Thứ Năm, 23 tháng 7, 2015
Vương Trí Nhàn - TỪ LƯU MANH TRONG ĐỜI SỐNG, ĐẾN LƯU MANH TRONG CAI TRỊ
![]() |
Ảnh minh hoạ |
Sự phổ biến của hiện tượng lưu manh, tâm lý lưu manh, cách sống lưu manh
Trong bài Đường
đi và người đi — Những khám phá thú vị về xã hội người Việt xưa in
trên TT&VH số ra 18-12-2011 nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng có viết: “Ngày
xưa đi buôn, thường phải thuê người gánh hàng, một người gánh hai thúng gọi là
Đểu, hai người gánh chung một thúng hoặc một kiện hàng gọi là Cáng. Dân gánh
thuê Đểu Cáng thi thoảng có trộm hàng của chủ buôn, nên chữ Đểu Cáng dần mang
nghĩa xấu, cũng như chữ Lưu manh – người mù đi lang thang, đôi khi cũng trộm
cắp, nên chữ này cũng mang nghĩa xấu”.
Tôi muốn bàn thêm với
anh Thượng riêng về hai chữ lưu manh. Chữ manh ở đây không phải người mù. Trong
chữ Hán cũng có một chữ manh viết bằng cách kết hợp chữ vong với bộ mục, Đào
Duy Anh dịch nghĩa là mắt không có con ngươi, tối tăm.
Nhưng trong từ ghép
lưu manh thì sách vở xưa nay đều viết chữ manh khác, gồm chữ vong như trên và
bộ thị thay cho bộ mục. Chữ manh nói về sau này thời cổ là chỉ chung là dân.
Trong Bình Ngô đại cáo có câu: Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập
Đào Duy Anh dịch
là: Dựng gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp
Là dùng chữ manh
ấy. Từ chỗ ban đầu chỉ dân nói chung (Hiện đại Hán ngữ từ điển giảng “cổ đại
xưng bách tính”), sau chữ manh này chỉ dân không có nghề nghiệp. Nó cũng không
mấy khi được dùng riêng mà thường dùng như một thành phần trong từ ghép lưu
manh.
Anh Phan Cẩm Thượng
cho rằng đểu cáng thi thoảng có trộm hàng của chủ hàng nên có nghĩa xấu. Nghĩa
xấu đó là gì? Việt Nam Tự điển của hội Khai
trí tiến đức 1931 ghi đểu cáng là hạng người hèn mạt vô hạnh. Như vậy
là từ một thói xấu đã biến thành một bản chất. Nay đểu cáng thường dùng như một
tính từ chỉ phẩm chất.
Hạng lưu manh cũng
vậy. Các từ điển Hán — Hán hiện đại thường ghi lưu manh ban đầu chỉ dân lang
thang vô nghề nghiệp, sau chỉ kẻ “bất vụ chính nghĩa, vị phi tác đãi’, tức là
kẻ không biết chính nghiã là gì, dám làm mọi việc phi pháp xấu xa.
Tra các từ điển Hán
Anh, tôi thấy người ta thường dịch lưu manh thành rogue, gangster,
hooligan, sau đó chuyển sang nghĩa rộng hơn, nó dùng để chỉ những quan
niệm hành động phi đạo đức, liều lĩnh, bậy bạ, rộng hơn là những triết lý “vô
thiên vô pháp”, cho phép người ta dùng mọi thủ đoạn cốt đạt được mục đích.
Dẫu sao tôi cũng cảm
ơn nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng. Từ chỗ nghiên cứu nghệ thuật thuần túy, anh
chuyển sang nghiên cứu cơ sở của nghệ thuật là xã hội.
Khi nghiên cứu về giao
thông VN trong xã hội cũ, anh không chỉ nói tới đường đi mà còn nói tới người
đi, vì thế mới có câu chuyện chúng ta trao đổi ở đây.
Tôi lại rất tán thành
cái hướng mà anh theo là phân chia xã hội không theo thang bậc giai cấp chung
chung nông dân—địa chủ phong kiến mà theo các tầng lớp hình thành trong xã hội
như kẻ sĩ, nhà buôn, kẻ hạ lưu trộm cướp lưu manh. Xin phép nói thực, tôi cũng
đang muốn làm như vậy.
Phần góp chuyện của
tôi: Ngày nay chúng ta thường hay lý tưởng hóa chữ dân. Nhưng ở trang 87
của Từ điển từ nguyên tiếng Trung ( Nxb Hồng Đức H. 2008 ),
tác giả Nguyễn Mạnh Linh ghi: “Để áp bức nô lệ làm việc và tránh tạo phản, bọn
chủ nô thường bắt họ đeo gông tay gông chân hoặc dùng mũi khoan chọc mù mắt họ.
Chữ dân trong Giáp cốt văn và Kim văn nghĩa gốc là chỉ nô lệ, nghĩa rộng chỉ kẻ
bị thống trị trong đó bao gồm nô lệ và dân thường. Sau này phiếm chỉ bách tính
quần chúng nhân dân”.
Phải đi vào từ nguyên
học lôi thôi như vậy vì nói tới người dân xưa là nói tới tình trạng lang thang
vô nghề nghiệp. Mà đó cũng là nguồn gốc tạo nên cách sống của họ. Họ chẳng coi
cái gì là quan trọng. Họ dám làm những việc động trời bất chấp pháp luật. Nhờ
thế, trong lịch sử các nước như Trung Quốc, Việt Nam họ là nguồn gốc của những
hỗn lọan mà ngày nay ta hay gộp vào và gọi chung là những cuộc nông dân khởi
nghĩa.
Lưu manh du đãng… ở ta
đóng vai trò lớn trong các cuộc chiến tranh kể cả nội chiến lẫn chống ngoại
xâm. Nhiều bộ sách cũ tôi đọc được có ghi những người theo Đinh Bộ Lĩnh cờ lau
tập trận là du đãng, mà sau này Quang Trung mạnh cũng là nhờ tập hợp và phát
huy sức mạnh đám người này.
Trong lịch sử Trung
quốc, những Lưu Bang Hán Cao Tổ, hoặc Chu Nguyên Chương Minh Thái Tổ cũng mang
đậm trong mình chất vô lại, du đãng, lưu manh. Đã có câu tổng kết: trí thức chỉ
làm đến tể tướng, chỉ có lưu manh mới có thể làm vua. Nhận xét ấy trong thời
hiện đại được chứng nghiệm qua bộ đội Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. (Tuy Mao
Trạch Đông cũng là một trí tuệ siêu đẳng, song yếu tố chủ đạo trong ông vẫn là
lưu manh).
Lịch sử cả Đông lẫn
Tây vận động theo hướng xã hội khép kín trong các làng xóm thôn lạc thời cổ
điển bị phá vỡ, con người tràn ra thành thị. Trong khi các tầng lớp nhà buôn và
quan lại dùng tri thức tổ chức lại đời sống thì tầng lớp lưu manh cũng xuất
hiện, và phát triển mạnh theo hướng thâm nhập vào các tầng lớp khác.
Trong xã hội Việt Nam
sau 1945, do mãi lo chiến tranh, nên chúng ta dung túng cho mọi cách sống khác
nhau. Trong khi không chú ý tới những tiêu chuẩn đạo đức nhân bản, xã hội để
mặc cho xu thế lưu manh phát triển, nó mặc sức chi phối sự hình thành nhân cách
từ người lao động đến người có học, làm họ cũng trở nên lười biếng tầm thường
tàn ác vô cảm, nhất là khinh thường mọi sự thiêng liêng, cho phép mình sống như
quỷ dữ. Tức là lưu manh hóa họ. Mặc dù nhiều khi mượn áo trí thức để làm dáng
nhưng trong thực tế bản chất của lưu manh là thâm thù căm ghét trí thức chân
chính. Và họ căm thù trí tuệ nói chung.
Ở tầng lớp lưu manh
khoác áo trí thức, cái lõi là vô học, bao nhiêu cái có học bên ngoài chỉ là đắp
điếm thêm.
Trí thức và thói lưu
manh trong cai trị
Ở trên, tôi đã nói Mao
Trạch Đông có cốt cách lưu manh. Phải nói rõ thêm chính ra ông cũng là một trí
thức siêu đẳng. Đã có thời gian ông làm thủ thư Đại học Bắc Kinh. Có thời gian
đi dạy học. Thói quen đọc sách theo ông suốt đời, đi đâu ông cũng đọc. Bạn tôi
anh Nguyễn Bá Dũng từng kể với tôi, có thời gian Mao Trạch Đông và Tưởng Giới
Thạch cùng làm việc ở một Bộ tư lệnh quân sự. Nhiều buổi sáng dạy, người ta bắt
gặp Mao và Tưởng cùng ra sân, mỗi người một cuốn sách trên tay. Xòe ra thì đều
là Tư trị thông giám – tấm gương về sự cai trị của Tư Mã Quang
(1019-1086).
Trong một cuốn
sách nói về cuộc hòa giải Trung – Mỹ 1972, tôi thấy người ta kể, tuy Chu Ân Lai
là người trực tiếp đón Nixon, song Mao là người chỉ đạo từng bước cụ thể.
Có một chi tiết liên
quan đến chuyện chúng ta đang nói. Khi Nixon đến thăm Mao,
thấy Mao đang có trên tay cuốn sách mới in ở Mỹ và chắc có ai vừa dịch để
cung cấp cho ông.
Những người lâu nay
chê Mao bảo rằng Mao chỉ thích đọc sách kinh điển Trung Quốc, hóa ra đã
lầm. Mao cũng đọc đủ sách của phương Tây hiện đại.
Tiễn Nixon về,
Chu quay lại báo cáo với Mao. Chu bảo:
– Chúng ta vừa thay
đổi thế giới.
Mao trả lời ngay:
– Trước đó thế giới đã
làm chúng ta thay đổi.
Nhạy bén và hiện
đại ở đây là thuộc tầm vĩ mô!
Cũng như nhiều lãnh tụ
Trung Hoa, Mao cũng làm thơ. Mà ở Trung quốc, cái danh hiệu nhà thơ không dễ dãi
như ở ta. Thơ là lĩnh vực của trí tuệ. Đọc thơ Mao thấy ông có tầm
vóc lịch sử. Lại có người nói qua thơ đã thấy có khí trượng đế vương. Nhưng
mượn cách nói của người xưa, phải nói ông thuộc loại bá đạo chứ
không phải vương đạo.
Có một hồi tôi cứ tưởng
chỉ những trí thức nửa mùa, trí thức nửa đời, nửa đoạn mới chuyển sang lưu
manh. Hóa ra không phải, cái mầm lưu manh đã quá mạnh và nằm sâu trong lõi thì
cái bao quanh nhiều khi không làm cho người ta thay đổi được, dù có đọc bao
nhiêu sách vở nữa cũng không làm cho người ta thành trí thức thực
thụ. Chất trí thức trong Mao là thế.
Trong số các tài liệu
về Mao, tôi bị thuyết phục nhiều bởi cuốn tiểu sử Mao của tiến sỹ Ralf
Berhorst, rồi do Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao
Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất
bản.
Chương đầu của cuốn
này được gọi là Tên cướp đỏ, ở đó người đọc biết rằng từ thời mới
khởi nghiệp, Mao đã lưu manh bao nhiêu trong các hoạt động cách mạng của mình.
Tôi sẽ không thuật lại
ở đây những chi tiết về chất lưu manh chi phối suốt đời Mao mà nhiều người đã
biết. Chỉ nói riêng về chính sách đối với văn nghệ.
Người ta chỉ trách Mao
lưu manh trắng trợn khi ông nói tuột ra rằng, trí thức là đáng khinh bỉ, trí
thức không bằng cục phân. Nhưng ông còn nhiều lần lưu manh xảo trá hơn nữa, ví
dụ ở trường hợp sau.
Hồi 1956, các tài liệu
đều nói Trung quốc có phong trào trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng.
Cái câu “Bách hoa tề phóng bách gia tranh minh” vốn có từ thời cổ được Mao
dùng lại.
Chính Mao đã đề ra
phong trào này để khuyến khích các trí thức góp ý về cách lãnh đạo. Rồi chính
Mao quay lại diệt họ cho họ về vườn, hoặc bắt họ hối cải công khai, ai không
hối cải thì cho đi tù.
Chỗ này thì người ta
có thể bảo Mao là nhà chính trị thủ đoạn, tráo trở, hèn hạ. Theo chỗ tôi biết
thì Stalin cũng triệt hại trí thức nhưng không bao giờ bẫy các trí thức như
Mao.
Ở ta không phải không
có lối cai trị kiểu này. Ví dụ như trường hợp Tố Hữu, sếp lớn của bọn tôi. Mặt
chuyên chế của ông thì bọn tôi đã biết qua những câu chuyện về cách ông xử lý
vụ Nhân văn Giai phẩm. Sau này, đọc hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, tôi được biết “Tố
Hữu trông người nhỏ nhắn, nhẹ nhõm như một thư sinh. Nhưng rất hách. Tôi đã
nghe Hoàng Cầm nói, ông đã từng ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác bằng sáu tiếng
ngắn gọn: “Gọi nó về, bắt lấy nó”.
Nhưng Tố Hữu cũng
lại thường tỏ ra nhân hậu và khuyến khích tài năng, khuyến khích đi tìm
chân lý.
Đây là một đoạn tôi đã
kể trong bài Để hiểu thêm TỐ HỮU
“Những năm chiến
tranh, thỉnh thoảng một số anh em viết trẻ chúng tôi cũng được gọi đi nghe Tố
Hữu nói chuyện. Có một câu ông nói khiến tôi nhớ nhất và phải nói thực sợ nhất,
đó là cái ý ông bảo sang nước ngoài thấy đời sống họ lạnh lùng lắm, về nước
thấy đồng bào mình sống với nhau, ấm cúng hơn hẳn. Ông cũng thường nói là nổi
tiếng ở nước ngoài thì dễ, nổi tiếng ở trong nước mới khó.
Lại có lần khuyến
khích lớp trẻ, ông bảo phải biết đấu tranh cho chân lý, khi cần phải cắn xé
(!). May mà bọn tôi đã nghe nhiều về tính đồng bóng của ông, nên chẳng mấy cảm
động, nhớ đâu hình như chính Xuân Quỳnh bảo rằng có mà ông cho ghè gẫy răng.”
Năm ngoái đây,
đọc Đèn cù của Trần Đĩnh ở chương 8 tập II, thấy có đoạn sau
“… Mai Thế Trạch, con bà Lợi Quyền tư sản từng lẫy lừng chuyện quyên
góp rất nhiều vàng cùng nhà cửa trong Tuần lễ vàng. Còn lại một ngôi, sau được
Ban tuyên huấn Trung Ương đến hỏi. Chê đắt. Đùng một hôm xe tuyên huấn chở mấy
bao tải tiền đến mua, đắt cũng được. Ba ngày sau đổi tiền. Tố Hữu, nguyên
trưởng ban tuyên huấn đã hạ thời cơ tuyệt hảo chấm dứt cơ nghiệp đại gia tư sản
Lợi Quyền có tiếng ở Hà Nội. Bằng giấy lộn. Ai cứ bảo nhà thơ trên gió trên
mây. Còn Thế Trạch bằng số tiền bán nhà kia không mua nổi căn hộ con con ở Sài
Gòn”.
Gộp tất cả
các phương diện nói trên thì mới làm nên ông Lành của chúng tôi.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét