Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2015
Thụy Khuê: Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long: Chương 16: II- Những người Pháp đến giúp Nguyễn Vương
Sau khi đã tạm xác định được tên những người Pháp đã thực sự đến Nam Hà trong khoảng 1789-1790, một số được nhận văn bằng cai đội của Nguyễn Ánh, chúng tôi sẽ lần lượt tìm lại tiểu sử và công lao của họ, trong phạm vi tư liệu cho phép.
Nhưng trước thời điểm 1789-1780, còn
hai người nữa, là Joang (Jean) và Mạn Hoè (Manuel).
Người có công lớn nhất, đã chiến đấu
với Tây Sơn đến cùng và đã tử trận, được các sử gia triều Nguyễn ghi tên là Mạn
Hoè. Và trước ông, còn một người nữa, là Joang (Jean) ít ai biết đến, nhưng chuyện
Joang được ghi lại Sử Ký Đại Nam Việt và Cosserat trong bài Notes biographiques sur les français au service de Gia Long (Ghi chú tiểu sử những người Pháp giúp Gia Long, BAVH, 1917, III, t. 169) cũng tìm thấy giáo sĩ
Houillevaux (Bouillevaux) có nhắc đến Joang trong cuốn L'Annam et le
Cambodge. Sử Ký Đại Nam Việt đặt sự kiện này vào khoảng 1777-1778. Houillevaux
đặt sự kiện vào khoảng 1782, cho nên Cosserat xếp Joang sau Mạn Hoè. Chúng tôi
cho rằng Sử Ký Đại Nam Việt có lý hơn, vì vậy đưa Joang lên hàng đầu trong danh
sách những người đã đến giúp Nguyễn Ánh.
Joang (Jean)
Không biết rõ nguồn gốc và họ. Cosserat
cho biết:
"Có lẽ đã đến Nam Hà vào khoảng
1782. Trong những tư liệu mà tôi [Cosserat] đã khảo duyệt trong khi nghiên cứu, tôi chỉ tìm thấy một
nơi nói đến ông, trong cuốn L'Annam et le Cambodge do giáo sĩ C.E. Houillevaux
viết. Trong chú thích (t. 381), tác giả kể rằng có hai người Pháp phiêu lưu,
xuất hiện giúp đỡ Nguyễn Ánh (Gia Long) trong những năm đầu của cuộc chiến, một
người mà các nhà viết sử biên niên hay nhà báo (chroniqueur,; chú thích của
Cosserat: Chroniqueurs nào?) gọi là Joang (Jean), và một người nữa là Manoe
(Manuel), lính thủy người Bretagne, trước làm cho giám mục Adran... Joang có lẽ
đã dùng trái phá (grenades) trong trận chiến đánh với Tây Sơn, và có lẽ nhờ khí
giới này mà Chuá Nguyễn (Gia Long) đã chiếm lại được Nam Hà lần đầu. Những kẻ
phản loạn không biết khí giới quỷ quái này là gì, chạy hết. Điều này xẩy ra
khoảng 1782 (?)" (Cosserat, bài đã dẫn, t. 169).
Tác giả Sử Ký Đại Nam Việt đặt sự
kiện vào năm Nguyễn Ánh 15 tuổi [1777] bị Nguyễn Huệ truy nã gắt lắm, chỉ còn
hai thầy trò (Nguyễn Ánh và đứa tiểu đồng) ẩn náu trong rừng, may gặp thầy cả
Phao Lồ [tức Paul Nghị hay Hồ Văn Nghị], Ánh xưng danh và nhờ giúp, Nghị chèo
thuyền đưa xuống Hà Tiên, giấu trong nhà Bá Đa Lộc, rồi báo tin cho vị giám
mục, lúc ấy đang ở Cao Mên, biết. Được một tháng, sợ bị lộ, bèn đưa Ánh vào
rừng ẩn, rồi cha Nghị và thầy giảng Toán, thay nhau tiếp tế cho Ánh. Tây Sơn tiếp
tục truy lùng, Ánh ẩn trong thuyền của cha Nghị ở Rạch Giá. Tác giả kết luận: "Vì
chưng nếu không có thầy cả ấy, thì ông Nguyễn Ánh phải bắt chẳng khỏi" (SKĐNV,
t. 13). Và như ta đã biết, linh mục Hồ Văn Nghị sẽ trở thành người thân tín của
vua, sau này được vua giao phó những nhiệm vụ khó khăn, tế nhị.
Vẫn theo Sử ký Đại Nam Việt,
ít lâu sau, Bá Đa Lộc ở Cao Mên về, mới gặp Nguyễn Ánh, và đem Joang về giúp. Tác
giả kể tiếp sang chuyện Joang và chiến công Long Hồ:
"Khi ấy Đức thầy Vê Rô [Bá Đa Lộc] ở Cao Mên mà về, tìm
được ông Nguyễn Ánh; người lại đem theo một Lang Sa, tên là Gioang, có nghề võ
cũng bạo dạn gan [can] đảm và có tài đánh giặc lắm.
Khi ông Nguyễn Ánh đã tu binh đặng ít
nhiều, thì ông Gioang đã giúp người nhiều việc.
Vậy trước hết, khi thấy quan Nhất
Trịnh [Tây Sơn] đã
lấy đặng đồn kia, thì ông Gioang cứ phép tây mà làm nhiều trái phá, đoạn xuống
thuyền lớn. Bấy giờ Nhất Trịnh chưa ngờ điều gì, thì vào Long Hồ, là nơi quân
Tây Sơn đóng nhiều tầu lắm. Vậy ông Nguyễn Ánh làm tướng cai quân, và ban đêm,
thình lình, thì xông vào đánh quân Tây Sơn. Khi ấy, ông Gioang chỉ đốt và bắn
trái phá, nên quân Tây Sơn bất thình lình nghe tiếng trái phá, và thấy nhiều
người chết, thì sợ hãi lắm, vì chưa từng biết sự làm vậy, cũng chưa thấy trái
phá bao giờ, nên bỏ tầu mà nhẩy xuống sông. Những kẻ phải chết chém hay là bị
trái phá thì chẳng bao nhiêu song kẻ chết đuối vì sợ mà vội nhảy xuống sông đè
lộn nhau, thì không biết là ngần nào. Trong trận này, ông Nguyễn Ánh làm tướng [15
tuổi], rất khôn ngoan và gan đảm lắm, vì cũng đánh như lính, dầu chung quanh
người chết gần hết, song ông ấy chẳng phải nao. Khi đã tàn trận mà thấy ông ấy
những máu dầm dề cả mình, mà chẳng bị vết tích gì, thì ai ai đều kể là phép lạ.
Những tầu quân Tây Sơn ở Long Hồ, thì ông Nguyễn Ánh lấy được hết" (Sử
Ký Đại Nam Việt, t. 13-14).
Thực Lục chép vắn tắt trận Long Hồ như
sau: "Tháng 11 (ta) tức tháng 12/1777), đánh úp Điều khiển giặc
là Hoà ở dinh Long Hồ (tức tỉnh Vĩnh Long ngày nay) cả phá được. Tháng 12 (ta,
tức tháng 1/1778) đánh được Sài Gòn" (TL, I, t. 205).
Vẫn theo Sử Ký Đại Nam Việt, Gioang
còn xuất hiện thêm một lần nữa: "Ông Nguyễn Ánh thì cậy ông Gioang sắm
sửa khí giái [giới] cùng đóng nhiều tầu, và sắm nhiều đồ khác cho đặng
đánh giặc theo phép bên Tây" (SKĐNV, t. 14).
Nếu tin Sử Ký Đại Nam Việt, thì ta có
thể tạm tóm tắt tình hình như sau:
Khoảng tháng 11/1777, Bá Đa Lộc từ
Cao Mên về Nam Hà, đem theo Jean, và Jean đã làm trái phá, một loại lựu đạn thô
sơ. Thứ trái phá này nổ làm quân Tây Sơn hoảng sợ, nhẩy xuống sông chết đuối rất
nhiều. Nguyễn Ánh thắng trận Long Hồ, thu được nhiều tầu bè, khí giới của Tây Sơn
làm nền móng, tiếp tục cùng Đỗ Thanh Nhơn và quân Đông Sơn, đánh chiếm Gia Định.
Mạn Hoè (Manuel)
Chuyện Mạn Hoè được nhiều nơi ghi lại
trong sử Việt:
1- Gia Định Thành Thông Chí của
Trịnh Hoài Đức là một trong những tác phẩm đầu tiên viết về Mạn Hoè:
"Tháng 3 [Nhâm Dần, tháng 4/1782], anh em
Tây Sơn là Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ dẫn 3 vạn quân thủy bộ vào
lấy Gia Định. Thuỷ quân của ta bầy trận ở ngã bẩy Cần Giờ, quân Tây Sơn nhờ
thuận gió và thủy triều nên căng no buồm xông thẳng vào, quân ta không đánh mà
tự tan rã, chỉ có chiếc tầu phương Tây của Mạn Hoè là chống cự được lâu. (Mạn
Hoè là người nước Pháp, theo giúp rất hiệu dụng, làm quan đến Khâm sai Cai cơ
quản đội Trung Khuông, được phong tước An Hoà Hầu, khi chết được tặng là Hiệu
Nghiã công thần phụ quốc Thượng tướng quân, được tòng tự ở miếu Hiển Trung).
Nguyễn Huệ cho quân vây đánh đốt cháy tầu đó, Mạn Hoè chết, quân Tây Sơn thừa
thắng phá luôn quân ta ở ngã ba Lôi Sạp (Soi Rạp), thẳng tiến Bến Nghé, quan
quân phải chạy tan tác." (Gia Định Thành Thông Chí, Trấn Hà Tiên, bản điện
tử do Lý Việt Dũng dịch và chú giải).
2- Đại Nam Thực Lục soạn sau Gia
Định Thành Thông Chí, chép rằng:
"Tháng 3 [Nhâm Dần, tháng 4/1782], giặc Tây
Sơn Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ vào đánh phá. Văn Nhạc nghe tin Đỗ Thành
Nhân đã bị giết, mừng nói: "Thanh Nhân chết rồi, các tướng khác không đủ
sợ nữa!" Bèn đem chiến thuyền vài trăm chiếc, cử đại binh vào đánh. Quân
Tây Sơn đến cửa biển Cần Giờ. Vua sai Tống Phước Thiêm điều bát trận thủy binh
ở Ngã Bẩy (Thất Kỳ giang). Giặc nhân gió mạnh xông thẳng tới. Quân ta phải lùi.
Một mình cai cơ là Mạn Hoè, đi tầu Tây cố sức đánh rất lâu. Giặc đổ quân bao
vây bốn mặt, ném hỏa khí đốt tầu, Mạn Hoè bị chết (Mạn Hoè là người Phú Lãng
Sa, Bá Đa Lộc giới thiệu là người dùng được, vua trao cho chức Khâm sai Cai cơ
coi đội Trung Khuông, sau được tặng là Hiệu nghiã công thần phụ quốc thượng
tướng quân)" (TL, tập I, t. 211-212).
3- Sử Ký Đại Nam Việt viết về
Mạn Hoè với những chi tiết không có trong chính sử:
"Ông Nguyễn Ánh sai ông Hữu
Ngoại [Đỗ Thành
Nhơn] đi với người Lang Sa kia, đã sang với đức thầy Vê Rô [Bá Đa Lộc]
mà ở lại giúp việc nhà nước, tên là Manoe (Emmanuel)" (Sử ký Đại
Nam Việt, t. 15).
Vài trang sau, tác giả tả trận Long Hồ,
tháng 4/1782 như sau:
"Vua nghe tin ấy [tin Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ vào đánh]
chẳng lấy làm lo chút nào, bởi có nhiều tầu, nhiều ghe, cùng khí giái [giới]
sẵn; lại có nhiều binh sĩ lắm. Vậy vua bắt các quan và binh sĩ đi đón quân
giặc. Trước hết có một ông Manoe, là người Lang Sa, cai một chiếc tầu lớn:
Chẳng hay những tầu vua xuống sông đi ngược nước, chưa ra cửa [Cần Giờ],
liền gặp những thuyền quân giặc Tây Sơn vào cửa đi xuôi nước. Mấy tầu vua có
một chiếc đi trước là tầu ông Manoe, phòng triệt chẳng cho quân Tây Sơn vào
cửa.
Bấy giờ quan quân thấy tầu quân Tây
Sơn vào cửa mà chạy xuôi nước thuận gió làm vậy, thì kinh khiếp cả. Vả lại ông
Manoe chẳng quen đàng [đường],
thì tầu phải [mắc] cạn, chẳng còn đi được; lại chẳng ai có gan đến cứu
người. Quân trong tầu thấy làm vậy, lại quân giặc ở gần lắm, thì mất viá. Lại
thấy tầu đã bê vào bờ, nên quân ấy chạy trốn, chẳng còn ai ở lại. Ông Manoe một
mình ở trong tầu túng lắm; song chẳng ngã lòng, một cứ thói quân lính bên tây
mà đánh cho đến chết. Quân giặc thấy tầu phải cạn thì đua nhau đến. Nhưng mà
bao nhiêu người xuống tầu ấy thì ông Manoe chém đi hết. Song bởi quân ấy đông
quá, mà ông Manoe thì một mình chẳng làm chi được. Bấy giờ ông ấy thấy tầu đầy
quân giặc, thì xuống dưới lòng xét, nơi đã quen trữ thuốc súng mà đốt đi. Cho
nên bỗng chốc cả thuyền vỡ ra cháy cách gớm ghiếc lắm; bao nhiêu người trong
tầu chết hết; và những chiếc tầu ở xung quanh thì phải vỡ cả. Ông Manoe chết
cách khốn nạn như vậy; song thiên hạ khen là "anh hùng" (Sử
ký Đại Nam Việt, t. 24).
Tập hợp cả ba nguồn tin trên chúng ta
có thể tóm tắt trận Ngã Bẩy như sau:
Tháng 4/1782, nghe tin Đỗ Thanh Nhơn đã
bị Nguyễn Ánh giết, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ thống lĩnh đại binh vào đánh Gia Định.
Nguyễn Ánh sai Tống Phước Thiêm dàn quân chống giữ ở Ngã Bẩy (Thất Kỳ Giang), nơi
bẩy giòng sông giao nhau. Thuyền Tây Sơn xuôi chiều gió, mạnh tiến vào cửa Cần
Giờ. Quân của Tống Phước Thiêm tan rã. Tầu của Mạn Hoè, không thuộc đường sông,
bị mắc cạn. Theo Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Huệ cho quân bao vây, "ném hỏa khí
đốt tầu". Như vậy quân của Nguyễn Huệ đã dùng "hoả khí", có thể
hiểu là một loại "trái phá" chăng?
Theo Sử Ký Đại Nam Việt, Mạn Hoè tự đốt
thuốc súng của tầu, để chết cùng địch quân.
Trịnh Hoài Đức nói: "Nguyễn
Huệ cho quân vây đánh đốt cháy tầu đó" và Thực Lục nói: "Giặc
đổ quân bao vây bốn mặt, ném hỏa khí đốt tầu", tức là tầu của Mạn Hoè
bị quân của Nguyễn Huệ đốt; có thể vì Thực Lục chép Gia Định Thành Thông Chí,
hoặc vì một lý do nào khác, cả hai nguồn tin này đồng quy.
Đối với triều đình, Mạn Hoè là người
anh hùng và có công nhất. Sau khi chết, ông được thăng Hiệu Nghiã công thần phụ
quốc Thượng tướng quân, bài vị được thờ ở đền Hiển Trung cùng các danh tướng khác. Đền Hiển Trung ở trên đường Sài Gòn-Chợ Lớn, Pháp
gọi là Pagode des Mares, và bị Pháp tiêu hủy trong trận đại đồn Kỳ Hoà với
Nguyễn Tri Phương, năm 1861.
4- Cosserat trong bài Notes
biographiques sur les Français au service de Gia Long (Ghi
chú tiểu sử những người Pháp giúp Gia Long), (BAVH, 1917, III, t. 166-169) viết khá dài về
Mạn Hoè, ông kể hai câu chuyện: linh mục Bouillevaux viết về cái chết của Mạn
Hoè và chuyện Bá Đa Lộc tâu vua Louis XVI về Mạn Hoè, để thuyết phục vua Pháp ký
hiệp ước cầu viện.
Linh mục Bouillevaux trong cuốn l'Annam
et le Cambodge kể rằng: "... Người lính can đảm này điều khiển một
chiếc thuyền chiến ở trận Cần Giờ, thuyền anh bị nạn, thuỷ thủ bỏ hết, chỉ mình
anh ở lại, dũng mãnh như sư tử, nhưng bị Tây Sơn bao vây tứ phía, thấy họ đã
lên thuyền, anh châm lửa vào thuốc súng, cùng nổ với kẻ thù."
Bouillevaux viết gần giống Sử ký Đại
Nam Việt, vậy có thể ông đã tham khảo cuốn sử này, hoặc cả hai viết theo tài liệu
nhà dòng.
Khi Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh sang
Pháp cầu viện, ngày 5 hay 6/5/1787 ông được vào triều kiến vua Louis XVI, với sự
hiện diện của Thống chế de Castries, Bộ trưởng hải quân và Công tước de
Montmorin, Bộ trưởng ngoại giao.
Nội dung buổi triều kiến được hai bộ
trưởng tham dự ghi lại trong notes, và được lưu
trữ trong văn khố bộ Hải quân và bộ Ngoại giao; Faure sưu tầm hai bài notes này,
viết lại trong cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine (sẽ dẫn là Faure) (t.
78-85). Không rõ ông có thêm thắt gì không.
Theo Faure, Bá Đa Lộc
trình bầy tình hình chung đại khái như sau: Việt Nam có vị trí thuận lợi, ai
chiếm được thì có thể làm chủ sự lưu thông cả vùng, ngăn ngừa được đế quốc Anh
bành trướng. Những lợi ích đem quân giúp Nguyễn Ánh rất lớn mà sự đổ bộ lên vịnh
Đà Nẵng là an toàn, vv... Bá Đa Lộc xác định với Pháp hoàng rằng lực lượng thủy
binh của Tây Sơn không có gì đáng kể, ông nói: "Những chiến thuyền mạnh
nhất của chúng chỉ bằng thứ tầu nhỏ ba buồm (chasse-marée) của ta. Thần có thể
nói rằng, trong [trận chiến] lúc bắt đầu cuộc nổi loạn, một thần dân can
đảm của bệ hạ mà hạ thần dẫn từ Pondichéry đến giúp Nguyễn Ánh, chỉ huy một tầu
bé, với 10 đại bác rất nhỏ và vài tên lính thuỷ ở vùng Gia Định (Sài Gòn); vậy
mà cũng cầm cự được một ngày, chống lại cả một hạm đội của quân địch gồm 100
chiến thuyền, mà không bị bắt. Đúng, là anh tử tiết với tầu. Đúng, anh là một
người Pháp can đảm, có một nghị lực phi thường, mà tên tuổi anh, vì hành động này,
sẽ mãi mãi là thần tượng ở nước Nam" (Faure, t. 82-83).
Không rõ vì cố ý hay vì
không biết, mà Bá Đa Lộc đã báo cáo sai lầm về sức mạnh quân sự của Tây Sơn, và
về sự cầm cự của Mạn Hoè. Nhưng chính những sai lầm này, kèm theo sự lầm lẫn có
thể đổ bộ dễ dàng lên vịnh Đà Nẵng (lúc đó Quang Trung đang làm chủ) mà giám mục
Bá Đa Lộc đã gặp những cản trở của phe chống lại việc cầu viện.
Dù sao chăng nữa, thì
hai người Pháp Jean (Joang) và Manuel (Mạn Hoè) là hai người đã giúp Nguyễn Ánh
trong thời điểm đầu giao tranh với Nguyễn Huệ.
Khi phái đoàn Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh
từ Pháp về tới Pondichéry (1788) dư luận chắc khá sôi nổi, cho nên có một số thủy
thủ đào ngũ trên các tầu Pháp, và một số người khác, từ Pondichéry hay Macao tìm
đến Nam Hà đầu quân dưới cờ Nguyễn Ánh. Trong số đó có: Guillaume Guilloux, Jean-Baptiste
Guillon, Julien Girard de l'Isle-Sellé, vv... Chúng tôi sẽ lần lượt, tìm lại dấu
vết của họ dưới đây.
Guillaume Guilloux
Quê ở Vannes (Morbihan), tình nguyện binh
nhất trên tầu Le Duc de Chartres. Theo danh sách thuỷ thủ đào ngũ của Faure, Guilloux
lên Pondichéry ngày 22/6/1784, và ở lại (Faure, t. 246). Từ năm 1784 đến
1790 không biết Guilloux làm gì. Ông được văn bằng Phó cai đội của vua ngày
27/6/1790, trong có câu:
"Hoàng thượng nhận thấy, dù J.
Guilloux, quốc tịch Pháp, chưa có cơ hội làm việc nhiều, nhưng đã tỏ ra có
thiện chí, nhất là đến từ rất xa, để phục vụ trong thuỷ binh của nhà vua; vì
thế hoàng thượng ban cho chức Phó cai đội nhuệ tài hầu, dưới quyền của JM. Dagot
[Dayot]. .."
(Louvet, I, t. 538).
Trong thư của Le Labousse gửi Hội
thừa sai Paris ngày 16/6/1792, có câu:
"Tất cả những người Pháp ở đây
giúp vua được hơn hai năm, đều trở về Macao. Trong đó có hai anh em Dayot, quê
quán Rhedon, ông Vannier, quê Auray. Các ông Launey và Guilloux quê ở Vannes,
đều đã sang lại Pondichéry rồi; Launey, ngày mồng một năm ngoái [1/1/1791], và Guilloux tháng
giêng vừa rồi..." (Cadière, Documents relatifs à l'époque de Gia
Long, BEFEO, t. 28).
Như vậy, Guilloux bỏ Nam Hà, trở
về Pondichéry tháng 1/1792. Và theo Cosserat, thì "Đi mất, không
để lại dấu vết" (Cosserat, bđd, t. 172).
Jean-Baptiste Guillon
Quê ở Vannes (Morbihan, Bretagne). Theo
danh sách thủ thủy đào ngũ của tầu Dryade, Faure viết:
"Tình nguyện binh nhì (nhận ngày
22/12/1787), trên tầu Dryade, rời cảng Lorient ngày 27/12/1787. Vào bệnh viện
Pondichéry ngày 1/8/1788, ra ngày 14/8/1788. Trở lại Pondichéry cùng với tầu
ngày 1/7/1789 và ở lại đây. Chú thích: Tới Brest, mang giấy thông hành của toà
thị chính Saint-Brieuc ngày 18 Germinal năm thứ XIII, (18/4/1804), lên tầu
Républicain làm đội phó tài công (deuxième maitre de timonerie)" (Faure, t. 242).
Như vậy, Guillon đến Pondichéry từ ngày
1/7/1789, ở lại đây không biết bao lâu rồi tìm cách đến Nam Hà. Guillon nhận văn
bằng phó cai đội của vua ngày 27/6/1790, trong có câu:
"... tuy chưa có cơ hội trổ
tài, nhưng đã tỏ ra có thiện chí, đến từ rất xa để phục vụ trong thủy binh của
nhà vua. Hoàng Thượng tin tưởng vào tài năng của y, với văn bằng này, ban cho y
chức Phó cai đội oai dõng hầu, dưới quyền của JM Dagot [Dayot]..."(Louvet,
I, t. 537)
Faure còn viết thêm rằng: "Ông
Guillon, nhận chức Lieutenant de vaisseau Nam Hà ngày 27/6/1790, đã phụng sự ở
đó cho tới ngày về lại Brest, tức là trong vòng 14 năm" (Faure, t. 242).
Câu này chắc là sai, vì Thực Lục không ghi tên Guillon trong các chiến dịch hành
quân và Cosserat cho biết, ông cũng không tìm thấy dấu vết gì của Guillon trong
vòng 14 năm này (Cosserat, t. 172).
Cần phải nói thêm, Jean-Baptiste
Guillon tình nguyện trên tầu Dryade, tầu này rời Lorient ngày 27/12/1787, trên có
Olivier de Puymanel và phái đoàn Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh. Vậy có thể Guillon
đã quen Puymanel và Bá Đa Lộc trong chuyến đi này. Và có thể đó là lý do khiến
Guillon tìm đến Nam Hà.
Julien Girard de l'Isle-Sellé
Không biết quê ở đâu. Theo Cosserat,
có lẽ là công chức thuộc địa, vì không thấy tên trong danh sách thủy thủ đào ngũ
của Faure. Trong văn bằng vua cấp cho Isle-Sellé ngày 27/6/1790, có câu:
"...với văn bằng này, cấp cho y
chức Cai đội long hưng hầu, giao cho y quản chiếc tầu Le Prince de la
Cochinchine, dưới quyền điều khiển và phải tuân mọi lệnh của Jean-Marie Dagot [Dayot], chỉ huy phân khu có tầu
này" (Louvet, t. 535).
Văn bằng này rất giống văn bằng của
Vannier, cả hai đều ở dưới quyền Dayot. Tuy nhiên không thấy Thực Lục nói đến tên
ông, và Cosserat (t. 173) cũng cho biết: có lẽ ông không ở lâu vì, tôi không tìm
thấy tài liệu gì của ông sau năm 1790.
Jean-Marie Despiaux ( ?-1824).
Jean-Marie Despiaux là một bác sĩ, ở
Nam Hà từ 1799 đến khi ông mất, khoảng năm 1824. Ông được vua Minh Mạng giao
cho đi Macao mua thuốc phòng ngừa (vaccin) không rõ ngừa bệnh gì.
Không biết ông đến Nam Hà năm nào, nhưng
được nhận văn bằng của vua ngày 2/4/1799.
"Văn
bằng cấp cho M. Despiaux
Trẫm, vua
Nam Hà, cấp bằng này cho Jean-Marie Despiaux, quốc tịch Pháp. Người có tên J.M.
Despiaux, nghe tiếng trẫm lãnh đạo công minh đã tìm đến Nam Hà, trẫm biết y có
tài làm thuốc, ban cho y chức bác sĩ trong quân đội, lệnh xuống tầu Phụng [Phượng phi]
theo quân, sẵn sàng tới bất cứ nơi nào cần gọi, để hành nghề. Nếu người mang
tên J.M. Despiaux, không chu toàn bổn phận, sẽ bị trừng phạt theo đúng luật
pháp. Khâm tai."
Ngày
2/4/1799. (Louvet, I, t. 537).
Cosserat
cho biết: Despiau (hay Despiaux, tên những người Pháp mỗi chỗ viết một khác)
quê ở Bazas (Gironde ). Bác sĩ giải phẫu. Chắc
chỉ có vai trò rất phụ. Theo Đức Chaigneau, ông đã có thời ở Macao rồi đến nước
Nam, được người Pháp ở đây đón tiếp nên quyết định ở lại, và làm việc trong số
các thầy thuốc của Gia Long. Người ta chỉ biết chắc rằng ông có mặt lúc Bá Đa
Lộc mất, ngày 9/10/1799 ,
và ông đã săn sóc cho vị giám mục tới phút cuối.
Lá thư của
Vannier viết cho M. Baroudel ngày 13/7/1820 , cho biết:
"Tôi
[Vannier] đề nghị với vua [Minh Mạng] sai M. Despiau đi tìm [thuốc
vaccin ở Macao đem về], ông ở đây đã lâu và cũng là một trong những thầy
thuốc ở trong cung. Nhà vua bằng lòng..." (Cadière, Doc. Rel., BEFEO, t.
63).
Một lá thư
nữa của giám mục La Bartette gửi M. Baroudel từ Huế ngày 2/8/1821 (Cadière, Doc. Rel. BEFEO, t.
65) và một thư khác của Vannier gửi cho M. Baroudel từ Huế ngày 2/8/1821 (Cadière, Doc. Rel.
BEFEO, t. 67) cũng nói đến sự hiện diện của M. Despiau vào thời điểm này.
Rồi không
có tin gì nữa, cho đến năm 1825, trong bản báo cáo của nam tước Bougainville
gửi Bộ trưởng Thuộc địa và Thủy quân, viết từ Đà Nẵng, ngày 12/2/1825, trên tầu
La Thétis có câu: "Ngay hôm tôi đến đây, tôi đã trao cho quan sở tại
một lá thư cho ông Chaigneau, trong đó tôi yêu cầu ông đến Đà Nẵng và thông báo
sự cập bến của Hạm đội; tôi không biết ông quan này đi lúc nào, chỉ ngày hôm
sau nữa, ngày 14, tôi mới biết là chỉ còn có một người Pháp ở đây, ông Despiau,
thầy thuốc, vừa mới chết..." (Cordier, Le consulat de France à Huế,
t. 106).
Theo Đức
Chaigneau (Souvenirs de Huế, t. 231): " Ông Despiau, những khả
năng trí tuệ đã bị mất đi, không còn sáng suốt để làm thầy thuốc, điều mà ông
nhận là đã có học trong thời trẻ. Người ta gọi ông là bác sĩ, nhưng ông chỉ có
tên thôi, còn thì ông chỉ cho thuốc chữa bệnh ngoài da, mà người Việt rất
thích. Ông Despiau thuộc đám kiều dân nhỏ chúng tôi, không có gia đình ở Huế,
rất thân với hai gia đình Pháp chúng tôi [Chaigneau và Vannier] mà ông
coi là gia đình ông" (Trích theo Cosserat, bđd, t. 177-178).
De Forçant (Forçanz) (?-1811) và trận
Thị Nại 1801
Quê miền nam Bretagne. Không có tên
trong danh sách 369 người lính đào ngũ do Faure cung cấp. Louvet đưa de Forçanz
vào danh sách những sĩ quan đến nước Nam cùng Bá Đa Lộc năm 1789, nhưng,
Louvet, ngoài sưu tập văn bằng vua cấp cho người Pháp, những điều ông viết về
giai đoạn này không có gì bảo đảm.
Theo chính sử Việt, đầu năm 1800, khi
Nguyễn Ánh quyết định đem quân giải vây cho Võ Tánh và Ngô Tòng Châu đang bị Trần
Quang Diệu bao vây rất ngặt trong thành Bình Định, de Forçant cùng Vannier và
Chaigneau được bổ vào Trung quân, dưới quyền điều khiển của Tống Phước Lương; từ
tháng 3/1800, họ quản ba tầu đồng, đi theo hải quân của Nguyễn Văn Trương,
trong chiến dịch.
Thực Lục, việc tháng 2 ÂL (tháng 3/1800)
ghi:
"Sai khâm sai thuộc nội cai đội
Nguyễn Văn Chấn [Vannier]
quản tầu đại hiệu Phượng phi, Nguyễn Văn Thắng [Chaigneau] quản tầu đại
hiệu Long phi, Lê Văn Lăng [de Forçant] quản tầu đại hiệu Bằng phi, theo
Trung quân sai phái đi đánh giặc. (Bọn Chấn đều là người Phú Lãng Sa)" (TL,
I, t. 407).
Nhưng Nguyễn Vương không thể giải vây
được Bình Định vì lực lượng thủy quân hùng hậu của Võ Văn Dũng đậu ở cửa Thị Nại.
Đặng Đức Siêu bầy kế đánh hoả công và
dụng cụ đã làm xong.
Nguyễn Vương mật định hôm 28/2/1801 sẽ
tấn công chớp nhoáng.
Trận Thị Nại thứ hai (trận Thị Nại thứ
nhất tháng 7/1792, Nguyễn Ánh phá tan thuỷ quân của Nguyễn Nhạc) xẩy ra ngày
1/3/1801, Nguyễn Ánh phá tan thuỷ quân của Võ Văn Dũng, đó là chiến thắng lớn nhất của Nguyễn Ánh, đưa chiến
tranh vào ngõ quặt quan trọng.
Trong trận này, de Forçant, Vannier và
Chaigneau điều khiển ba chiếc thuyền đồng hộ tống vua. Mặc dù thắng lớn, nhưng quân
Nguyễn vẫn không giải vây được Bình Định. Đặng Đức Siêu dâng kế đánh ra Quảng
Ngãi, Quảng Nam trước.
Thực Lục, tháng 2 ÂL (tháng 3-4/1801):
"Sai Nguyễn Văn Trương điều bát thuỷ quân tiến ra Quảng Ngãi,
Quảng Nam đánh giặc. Vệ uý vệ Tuyển phong hữu Tả dinh quân Thần sách là Phan
Văn Đức. Vệ uý vệ Phấn dực Trung quân là Tống Phước Lương, Chánh vệ vệ Thuận võ
là Vương Văn Học và các chúa tầu hiệu Long phi, Phượng phi, Bằng phi là bọn
Nguyễn Văn Chấn [Vannier], Nguyễn Văn Thắng [Chaigneau],
Lê Văn Lăng [de Forçant] đều thuộc quyền" (TL, I, t. 432).
Trong chiến dịch Quảng Nam, de Forçant,
Vannier, Chaigneau, ở dưới quyền điều khiển của tướng Phạn Văn Nhân đánh vào cửa
biển Đà Nẵng.
Sau khi Nguyễn Văn Trương chiếm lại
dinh Quảng Nam. Nguyễn Ánh ban thưởng cho tướng sĩ thắng trận, trong dịp này, De
Forçant, Vannier, Chaigneau, được thăng chức Cai cơ. Thực
Lục, tháng 6 ÂL (tháng 7/1801) ghi:
"Cho Khâm sai thuộc nội cai đội Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Văn Chấn,
và Lê Văn Lăng làm Khâm sai thuộc nội cai cơ, vẫn quản các thuyền hiệu Long
phi, Phượng phi và Bằng phi" (TL, I, t. 451).
De Forçant và
Vannier được sai nhiệm vụ tải lương. Thực Lục, tháng 11 ÂL (tháng 12/1801) ghi:
"Sai chúa tầu Phượng phi là Nguyễn Văn Chấn và chúa tầu Bằng phi là Lê
Văn Lăng chở 15.000 phương gạo từ Quảng Nam đến quân thứ Thị Nại" (TL,
t. 474).
Về phiá tài liệu Pháp, sự hiện diện
của de Forçanz được ghi nhận từ năm 1800, trong lá thư của Le Labousse gửi hội
thừa sai Paris, viết ngày 24/4/1800.
Đây là lá thư dài linh mục Le
Labousse viết về công trạng của vua Gia Long, có một đoạn nói đến chuyện Gia Long tự đóng tầu theo lối Âu Châu,
trong đó có câu: "Tầu Bằng Phi [l'Aigle] 26 đại bác, do
de Forçant, người miền nam Bretagne, điều khiển" (Cadière, Documents
relatifs à l'époque de Gia Long (Tài liệu liên quan đến thời Gia Long), BEFEO,
t. 39).
Về phiá Pháp, cũng có nhiều chứng từ về
việc de Forçant dự trận Thị Nại 1801:
1- Thư của Chaigneau viết cho Barisy
ngày 2/3/1801, có câu:
"Barisy thân. Chúng ta vừa đốt
sạch thủy quân của địch, không thoát một ghe. Cho tới bây giờ, trận này đẫm máu
nhất của quân đội nước Nam. Địch chiến đấu đến chết. Phía ta cũng có nhiều
người chết và bị thương, nhưng so với thắng lợi mà vua thu được thì chẳng có gì
đáng kể. Vannier, Forçanz và tôi đều dự trận và trở về lành lặn..." (Doc. Rel., BEFEO, t. 39-40).
2- Lá thư dài của Barisy gửi M. Létondal
ngày 11/4/1801, mô tả trận Thị Nại, tuy Barisy không nói đến nhiệm vụ của ba người
này trong trận chiến, nhưng có nhắc đến tên ba người Forsanz, Vannier và
Chaigneau (Doc. Rel., BEFEO, t. 41).
3- Thư của Le Labousse gửi về hội
thừa sai, đề ngày 20/4/1801, ở Bình Khang, cũng mô tả trận Thị Nại 1801, nhưng ông
viết về nhiệm vụ của những người Pháp này một cách chi tiết, đặc biệt ông kể lại
chiến công của de Forçant:
"Chiến thắng lẫy lừng nhất, sẽ
để lại dấu ấn trong biên niên sử nước Nam, là vua vừa thắng thủy quân Tây Sơn ở
hải cảng Quy Nhơn, chỗ trên bản đồ đề Chine-Chine [Thị Nại]. Ở đó, cách đấy 7, 8 năm trước, ông
đã phá hải quân của địch. Ông vừa tái tạo việc này lần thứ nhì hôm 1/3.
(...)
"Những sĩ quan Pháp, các ông Chaigneau,
Vannier, và De Forçanz, điều khiển các tầu le Dragon [Long Phi], le Phoenix [Phượng Phi]
và L'Aigle [Bằng Phi] cũng đi chiến dịch này.
Mỗi người với tầu trang bị khí giới,
có nhiệm vụ hộ tống nhà vua và phò trợ tất cả những thuyền chiến trở về. (Ils
accompagnèrent le roi chacun avec un bateau bien armé et ce fut eux qu'il
chargea de faire entrer toutes les galères).
Nhưng lúc đánh nhau, họ bị giữ lại để
hộ tống vua. Khi nghe thấy tiếng đại bác nổ, máu Pháp sôi sục trong huyết quản,
vua phải nghiêm cấm mới cản được lòng nhiệt thành của họ. Giữ họ lại bên vua
còn khó hơn là thúc quân tiến lên giữa những trận mưa đại bác. Ông de Forçanz
đã không dằn lòng trước cơn hăng say chiến đấu; lòng can đảm thúc đẩy, đang đêm
lẻn vào cảng một mình đốt hết bẩy tầu chiến trang bị khí giới nhiều nhất.
Các ông Vannier và Chaigneau cũng có
thể làm được như thế, nếu làm theo lòng can đảm, nhưng các ông nhớ ra rằng mình
có nhiệm vụ canh gác cho cả ngai vàng trong con người nhà vua" (Doc. Rel., BEFEO, t. 45-46).
Đoạn văn rất hào hứng này của vị linh
mục phô trương lòng nhiệt thành và sôi sục của Vannier, Chaigneau, và nói đến hành
động can đảm và chiến công của de Forçant, và cũng cho ta biết: Trong trận Thị
Nại, ba người này chỉ huy các tầu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi có nhiệm vụ
hộ tống vua. Một một tư liệu khác, cho biết, bộ chỉ huy của Nguyễn Vương đậu ở một
vịnh kín đáo, cách chỗ đánh nhau khá xa. Như vậy ta có thể hiểu những tầu hộ
tống cũng không phải xông pha tên đạn nhiều.
Lá thư nổi tiếng của Barisy, viết
ngày 16/7/1801 cho các ông Marquini và Létondal, kể về trận Phú Xuân, cũng nhắc
đến tên de Forçanz, Vannier và Chaigneau, trong trận đánh Huế.
Còn theo Cosserat, thì đó là lần chót
ông thấy tên de Forçanz.
Sau chiến thắng Phú Xuân, cả ba người
Pháp theo giúp Nguyễn Ánh: de Forçanz, Vannier và Chaigneau, sẽ được thăng chức
Chưởng Cơ. Cả ba đều lấy vợ Việt và ở lại Huế.
Trong thư của M. Audemar, viết tại
Nam Kỳ ngày 28/4/1811 báo tin J.M Dayot vừa chết vì đắm tầu, có thêm câu : "M.
De Forçanz cũng mới chết và chết trong điạ ngục (en réprouvé); ít ra chúng ta
không có một ức đoán nào để tin rằng ông ấy đã tự cứu rỗi linh hồn"
(Doc. Rel,
BEFEO, t. 61).
Vậy de Forçanz từ trần trong tình trạng
bỏ đạo. Ông được chôn ở Huế năm 1811.
Cosserat (t. 189) trích theo Đức
Chaigneau, trong Souvenirs de Huế, (t. 194, note 1) cho biết nhà Forçanz
ở Bao Vinh đối diện với nhà Vannier.
Mộ ông nằm trên bờ phải kênh Phủ Cam,
xóm Phủ Tú, làng Dương Xuân, huyện Hương Trà; năm 1898, đề tên mộ Vannier, nhưng
Vannier về Pháp và mất ở Lorient. Cadière chứng minh đó là mộ de Forçant (Cadière,
Les Français au service de Gia Long, BAVH, 1918, II, t. 59-60).
Theo Cadière: "Nghe nói de Forçant
có nhiều con: cậu Của (Nguyễn Văn Của), cậu Vinh (Nguyễn Văn Vinh), cậu Nhỏ
(Nguyễn Văn Nhỏ)... một người đi ra nước ngoài rồi về chết ở Nam Hà. Một người
khác, đã kết thúc trong nghèo đói, bên bờ dốc thành nội, nơi anh ta ở, gần kho
gỗ cũ (mộc thương). Một người con gái không để lại dấu vết. Cậu Nhỏ có lẽ đã
mất lúc còn bé, và được chôn cạnh cha. Còn cậu Của, đã để lại kỷ niệm trong
lòng họ đạo Phủ Cam, như một kẻ cờ bạc, không làm ăn gì cả". (Cadière,
bđd, t. 65).
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét