịch Aubaret) đã không nhắc
gì đến «công lao trời biển» của Bá Đa Lộc và những người Pháp trong đó có cha ông,
đã đến giúp Gia Long «dựng lại cơ đồ», và ông tiếc rằng ông đã đọc cuốn sách này
sau khi gặp phái đoàn, chứ nếu ông đọc trước, thì thế nào ông cũng «hạch hỏi
cho ra lẽ».
Với sự tinh tường, Phạm Phú Thứ đã nhìn
ra con người này, nên vị học giả chỉ ghi vài nét vắn tắt ; ông dành tất cả
cho bà Vannier Nguyễn Thị Sen, và ông đã ghi lại chân dung người phụ nữ này
trong chiều sâu của tâm hồn, chỉ qua vài hàng ngắn ngủi, nhưng sẽ lâu dài tồn tại.
Thụy Khuê
(Còn tiếp)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét