Thứ Bảy, 23 tháng 5, 2015
Thụy Khuê - Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long (Chương 12)
Chương
12 : Huyền
thoại Le Brun và Puymanel
xây thành Gia Định và Diên Khánh
xây thành Gia Định và Diên Khánh
Trong chương
này, chúng tôi khảo sát những nguồn cội mà các sử gia thuộc địa dựa vào để
"chứng minh" Puymanel và Le Brun xây thành Gia Định và Diên Khánh.
Nguồn phát
xuất thông tin Le Brun và Puymanel là kỹ sư xây dựng đầu tiên ở Việt Nam, không
nhiều, chỉ có hai:
1- Bản
báo cáo của de Guignes
2- Lá
thư của giáo sĩ Lavoué
Như đã nói
trong chương trước, de Guignes là một agent của lãnh sự quán Pháp tại Quảng
Đông, thường gửi những bản báo cáo về Bộ Ngoại Giao. Chữ agent có nghiã
là nhân viên hay điệp viên, nhưng một nhân viên của toà lãnh sự chuyên viết những
bản báo cáo mật về Bộ ngoại giao thì đích thực là điệp viên. Alexis
Faure, khi soạn cuốn Bá Đa Lộc, đã sưu tầm trong Văn khố ngoại giao
những văn bản này, và cho in lại một số trong sách của ông. Riêng bản báo cáo
ngày 29/12/1791, có một câu, sẽ được các ngòi bút thuộc địa sử dụng như tài liệu
chính để xác định: Olivier de Puymanel và Le Brun là tác giả thành Gia Định, và
Puymanel là người xây thành Diên Khánh và các thành trì Vauban khác ở Việt Nam.
Rồi một số tác giả Việt, coi thường hoặc không đọc quốc sử, cứ thế chép lại lập
luận của Pháp.
Điệp
viên de Guignes, kẻ sáng tạo câu chuyện Puymanel và Le brun xây thành
Chúng ta
thử xem ngày 29/12/1791, điệp viên de Guignes của Pháp ở Quảng Đông viết gì về
tình hình Việt Nam lúc bấy giờ:
"Nếu
vua Nam Hà muốn, trong hai năm 1789 và 1790, ông ta đã có thể khôi phục ngay
tức khắc vương quốc của ông. Việc các tầu La Dryade, Le Pandour và La Méduse,
cùng những tầu khác đến từ Pondichéry, L'Ile de France [tức Ile Maurice]
và Macao, đã làm cho kẻ thù khiếp sợ. Bắc Hà đang đợi cơ hội thoát khỏi gông
cùm để nhận diện vị vua thực sự của mình. Nhưng một vài thành công của ông vua này
ít có hiệu lực hoặc không bền. Ông ta chiếm được một vùng (Bình Thuận) để lại
ít quân, thế là bị đánh đuổi ngay; ngụy quân lại hy vọng, và hy vọng càng tăng
vì tư cách của ông ta. Các ông Olivier và Le Brun, sĩ quan Pháp, đã
cho ông ta một cái bản đồ thành đài. Nhà vua muốn xây ngay một thành,
mặc dù cần phải có thời gian thuận lợi. Vì vậy phải sách nhiễu dân chúng, phá
nhà cửa, bắt 30.000 dân công làm thành cho vua có nơi rút quân khi thua trận.
Quần chúng và quần thần nổi dậy. Olivier và Le Brun, hai tác giả công trình
này cũng bị vạ lây. Giám mục Bá Đa Lộc, phải đưa hai ông về trốn ở nhà mình
mới tránh khỏi tai nạn này. Tuy nhiên tình hình yên tĩnh trở lại, nhà vua cho
giải binh để mọi người về cấy cấy. Hy vọng sẽ được mùa. Dân chúng không ta thán
nữa."[1] (1) (Báo cáo của de
Guignes gửi Bộ trưởng Ngoại giao ngày 29/12/1791, Archives des Affaires étrangères;
Faure, Chương 18, t. 214-215).
Đoạn báo
cáo trên, trừ việc Nguyễn Ánh chiếm Bình Thuận, rồi không giữ được, phải trở về
Gia Định, là đúng (Theo Thực Lục, tháng 5-6/1790, Lê Văn Quân, tư lệnh quân đội
bàn đánh Quy Nhơn, Nguyễn Văn Thành gạt đi, Nguyễn Ánh đồng ý. Quân Nguyễn
chiếm được Bình Thuận nhưng thua to ở Diên Khánh, Nguyễn Ánh phải rút về Gia Định.
Tháng 2/1791, Lê Văn Quân, bị đình thần kết án, tự tử). Những câu còn lại trong
bản báo cáo này hoàn toàn sai, chứng tỏ de Guignes không biết gì về tình hình
Việt Nam lúc đó, nếu y là điệp viên cho chính phủ Pháp, thì thật vô dụng:
1/ Năm
1789-1790, Quang Trung vừa đại thắng quân Thanh, de Guignes ở Quảng Đông mà không
biết chuyện Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử, Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về Tầu, mà lại còn
trách Nguyễn Ánh, nếu đem quân đánh thì "đã có thể khôi phục ngay tức
khắc vương quốc".
2/ Câu: "Việc các tầu La Dryade, Le Pandour và
La Méduse, cùng những tầu khác đến từ Pondichéry, L'Ile de France, Macao, đã
làm cho kẻ thù khiếp sợ", càng chứng tỏ de Guignes không thạo tin: cảng
Sài Gòn lúc đó tầu ngoại quốc ra vào thường xuyên, mà xem hải trình của ba tàu
Pháp La Dryade, Le Pandour và La Méduse, thì một năm mới đến Sài Gòn một
vài lần, có thấm gì đối với số lượng các tầu Bồ, Y, Anh, Hoà Lan họp lại, mà de
Guignes đã tưởng là tầu Pháp khiến "kẻ thù khiếp sợ". Hịch Quang
Trung viết năm 1792, chứng tỏ ông chẳng coi bọn "mắt xanh" này ra gì
cả.
3/ Bắc Hà có truyền thống phò Lê, dân Bắc năm 1791, chưa
biết Nguyễn Ánh là ai, không thể có sự: "Bắc Hà đang đợi cơ hội thoát
khỏi gông cùm để nhận diện vị vua thực sự của mình", như de Guignes viết.
4/ Câu sau cùng là sự bịa đặt chính và quan trọng hơn
cả, nó là thuỷ tổ của huyền thoại Olivier và Le Brun là kỹ sư, kiến trúc sư, xây
các thành đài ở Việt Nam, de Guignes viết:
"Các
ông Olivier và Le Brun, sĩ quan Pháp, đã cho ông ta một cái bản đồ thành đài. Nhà vua muốn xây
ngay, mặc dù cần phải có thời gian thuận lợi. Vì vậy phải sách nhiễu dân chúng,
phá nhà cửa, bắt 30.000 dân công làm thành cho vua có nơi rút quân khi thua
trận. Quần chúng và quần thần nổi dậy. Olivier và Le Brun, hai tác
giả công trình này cũng bị vạ lây. Giám mục Bá Đa Lộc, phải đưa hai ông về trốn
ở nhà mình mới tránh khỏi tai nạn này".
Không biết
gián điệp lấy những tin này ở đâu, mà lại đầu Ngô mình Sở đến thế:
Câu đầu
là một xác định vô căn cứ: "Các ông Olivier và Lebrun, sĩ quan
Pháp, đã cho ông ta một bản đồ thành đài" (MM Olivier et Lebrun, officiers
français, lui donnèrent un plan de ville fortifiée). Y nằm ở đâu mà biết
chuyện hai anh binh nhất, binh nhì Olivier và Le Brun, vừa đào ngũ, "cho"
vua một cái bản đồ thành đài? Nếu ta để ý sẽ thấy de Guignes chỉ viết:
"Olivier và Lebrun cho ông ta một cái bản đồ thành đài",
nhưng, những sách sử Pháp Việt về sau, sẽ biến câu này thành "Olivier và
Lebrun xây thành Gia Định". Tức là một sự biến cải hoàn toàn.
De
Guignes kể tiếp: sau khi được Olivier và Lebrun "cho một cái bản đồ thành
đài", thế là Nguyễn Ánh vội xây ngay! Câu này thực ngây ngô, vì ta thừa
biết, về vụ bản đồ thành đài thì Nguyễn Ánh thiếu gì, mà phải đợi hai ông
Olivier và Lebrun "cho", các tác giả Âu Việt, từ Barrow, Montyon, Le
Labousse, đến Sử Ký Đại Nam Việt đều viết: trong cung Nguyễn Ánh có nhiều sách
vở về thành đài, ông thường dở ra xem và học lấy. Vậy không việc gì mà Nguyễn Ánh
lại phải vồ vập cái bản đồ thành đài mà hai ông binh nhì, binh nhất mới đào ngũ
"cho" rồi hấp tấp xây ngay, nên mới sinh loạn.
Nếu xem lại
ngày hai người lính này đến Việt Nam, Olivier de Puymanel đến trước, anh trốn
thoát ngày 19/9/1788 ở Côn Lôn, còn Le Brun ngày 13/1/1790 mới đến
Macao, ở lại, rồi sau mới tìm cách sang Nam Hà với bạn Olivier. Ngày 27/6/1790,
Le Brun được chính thức nhập ngũ, nhận văn bằng cai đội cùng ngày với
nhiều người khác.
Vậy nếu
Lebrun và Olivier có "cho" vua cái bản đồ gì đó, thì cũng phải là sau
khi Le Brun đến Việt Nam, mà theo lịch trình ở trên, sớm lắm là từ tháng 3
đến tháng 6/1790.
Nhưng thành
Gia Định, theo Trịnh Hoài Đức, đã đắp ngày 4/2/Canh Tuất [19/3/1790], Thực
Lục ghi ngày Kỷ Sửu [9/3 Canh Tuất, 22/4/1790] đắp thành đất
Gia Định. Đắp 10 ngày xong. Ta nên chú ý đến chi tiết thành đất tức
là đất trộn rơm (torchis) rất vững chắc, đó là kiến trúc thành đài kiểu Đông
phương. Tây chỉ biết xây thành đá hoặc gạch. Còn về ngày đắp thành Gia Định, chưa
biết tại sao có sự sai lệch trong hai bộ sử, hiện giờ chúng tôi dùng ngày của
Trịnh Hoài Đức vì ông sống ở Sài Gòn lúc ấy, và Gia Định Thành Thông Chí viết
trước Thực Lục. Tất cả những điểm trên dẫn đến kết luận:
Thành
Gia Định đã xây trước khi Le Brun đặt chân đến Nam Hà.
Những bản
đồ thành Gia Định sau này người ta đưa ra, bảo là do Le Brun vẽ, nếu là y vẽ thực,
thì nên hiểu là y đồ lại bản đồ thành phố Sài Gòn đã xây xong rồi.
Sự thể rành
rành như vậy, không hiểu sao các sử gia Việt không nhìn thấy lỗ hổng này trong
lập luận của sử gia thuộc địa.
Trở lại
văn bản của de Guignes, đọc đến câu kế tiếp: làm thành cho vua có nơi rút quân
khi thua trận, thì chắc de Guignes muốn nói đến thành Diên Khánh chứ không
phải thành Gia Định, bởi vì Gia Định lúc đó là kinh đô, không phải là chỗ
"cho vua có nơi rút quân khi thua trận", chỉ Diên Khánh mới là
nơi cho vua dừng chân mỗi khi đánh Quy Nhơn thua trở về.
Nhưng de
Guignes lại không thể viết về thành Diên Khánh, vì ngày 29/12/1791, khi y viết
câu này, thì Nguyễn Ánh chưa hề chiếm được vùng Diên Khánh (như trên đã
nói, tháng 5-6/1790, Nguyễn Ánh nghe lời Lê Văn Quân đánh được Bình Thuận, nhưng
thua ở Diên Khánh, phải rút quân về).
Còn câu
cuối: vì xây gấp, mượn đến 30.000 nhân công cho nên "Quần chúng và quần
thần nổi dậy. Olivier và Le Brun, hai tác giả công trình này cũng bị vạ lây. Giám
mục Bá Đa Lộc, phải đưa hai ông về trốn ở nhà mình mới tránh khỏi tai nạn này",
thì hoàn toàn không biết de Guignes lấy ở đâu, vì không thấy nơi nào ghi việc
này cả; đặc biệt các giáo sĩ, họ không thể bỏ qua một biến cố quan trọng như vậy
mà không thông báo cho Macao hay. Câu này sẽ được các sử gia Việt chép lại, qua
Taboulet, như ta sẽ thấy ở dưới.
Lá
thư của giáo sĩ Lavoué
Có lẽ
thấy những lời lẽ trong bản báo cáo của de Guignes còn quá mỏng để "chứng
minh" Puymanel xây thành Diên Khánh, cho nên học giả Cadière, trong phần
chú giải tập tài liệu của Bréda, liên quan đến Nguyễn Suyền, lưu thủ Bình Khang
(1793) (BAVH, 1926, III), đã nhấn mạnh 2 điểm: thứ nhất, xác định thành Diên Khánh
do Puymanel xây, và thứ hai: Puymanel có đóng góp đắc lực trong trận Diên Khánh
1795 (phần này sẽ nói sau).
Để bảo vệ
luận điểm thứ nhất, Cadière đưa ra một chứng mới: lá thư của giáo sĩ Lavoué viết
ở Tân Triều ngày 13/5/1795 gửi Boiret và Descourvières ở Paris.
Để độc
giả nắm rõ toàn cảnh, trước khi đọc trích đoạn thư của Lavoué, chúng tôi xin
tóm tắt tình hình:
Tháng
5-6/1793, Nguyễn Ánh đánh Qui Nhơn lần thứ nhất, để Đông cung Cảnh giữ Gia Định.
Nguyễn Ánh sai các tướng: Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn
Thành vây Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc cố thủ, không thể hạ nổi. Tháng 9/1793, Nhạc
cầu cứu Phú Xuân, Cảnh Thịnh gửi đại binh đến cứu. Ánh phải
rút quân về Diên Khánh. Nhạc bị quân của Cảnh Thịnh vào thành uy hiếp, uất ức
mà chết. Việc xây thành Diên Khánh xẩy ra vào mùa hè năm 1793, khi Nguyễn Ánh rút
quân từ Quy Nhơn về Diên Khánh, được ghi ở ba nơi:
- Tháng
10/1793 (tháng 9 ÂL.), Thực Lục ghi: "Ngự giá về Diên Khánh.
Thấy thành đất Hoa Bông địa thế tốt, đánh hay giữ đều tiện, bèn sai các quân và
phát 3000 dân Bình Thuận, 1000 dân Thuận Thành khởi đắp trọn một tháng thì
thành xong, gọi là Diên Khánh (tức tỉnh lỵ Khánh Hoà ngày nay. Thành cao 1
trượng, chu vi hơn 510 trượng, mở sáu cửa, đông và nam đều một cửa, tây và bắc
đều hai cửa, trên cửa có lầu, bốn góc có cồn đất)" (Thực Lục I, t. 299).
- Hai
người trực tiếp xây thành, được ghi công trong Liệt Truyện:
1/ "[Tôn
Thất] Hội cùng đạo binh họp lại bao vây [Quy Nhơn], giặc có quân cứu
viện ở ngoài đến, bèn giải vây về đắp Diên Khánh." (Liệt Truyện II,
Tôn Thất Hội, t. 78).
2/ "Mùa
hạ năm Quý Sửu [1793], [Vũ Viết Bảo] theo đi đánh Quy Nhơn, đến khi về,
đắp thành Diên Khánh" (Liệt truyện II, Vũ Viết Bảo, t. 321).
Như vậy thành
Diên Khánh được đắp vào mùa hè năm 1793, sau khi Nguyễn Ánh rút quân
từ Quy Nhơn về Diên Khánh.
- Đến
tháng 11/1793, Nguyễn Ánh trở về Gia Định. Để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên
Khánh.
Trở về với
lá thư của giáo sĩ Lavoué, thư khá dài, viết nhiều chuyện liên quan đến vùng
Quy Nhơn Diên Khánh. Đoạn đầu, ông sơ lược kể lại chuyện từ lúc Nguyễn Ánh vây
thành Quy Nhơn, đến khi Nguyễn Nhạc bị bức bách, uất ức mà chết. Rồi đoạn kế tiếp
có liên quan đến thành Diên Khánh, ông viết:
"Nhà
vua trở về Gia Định nơi ông đã chiếm lúc đầu. Ông hết sức củng cố thành
trì, làm thuyền chiến, vv... và mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông
một thành phố theo lối Tây phương ở một trong những vùng đất vừa mới chiếm
được. Thành vừa xây xong, ngụy quân đổ tới với số lượng 40 ngàn
người, nhất định trèo vào; nhưng mọi cố gắng của chúng đều vô ích." [2] (2) (Cadière, Documents
relatifs à l'époque de Gia Long, BEFEO, 1912, no 7, t. 33).
Trích đoạn
trên bắt đầu bằng câu: "Nhà vua trở về Gia Định...", chứng tỏ Lavoué
kể câu chuyện sau khi Nguyễn Ánh trở về Gia Định, tức là sau tháng 11/1793,
nhưng câu này sẽ được Cadière khôn khéo cắt đi, ông bắt đầu trích đoạn bằng câu:
"...mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo
lối Tây phương trong một vùng đất vừa mới chiếm được..." Tại
sao vậy?
Tại vì
nếu để cả câu đầu thì người tinh ý sẽ nhận thấy: khi Nguyễn Ánh trở lại Gia
Định tháng 11/1793, mới "mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một
thành phố theo lối Tây phương ở một trong những vùng đất vừa mới chiếm
được...", thì cái thành phố "Tây phương" ấy không thể là Diên
Khánh, vì Diên Khánh đã xây xong từ hè 1793! Làm sao lại có chuyện vua mượn
Puymanel xây thành Diên Khánh lần nữa! Và thấy ngay cái vô lý trong câu văn
của Lavoué. Tóm lại:
- Cái thành mà Lavoué bảo vua "mượn"
Olivier xây, nó không phải thành Gia Định, vì Gia Định đã xây xong từ đầu năm
1790; nó cũng không phải thành Diên Khánh, vì nếu khi Nguyễn Ánh rút quân về
Gia Định tháng 11/1793, mới "mượn" Olivier xây; thì quá trễ, vì Diên
Khánh đã xây xong từ mùa hè năm 1793!
- Nhưng Lavoué
không hề nói vua sai Puymanel xây thành Diên Khánh, ông chỉ nói bâng quơ:
mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo lối Tây phương
ở một trong những vùng đất vừa mới chiếm được, nhưng người ta đã dựa vào câu
sau: "Thành vừa xây xong, ngụy quân đổ tới với số lượng 40 ngàn người,
nhất định trèo vào; nhưng mọi cố gắng của chúng đều vô ích", để xác định
đó là thành Diên Khánh.
- Nhưng câu
"Thành vừa mới xây xong, ngụy quân đổ tới" cũng vẫn sai, bởi vì:
thành Diên Khánh xây xong hè 1793, Nguyễn Văn Thành ở lại trấn giữ, sau đó không
có trận tấn công nào cả. Phải gần một năm sau mới có đợt tấn công đầu của
Tây Sơn, và trận này (tháng 4-5/1794) Nguyễn Văn Hưng đem 40.000 bộ binh hợp
với thuỷ binh của Trần Quang Diệu, đánh Diên Khánh.
Tóm lại,
Lavoué chỉ tập hợp những chuyện đồn thổi về các trận đánh dữ dội vây thành Diên
Khánh, rồi ông vá víu lại thành một câu chuyện và thêm vào câu nói vu vơ:
"mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo lối Tây
phương", chẳng dính dáng gì đến thành Diên Khánh cả, và Diên Khánh, theo
sự mô tả của học giả Lê Văn Định (sẽ nói sau) cũng không có gì là một "thành
phố theo lối Tây phương". Cho nên lời Lavoué cũng không thể dùng làm
tư liệu lịch sử.
Nhưng các
sử gia thuộc điạ sẽ chập hai mỏm câu, một của de Guignes: Olivier và Le
Brun, cho vua một cái bản đồ thành đài và một của Lavoué: vua mượn Ô.
Olivier, xây một thành phố theo lối Tây phương, làm một, rồi chia nó làm ba
câu khác:
- Le
Brun vẽ bản đồ thành Gia Định.
- Vua
sai Olivier và Le Brun xây thành Gia Định (vì thành Gia Định có vẻ "Tây phương").
- Vua mượn
Olivier xây thành Diên Khánh.
Thế là cả
ba câu này được lưu thông trong sử sách Pháp Việt như những xác định lịch sử.
Lập
luận của học giả Cadière
Học giả Cadière
kiên quyết bảo vệ "sự kiện" Olivier de Puymanel xây thành Gia Định và
Diên Khánh. Nhưng ông không tìm được chứng nào đáng tin cậy về việc Puymanel xây
những thành này, cho nên, về thành Gia Định, ông không ngần ngại "xác định"
thẳng rằng: "Theo chính sử biên niên đời Gia Long, ông [Olivier de
Puymanel] bắt đầu xây thành Gia Định tháng 3-4 năm 1790" (BAVH,
1921, t. 283-288), câu này do Nguyễn Quốc Trị khám phá trước tiên, là một sự bịa
đặt làm u ám danh vị học giả.
Còn về
việc "Puymanel xây thành Diên Khánh", thì Cadière "chứng
minh" trong phần chú giải những tư liệu về Nguyễn Suyền (BAVH, 1926, III, t.
264). Ông đọc rộng, biết nhiều, không phải ông không biết ai xây thành Diên Khánh,
bởi vì ông có nói đến chuyện năm 1793, Nguyễn Ánh, sau khi thắng trận [ở Quy Nhơn]
đã sai một viên Cai Bộ (quan bộ Tài Chánh) và Ký Lục (quan bộ Hình), phụ trách
việc xây thành Diên Khánh (Cadière, Nguyễn Suyền, BAVH, 1926, III, t. 264), tức
là ông có biết chuyện này. Nhưng những điều viết trong sử Việt không vừa ý ông,
nên ông phải tìm cách viết lại; vì thế ông bạ vào lời Lavoué, với những vu vơ và
vô lý như chúng tôi vừa phân tích ở trên, để xác định Olivier de Puymanel là người
xây thành Diên Khánh, như sau:
"Thành
đài Bình Khang, đúng hơn là thành Diên Khánh, bởi nó được xây tại thủ
phủ của tỉnh này, là tác phẩm của Đại Tá Olivier. "Nhà vua... mượn Ô.
Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo lối Tây phương ở một
trong những vùng đất vừa mới chiếm được. Thành vừa xây xong, ngụy quân đổ tới
với số lượng 40 ngàn người, nhất định trèo vào; nhưng mọi cố gắng của chúng đều
vô ích." (Thư của M. Lavoué, 13/5/1795 trong L. Cadière: Documents
relatifs à l'époque de Gia Long, BEFEO, 1912, no 7, trang 33). Vì thành Diên
Khánh bị vây vào tháng 5-6/1794, vậy thành này được xây khoảng cuối 1793, đầu
1794.
Lẽ
tất nhiên là trong Thực Lục đời Gia Long, khi nói đến việc xây thành Diên
Khánh, không đả động đến Đại tá Olivier" (Cadière, Nguyễn
Suyền, BAVH, 1926, III, t. 264).
Tóm lại,
học giả Cadière không chứng minh gì cả, ông xác định thẳng đuột rằng: Thành
Diên Khánh là tác phẩm của Đại Tá Olivier, vì Lavoué bảo vậy là đúng
như vậy! Và ông còn lớn lối trách Thực Lục không đả động đến Đại Tá.
Là người
cẩn trọng, Cadière không nhắc đến lời của de Guignes, bởi vì de Guignes là gián
điệp, và chỉ nói bâng quơ: "Olivier và Le Brun "cho" vua một
cái bản đồ thành đài", chứ không nói Olivier và Le Brun xây thành đài,
và xây thành đài nào.
Nhưng ở đây,
lập luận (cũng chưa phải là lập luận, chỉ là một xác định vô bằng) của học giả Cadière
có một lỗ hổng lớn:
Linh mục
Lavoué không nói Puymanel xây Diên Khánh, chính ông, học giả Cadière, đã xác định
Puymanel xây thành Diên Khánh. Học giả đã xác định như vậy, thì xin học giả chứng
minh, Puymanel xây thành này vào lúc nào? Như ông nói là cuối năm 1793, đầu
năm 1974. Mà theo Liệt Truyện thì thành Diên Khánh đã xây xong từ mùa hè 1793
và đến tháng 11/1793, Nguyễn Ánh đã về Gia Định. Điểm này chứng tỏ học giả
không đọc kỹ Liệt Truyện, cho nên ông mới phạm lỗi cơ bản này. Ngoài ra, ta còn
biết: Nguyễn Ánh luôn luôn trực tiếp thị sát tất cả những công việc từ đóng tầu,
đúc súng đến xây dựng thành luỹ, thì ông không thể không có mặt trong việc xây
một đồn luỹ quan trọng như thành Diên Khánh.
Tóm lại,
người ta đã dùng hai câu nói vu vơ, một của điệp viên de Guignes: "Các
ông Olivier và Le Brun, sĩ quan Pháp, đã cho [vua] một cái bản đồ thành
đài", và một của giáo sĩ Lavoué: "[Vua] mượn Ô.
Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo lối Tây phương ở một trong
những vùng đất vừa mới chiếm được", để xác định hai người lính binh nhì,
binh nhất Puymanel và Le Brun vừa đặt chân đến Việt Nam, là tác giả xây dựng
hai thành trì kiên cố nhất của vua Gia Long thời bấy giờ, bất kể những gì đã
ghi trong Gia Định Thành Thông Chí, Thực Lục và Liệt Truyện".
Taboulet
và nghệ thuật xuyên tạc lịch sử
Taboulet
được những người viết sử Việt Nam chép lại nhiều nhất, vì ông trẻ hơn Cadière và
Maybon, lối trình bầy lịch sử của ông có vẻ "khách quan" hơn, nhưng
thủ pháp xuyên tạc lịch sử của ông thâm hậu hơn những người đi trước: Không lộ
liễu và thô thiển như Bissachère, Ste-Croix, Faure. Cũng không lý luận, biện giải,
chứng minh như Maybon, Cadière. Thủ pháp của ông đơn giản hơn nhiều và hiệu quả
hơn. Trong bài tựa sách La geste française en Indochine (Huân trạng của
nước Pháp ở Đông Dương) in năm 1955, ông giải thích cách làm việc của mình, như
một lối viết lịch sử trung thực nhất: thay vì viết lại lịch sử như một ngòi bút
sử gia thường tình, ông chủ trương chỉ trình bầy những chứng liệu lịch sử, những
văn bản gốc, để độc giả đọc và phán xét:
"Đã
có lúc chúng tôi tính giữ lại làm đề từ ở đầu sách, sự phán xét sau đây của
Rémy de Gourmont: "Ngay thẳng nhất là nhường lời cho những nhân chứng gốc (témoins
originaux); có nghiã là lịch sử Pháp đúng đắn nhất là một sưu tập những tư liệu
đích thực (receuil de textes)... "
Quả
vậy, thực là hiếm mà một bài văn xuôi do người thứ nhì viết lại có thể tái tạo
đúng bầu khí của những biến cố đã xẩy ra. Rất nhiều khi, cuốn sách, ngay cả
những cuốn sách có ý thức nhất, vẫn làm biến dạng dữ kiện, xuyên tạc bối cảnh,
không tái tạo lại được bầu khí. Ngược lại, ta có thể nói, sự trích đoạn, tư
liệu văn khố, trong chính định nghiã của nó, đã mang sẵn một âm hưởng của sự
thực không thể chối cãi được, một sức mạnh của sự gợi lại và một sự giầu có
hiển nhiên không sánh nổi. Vì vậy, tin tưởng rằng sự tiết lộ những textes mà ít
người biết đến sẽ cung cấp cho độc giả nhiều lợi ích và lý thú hơn là một bài
viết gián tiếp của chúng tôi, chúng tôi đã chọn tự xoá mình trước những diễn
viên của Huân trạng Đông Dương."[3] (3) (La Geste française
en Indochine, I, Avant-Propos, t. 2-3).
Ở một đoạn
sau ông viết:
"Thay
vì chỉ giới hạn trong việc tách rời thẳng thừng những textes, cái nọ cạnh cái
kia, chúng tôi quyết định trình bầy, nhiều khi khá dài, những trang được in
lại. Chúng tôi đã nối kết, hàn gắn những textes lại với nhau, chúng tôi đã bổ
sung bằng những lời bình luận dẫn vào hoàn cảnh, đôi khi mở rộng, mục đích là
cung cấp sự giải thích những biến cố mà sử gia, tham vọng hơn nhà bỉnh bút, cố
gắng làm sáng tỏ." [4] (4) (Avant-Propos,
t. 3).
Trong cuốn
sách này, ông phân chia từng thời kỳ lịch sử theo niên đại, ông viết bài "đúc
kết" từng thời kỳ, trước khi in những tài liệu liên quan. Những bài "đúc
kết" được in italique, đề tên là "Texte" và đánh từ
số 1 trở đi. Ngay chữ texte này đã nhập nhằng, vì có hai nghiã: texte
có thể hiểu là bài, văn bản, hoặc: tài liệu chính xác, tư liệu đích
thực (document authentique). Ông đã dùng chữ texte một cách lập lờ, tức
là ông đặt tên những bài viết của mình là texte, khiến người đọc có thể
tưởng lầm cái mà ông gọi là texte chính là tư liệu chính xác của lịch sử!
Nhất là trong bài tựa, ông đã giới thiệu câu nói của Rémy de Gourmont: "lịch
sử Pháp đúng đắn nhất là một sưu tập những tư liệu đích thực (receuil de
textes)".
Sau đây
là cách làm việc: Chương VI, dưới tựa đề: Les volontaires français au
service de la Cochinchine (Những người Pháp tình nguyện giúp Nam Hà), ông in
lần lượt những bài sau:
- Bài đúc
kết tình hình chung không có tên, không đánh số, do Taboulet viết, in nghiêng.
- Bài La
situation militaire en Cochinchine en 1790-91 (Texte 80) (Tình hình quân sự
ở Nam Hà trong năm 1790-91. Taboulet viết. In nghiêng.
- Bản báo
cáo của de Guignes (trích trong sách của Faure) với cái tựa như sau: De
Guignes, Consul de France à Canton, au Ministre des Affaires Étrangères (De
Guignes, Lãnh Sự Pháp ở Quảng Đông gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao). In thẳng.
- Bài
"Théodore Lebrun, le premier urbaniste de Saigon (Texte 81) (Théodore
Lebrun, nhà kiến trúc đô thị đầu tiên ở Sài Gòn). In nghiêng.
Lối trình
bầy này rất tinh vi: nếu đọc qua cả 4 bài này, ta tưởng tất cả đều là tư
liệu lịch sử, vì sự in nghiêng và vì chữ texte. Thực ra, chỉ có Bản
báo cáo của de Guignes là tư liệu, còn 3 bài kia là do Taboulet viết, với
luận điệu xuyên tạc của ông về giai đoạn lịch sử này.
Kế đó, de
Guignes là agent, tức là nhân viên hay điệp viên, đã được
Faure đôn lên làm lãnh sự, nhưng chữ lãnh sự Faure chỉ viết nhỏ trong chú
thích, ít ai để ý; khi Taboulet đưa ra thành cái tựa to tát "De
Guignes, Lãnh Sự Pháp ở Quảng Đông gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao" như
thế, tức là ông đã thổi phồng cái mà Faure đã thổi phồng rồi, và còn chú thích
thêm: Lãnh sự Pháp được thành lập năm nào, năm nào... như để củng cố địa vị khả
kính của de Guignes. Cách làm ăn này trải dài trong toàn bộ sách của ông; ví dụ
để tôn vinh Puymanel, Taboulet đã tự ý "cho" anh ta đi học trường
Louis Le Grand là trường trung học nổi tiếng nhất của Pháp, chỉ dành cho những
học sinh ưu tú, vv...
Không có
gì chứng thực việc Le Brun xây thành Gia Định, hoặc vẽ, hoặc xây bất cứ thành
phố nào ở Việt Nam, thế mà Taboulet dám để cái tít: "Théodore
Lebrun, le premier urbaniste de Saigon" (Théodore Lebrun, nhà kiến
trúc đô thị đầu tiên ở Sài Gòn).
Đó là sự
xuyên tạc lịch sử trong cách trình bầy tư liệu: biến một bản báo cáo của điệp
viên thành thư chính thức của ông Lãnh Sự gửi ông Bộ Trưởng Ngoại giao, do đó
gián tiếp cấp cho "lá thư" này một giá trị tư liệu và một tầm mức
quan trọng mà nó không hề có.
Hoặc bịa
chuyện Puymanel học trường Louis Legrand, cho xứng đáng với danh vị kỹ sư, kiến
trúc sư, mà người ta gán cho anh ta.
Hoặc xác
nhận Lebrun, lính binh nhất, là "nhà kiến trúc đô thị".
Ta thử
xem Taboulet viết gì trong bài Texte 80, trang 241-242.
Bài này,
phần đầu viết về con số những người lính Pháp đến giúp Gia Long (không thuộc điạ
hạt bài này, sẽ nói sau); phần thứ nhì viết về "công trạng" của họ với
những hàng sau đây:
"Ngay
từ 1789, Nguyễn Ánh đã quyết định xây dựng kiên cố Sài Gòn. Ông sai hai kỹ sư
Pháp của ông là Lebrun và Olivier de Puymanel xây cho ông "một thành phố
theo kiểu Tây phương" và một thành đồn (forteresse). Vai trò riêng của hai vị
sĩ quan này khó biết rõ; nhưng phần của Lebrun, rời Sài Gòn đầu năm 1792, chắc
là không quan trọng bằng Olivier.
Bản
đồ thành phố Sài Gòn dường như do Lebrun vẽ. Điều quan hệ là xây một
"thành phố theo kiểu Tây phương", kiểu Mỹ, như ta nói bây giờ, với
khoảng 40 đại lộ (artères), rộng từ 15 đến 20 mét, thẳng góc nhau, thành phố
được bao bọc bằng một vòng thành có những chốt gác cách nhau đều đặn. Bản đồ vĩ
đại này dĩ nhiên là được vẽ cho một tương lai xa; dường như chưa bắt đầu xây.
Ngược
lại, thành đài mà Olivier de Puymanel là tác nhân chính, đã xây rất nhanh. Theo
cha Boisserard (tháng 2/1792) là "một thành lũy tốt, với pháo đài
(bastions), hào (fossées), cầu rút (ponts-levis), đường trần (chemins
découverts), bờ nghiêng (glacis) và lỗ hình bán nguyệt trên tường thành
(demi-lunes)" Thành hình bát giác, bằng đá ong hay đá Biên Hoà, có tường
cao sáu mét và có tám cửa (...)
Công
cuộc xây dựng toàn bộ này, đồ sộ đối với thời ấy, chỉ có thể thực hiện tốt đẹp
nhờ dùng nhiều nhân công. Những khổ dịch hao tổn sức lực đập lên đầu dân chúng,
suýt gây bạo loạn, để diễn tả sự bất mãn của họ đối với những sĩ quan Pháp bị
coi như vật tế thần.
Khoảng
ba chục thành đài khác cùng thể loại, theo kiểu Vauban, được xây lúc Olivier còn
sống, và sau khi ông mất được thực hiện bởi những học trò Việt mà ông đào tạo
trong trường của ông. Những thành luỹ này hiện còn nhiều trong những thành phố Đông
Dương; những di tích của chúng chứng nhận rằng một tư tưởng Pháp với những bàn
tay Pháp đã là nguồn cội sự thành công của Nguyễn Ánh". (Taboulet, La
geste française en Indochine, I, Texte 80, t. 242).
Đoạn văn
này có mấy điểm đáng chú ý:
1- Không
cần dẫn chứng, biện luận, Taboulet xác định những "sự kiện" góp nhặt trên
đây, như đã là "lịch sử".
2- Ông
nhập lời của de Guignes với Lavoué làm một: "sai hai kỹ sư xây cho ông
một thành phố theo kiểu Tây phương" (vì Lavoué không nói đến Le Brun).
3- Câu
"Bản đồ thành phố Sài Gòn dường như do Lebrun vẽ " cũng như cái
tít: "Théodore Lebrun, nhà kiến trúc đô thị đầu tiên ở Sài Gòn" đều
là sản phẩm của Taboulet.
5- Trịnh
Hoài Đức mô tả thành Gia Định chỉ có 8 con đường. Bản đồ thành Bát quái, in lại
trong Địa chí văn hoá Hồ Chí Minh, do Nguyễn Đình Đầu sưu tập, cũng không ra
ngoài con số đường xá ấy. Vậy cái Bản đồ vĩ đại với 40 đại lộ, kiểu Mỹ,
này không biết Taboulet lấy ở đâu ra? Nếu là bản đồ thành phố chưa xây, thì nói
đến làm gì?
6- Đoạn
sau cùng: Puymanel xây hơn ba chục thành đài Vauban, Taboulet chép trọn
sự nhận vơ của Cadière, chúng tôi sẽ nói đến trong phần Cadière.
Đó là lối
viết Texte của Taboulet: Tất cả những lời lẽ tâng bốc sự nghiệp của các
"sĩ quan" Pháp, được ông chép lại từ Bissachère, Ste-Croix, Faure, de
Guignes... mà không đề xuất xứ, cũng không chứng minh, biện luận, như:
Théodore
Lebrun: Nhà kiến trúc đô thị đầu tiên ở Sài Gòn (Texte 81, t. 243).
Olivier
de Puymanel: "Tổng tư lệnh quân đội Nam Hà", "Đổi mới
hoàn toàn quân đội của Nguyễn Ánh" (Texte 82, t. 245).
Jean-Marie
Dayot: "Linh hồn của thuỷ quân Nam Hà", "Năm 1792,
tiêu diệt toàn bộ hạm đội Tây Sơn, gồm 5 tầu chiến lớn (5 gros bâtiments), 90 chiến
thuyền (galères), 100 chiến thuyền nhỏ (demi-galères), tịch thu 137 đại bác đủ
loại. Năm 1793, Dayot còn chiếm thêm được, 60 galères Tây Sơn ở gần miền bắc
Quy Nhơn" (Texte 83, t. 249).
Tạ Chí Đại
Trường sẽ tiếp nhận các loại "thông tin" như thế này trong các Texte
của Taboulet và đưa vào Lịch sử nội chiến Việt Nam.
Học
giả Trương Vĩnh Ký
Vấn đề đau
đớn nhất ở đây, là chính những người viết sử Việt Nam, không những coi thường sử
gia triều Nguyễn, hoặc không đọc, hoặc có đọc mà coi như không, và thi nhau chép
lại, đắp điếm thêm cho những luận điểm hồ đồ của những ngòi bút thực dân, biến
chúng trở thành sự thật lịch sử. Những sử gia như Trần Trọng Kim, Phan Khoang và
hầu như tất cả mọi người trong chúng ta, đều bị ngộ độc quan điểm thực dân, đã đổ
lỗi cho triều Nguyễn bế quan toả cảng và diệt đạo nên mới bị "mất nước".
Tuy vậy, sử gia Trần Trọng Kim vẫn viết rất sát với Thực Lục và Liệt truyện, nên
ông có rất ít sai lầm.
Trương Vĩnh
Ký là người đứng đầu, và ngoại khổ trong việc nối gót thực dân. Ông được giáo dục
từ nhỏ trong nhà chung, cho nên trong cuốn Cours d'Histoire Annamite (1875),
ông sử dụng những điều cực đoan của giới cha cố và những điều bịa đặt của giới
thực dân, mà không kiểm chứng, cho nên đoạn sử ông viết về nhà Nguyễn, đặc biệt
về vua Minh Mạng nhiều chỗ thực đáng xấu hổ.
Về việc
xây thành Gia Định, Trương Vĩnh Ký, năm 1897, đã hợp nhất Thực Lục và lời của
de Guignes, để đưa ra xác định sau đây: "Tháng 2 trong năm (1790) vua
dạy ông Olivier với ông Lebrun coi xây thành Gia Định tại làng Tân Khai, xây
thành bát quái có 8 cửa, xây vách thành bằng đá ong Biên Hòa" (Trương
Vĩnh Ký, Biên tích đức thầy, Pinho Quận Công, Sài Gòn, 1897, t. 33, trích
theo Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử thành phố, in trong tập Địa
Chí Văn Hoá thành phố HCM, t. 183).
Chúng tôi
không có cuốn Biên tích đức thầy Vêrô Pinhô quận công của Trương Vĩnh Ký,
chỉ đọc lời Nguyễn Đình Đầu trích dẫn sau đây: "Theo "Biên tích
đức thầy Vêrô Pinhô quận công" của Trương Vĩnh Ký, thì Bá Đa Lộc trở về xứ
Sài Gòn, đem theo, không phải số viện trợ của vua Pháp ký kết mà chỉ được mấy
chiếc tầu, chở súng lớn 100 cỗ, súng tay mấy ngàn cây, thuốc đạn cụ túc [đầy
đủ] về giúp vua An Nam. Theo sách trên của Trương Vĩnh Ký thì, từ đó
việc tổ chức và tập rèn bộ binh của Nguyễn Ánh (tại Gia Định) do Olivier de
Puymanel "làm lớn đứng đầu hết", "đức thầy xin vua thăng thọ
quan năm ren vàng cho J.M. Dayot làm thuỷ sư cai quản cả đạo thủy quân" với
"Vannier chúa tầu Long, de Forcant chúa tầu Phụng, Chaigneau chúa tầu Long
Phi, Magon de Médine chúa tầu Le Prince de Cochinchine". Nhiều quan thuỷ
khác giúp cho Dayot" (Nguyễn Đình Đầu, bđd, t. 177).
Học giả
họ Trương, thay vì dùng những tư liệu gốc do chính Bá Đa Lộc viết ra về những việc
này, trong đó ông Bá ghi rõ: ông về tay không, chẳng có tầu nào đi theo cả, đã
có sẵn trong kho tư liệu của hội truyền giáo, tại sao Trương Vĩnh Ký không dùng,
mà ông lại đi chép những "thông tin" bịa đặt, lấy từ Ste-Croix, Faure...
hay những tác giả khác, rồi ông viết lại như "sự thực", và thêm vào vài
ba câu của Thực Lục. Vì uy tín học giả của ông, nên những người đi sau như Nguyễn
Đình Đầu cũng chép lại ông mà không kiểm chứng.
Tạ
Chí Đại Trường
Taboulet
được người Việt chép nhiều nhất. Và Tạ Chí Đại Trường là một trường hợp khá
trung thành.
Như trên,
ta đã thấy hai đoạn văn bâng quơ của de Guignes và của Lavoué, khi vào tay Taboulet,
đã trở thành "sự kiện lịch sử" sau đây: có hai thành Sài Gòn, một Sài
Gòn to, do ông Lebrun vẽ, lớn lao vĩ đại với 40 đại lộ, nhưng chưa xây và một Sài
Gòn nhỏ, do ông Puymanel xây, đó là thành bát giác, giống hệt như thành Bát Quái
Gia Định được Trịnh Hoài Đức và Shihõken Seishi mô tả.
Tạ Chí Đại
Trường chép lại Taboulet, và sáng tác thêm, như sau:
"Việc
xây thành này [Gia Định], các tài liệu Tây phương cho biết là do Le
Brun và Olivier de Puymanel theo lời yêu cầu của Nguyễn Ánh. Họa đồ phố xá
hình như của Le Brun gồm có 40 con đường rộng từ 15 đến 20 thước cắt nhau theo
hình thước thợ và dự án này không được thực hiện nhưng Le brun còn ở đến đầu năm
1792 thì rõ ràng việc thiết kế đô thị chịu ảnh hưởng của ông rất nhiều".
(LSNCVN, t. 234).
Để củng
cố lập luận thành Gia Định do Puymanel xây, sau khi nhắc lại việc Trịnh Hoài Đức
khen thành phố Sài Gòn sau khi xây xong, có hàng lối hơn trước nhiều, và thư của
M. Boisserand (2/1792) cho biết có "pháo đài, hào, vv... " như
Taboulet đã dẫn, Tạ Chí Đại Trường viết tiếp: "Nguyễn Ánh muốn làm tức
khắc tuy cần phải đợi thời cơ thuận tiện hơn, người ta phải phá nhà cửa, bắt
đến 30 ngàn dân làm việc. Loạn nổi lên, dân chúng và quan binh đổ riết cho
Olivier và Le Brun gây nên tội muốn bắt giết làm hai ông này phải chạy trốn,
nhờ Bá Đa Lộc che chở. Bình yên trở lại, Nguyễn Ánh cho lính về và dân rảnh
rang cầy cấy. Chi tiết sau phù hợp với việc sử quan ghi tới hai lần xây cất thành
mà không nói lý do ngưng nghỉ: một lần vào tháng ba Canh Tuất như đã nói và một
lần "sửa sang lại" vào tháng chạp năm đó.
Qua
những chứng dẫn trên ta biết thành xây theo kiểu phòng thủ Tây phương nhưng
cố uốn nắn theo quan niện phong thủy Đông phương (bát quái). Tuy nhiên hiệu
quả phòng thủ của nó vẫn không thay đổi. Từ đấy Tây Sơn không vào Gia Định lần
nào để nó được thử thách nhưng đứa em sinh sau nó, thành Diên Khánh, đã chứng tỏ
hiệu lực trước đám quân Trần Quang Diệu thiếu vũ khí công phá tương xứng" (LSNCVN, t. 234).
Rồi ông
xác định: "Bởi vì thành Diên Khánh là của Olivier vẽ ra. Nó là em sinh
sau thành Gia Định" (t. 267).
Lối viết
của Tạ Chí Đại Trường vẫn không thay đổi, ông dựa vào một "thông tin"
do các sử gia thực dân đưa ra, rồi viết theo và biện luận đắc lực cho thông tin
này.
Ở đây ông
chép lại việc "nhân dân nổi loạn" của de Guignes, qua Taboulet, nhưng
ông còn đi xa hơn Taboulet, không những chép lại mà còn biện hộ điều này là đúng,
bằng cách kết hợp hai sự kiện: thành Gia Định xây từ tháng 4/1790, nhưng đến tháng
1/1791 phải sửa lại, để suy diễn rằng: vậy là đích thực "có loạn".
Taboulet chỉ dám nói suýt có loạn (faillit se soulever) nghĩa là chưa có loạn,
và Puymanel xây thành Gia Định, Tạ Chí Đại Trường chứng minh là có loạn và
Puymanel xây cả thành Diên Khánh nữa, lập luận của ông dựa trên những điểm sau đây:
- Vì thành
xây đường ngang dọc, trật tự như thế, chắc chắn phải do Tây xây.
- Vì thành
xây mùa xuân mà đến đầu năm sau nói sửa [Thực Lục] tức là phải ngừng việc xây
trong nhiều tháng mà không nói rõ lý do, vậy là có loạn.
- Thành
xây theo kiểu Tây nhưng phải làm bộ uốn nắn bát quái cho có vẻ ta.
- Thành
Diên Khánh là em thành Gia Định, vì có cùng cha Puymanel.
Thực đáng
buồn cho một sự khinh rẻ dân tộc và đề cao ngoại bang đến thế: Lấy cớ gì mà bảo:
thành Tây, rồi cố uốn nắn theo kiểu phong thủy bát quái của ta?
Nhà
nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu
Bài Địa
lý lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, in trong cuốn Địa chí văn hoá thành
phố Hồ Chí Minh, nxb TpHCM 1987, t. 127-231 của Nguyễn Đình Đầu là một
bài nghiên cứu có giá trị.
Dựa vào
Trịnh Hoài Đức, ông tìm đến nguồn cội của thành Bát Quái Gia Định: Năm 1772,
sau khi đánh thắng quân Xiêm, Nguyễn Cửu Đàm xây luỹ Bán Bích bảo vệ điạ phương
Sài Gòn: "Bán bích Nguyễn Cửu Đàm đã khép kín địa bàn Sài Gòn với ba
mặt sông, gồm thâu hầu hết các phố, chợ và các kiến trúc của chính quyền, tạo
nên một tổng thể thống nhất về điạ lý, kinh tế, xã hội và bố phòng" (Nguyễn
Đình Đầu, bđd, t. 168). Luỹ Bán Bích được coi là nền móng đầu tiên của thành Bát
Quái Gia Định. Theo sự mô tả của Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Đình Đầu tóm tắt:
"Vậy
là thành Bát Quái có 3 lớp bảo vệ:
1-
Lớp trong cùng xây bằng đá Biên Hoà cao 13 thước, chân tường dầy 7 trượng 5
thước.
2-
Lớp giữa là hào rộng 15 trượng 5 thước, sâu 14 thước.
3-
Lớp ngoài là "luỹ bằng đất" với chu vi 794 trượng". (Nguyễn Đình Đầu, bđd,
t. 178).
Ông cũng
thấy thành Bát quái "mang mầu sắc Á Đông" nhưng rồi ông vẫn bị rơi vào
cái bẫy của Taboulet và những xác định vô bằng của Trương Vĩnh Ký, khi ông viết:
"Tên
gọi cũng như cách định hướng và những chi tiết kiến trúc, thành này mang màu
sắc Á Đông. Nhưng về bố cục và cấu tạo cơ bản, thì thành lại được xây đắp theo
kiểu Vauban tây phương. Những ai trực tiếp xây dựng thành Bá Quái? Chính sử ta
không thấy kể tên, song nhiều nguồn sử khác cho rằng: "Tháng 2 trong năm
(1790), vua dạy ông Olivier với ông Lebrun coi xây thành Gia Định tại làng Tân
Khai, xây thành Bát quái có 8 cửa, xây vách thành bằng đá ong Biên Hoà"
(Trương Vĩnh Ký, Biên tích đức thầy, Pinho Quận Công, Sài Gòn, 1897, t. 33). Cụ
thể có lẽ Lebun "ra hoạ đồ thành Gia Định" và được mệnh danh là
"kiến trúc sư quy hoạch đầu tiên của Sài Gòn". Còn Olivier là kỹ sư
đôn đốc xây dựng thành. Nhưng chắc thế nào cũng có người Việt tham dự" (t. 184-185).
Người Việt
mà Nguyễn Đình Đầu muốn nói ở đây là Trần Văn Học, ông có ghi lại công lao của
Trần Văn Học ở đoạn sau, nhưng theo ông, Trần Văn Học vẫn chỉ là người phụ tá.
Đoạn kế
tiếp, ông chép lại de Guignes, và dùng sự suy diễn của Tạ Chí Đại Trường, để viết
thành câu chuyện sau đây:
"Nguyễn
Ánh đã phải huy động tới tới 30000 dân phu thầy thợ đắp thành Bát quái, đã phải
triệt hạ một số nhà cửa làng mạc để lấy mặt bằng. Dân chúng cực khổ. Mầm bất
mãn có cơ nguy biến thành nổi loạn vào mùa mưa, lúc ruộng vườn đòi hỏi khẩn cấp
nhân công trở về canh tác. Ánh nhượng bộ, giải tán đa số dân phu; đến tháng chạp
mới gọi lại để tiếp tục công trình. Hình như thành Bát quái chỉ "tạm
xong", chứ chưa bao giờ hoàn thành đúng y bản dồ thiết kế buổi đầu (...)
Có nhà sử học cho rằng một trong những nguyên nhân khiến thành Bát quái không
được hoàn thành là vì 30000 nhân công của Nguyễn Ánh tập hợp để xây thành đã có
lần nổi dậy tìm các kỹ sư đốc công người Pháp mà giết, còn nhân dân bị buộc
phải góp công của nhiều quá trong lúc chiến tranh vẫn tiếp diễn, nên nỗi bất
bình chống chất, Nguyễn Ánh bị buộc phải tạm ngưng việc xây dựng thành Bát quái
là vì vậy". (Nguyễn Đình Đầu, bđd, t. 185).
Khổ nhất
là những "thông tin" vô căn cứ của "điệp viên" tồi de
Guignes, lại được những nhà nghiên cứu của ta chép lại, mà không đặt câu hỏi: tại
sao một cuộc loạn to như vậy, mà từ sử chính thống như Thực Lục, Liệt Truyện, đến
thư từ của các vị thừa sai, của những người lính Pháp giúp Nguyễn Ánh, hoặc những
cuốn sử ngoài luồng như Sử Ký Đại Nam Việt, Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực, vv... không thấy ai nói gì cả?
Một điểm
nhỏ nữa cũng cần nêu ra, chúng tôi chú ý đến chú thích số 4, trang 183, sau đây:
"Plan
de la ville de Sai Gòn fortifiée en 1790 par le Colonel Victor Olivier, réduit
du grand plan levé par ordre du Roi en 1795, par Brun, ingénieur de Sa Majesté.
Par JM Dayot, 1799. Tạm dịch: Bản đồ thành phố Sài Gòn, do đại tá Victor
Olivier bố phòng năm 1790, được ông Brun, kỹ sư của Hoàng thượng vẽ lên bản đồ
lớn theo lệnh Vua năm 1795, nay JM Dayot vẽ nhỏ lại. 1799. Tiếc rằng chưa tìm lại
được bản đồ lớn vẽ năm 1795. Nếu có, có lẽ còn biết thêm nhiều chi tiết bổ ích
về Sài Gòn xưa" (Nguyễn Đình Đầu, bđd, chú thích 4, t. 183.)
Nhà nghiên
cứu không cho biết câu này ông trích ở đâu. Có thể đã được rút ra từ câu: "Có
một bản đồ thành Sài Gòn do đại tá Olivier vẽ. Rút nhỏ bản đồ lớn do kỹ sư Le
Brun vẽ theo lệnh Vua nước Nam" (Schreiner, Abrégé de l'Histoire
d'Annam, t. 104, note 1.), mà Cadière trong bài diễn văn đọc trước Thống Chế
Joffre, đã dùng để làm chứng cho việc Le Brun có vẽ "bản đồ lớn", nhưng
Cadière còn viết thêm: Rủi thay chúng tôi không có bản đồ này trong thư viện"
(Cadière, BAVH, 1921, t. 283-288).
Nhưng ta
có thể đoán là nó được in ở trong một bộ sách vẽ các bản đồ Sài Gòn do Tây in.
Mặc dù ở trang sau (t. 185) Nguyễn Đình Đầu có nghi ngờ con số 1795, vì ông biết
Le Brun đã bỏ đi từ 1791. Nhưng tất cả những sai lầm tích tụ trong đoạn văn này,
tại sao ông không phản bác: ngoài việc Puymanel xây thành Sài Gòn năm 1790, mà
chúng tôi đã chứng minh ở trên là không thể. Rồi đến năm 1795, vua sai Le Brun
vẽ tấm bản đồ lớn. Bản đồ nào? Le Brun đã bỏ đi từ năm 1791, thì sao năm
1795, vua lại có thể sai y vẽ bản đồ lớn? Rồi Dayot lại vẽ nhỏ lại năm
1799. Dayot bị án tử hình đã trốn biệt từ năm 1795, làm sao năm 1799 y còn ở đó
mà vẽ lại cái "bản đồ lớn" của Le Brun?
Vì chúng
ta không cặn kẽ tìm tòi, phân tích mọi sự đến nơi đến chốn, cho nên người Pháp
thực dân muốn in gì thì in, muốn viết gì thì viết.
Một cái
bản đồ, chưa chắc đã có, được đưa ra như một chứng từ có thật về nhà kiến
trúc đô thị đầu tiên ở Việt Nam, Le Brun, thực chất chỉ là người lính binh
nhất, đào ngũ. Thế mà ở chỗ nào cũng thấy chép như thế. Thật là xấu hổ và vô ơn
đối với tiền nhân, những người đã đích thực vẽ, xây các thành Gia Định, Diên Khánh
và các thành trì khác trên toàn cõi Việt Nam.
Thụy Khuê
(Còn tiếp)
Kỳ tới: Tôn Thất Hội, Trần Văn
Học, Vũ Viết Bảo, những tác giả đích thực xây thành Gia Định và Diên Khánh
Chú thích:
1. Nguyên văn tiếng Pháp: En 1789 et
1790, si le roi de la Cochinchine l'avait voulu, il aurait reconquis
sur-le-champ son royaume. L'arrivée des frégates (la Dryade, le Pandour et la
Méduse), ainsi que celle des navires venus de Pondichéry, de l'Ile de France et
de Macao, avaient jeté l'alarme chez les ennemis. Le Tonkin attendait le moment
de secouer le joug pour reconnaitre son véritable roi. Mais les succès de
celui-ci furent peu conséquents, ou mal soutenus. Il prit une province (le Binh
Thuan), y laisser des troupes; leur petit nombre les fit chasser; l'espoir
revint aux rebelles, outre qu'il fut augmenté par le roi lui-même, par sa conduite.
MM. Olivier et Le Brun, officiers français, lui donnèrent un plan de ville
fortifiée. Le roi voulut de suite en faire bâtir une, quoique cela exigeât
un temps plus favorable. Il a fallu alors vexer le peuple, abattre les maisons
et occuper 30.000 hommes pour fortifier une place où le roi espérait se
retirer, en cas de revers. Le peuple et plusieurs mandarins se sont soulevés.
MM. Olivier et Le Brun ont couru des dangers comme les auteurs du
projet. M. l'Evêque d'Adran, en les retirant chez lui, les a délivrés de tout
accident. Cependant le calme est revenu, le roi ayant licencié ses troupes et
permis à tout le monde de semer du riz. On espère d'une bonne récolte. Alors le
peuple ne se plaindra plus."
2. "Le Roi s'en revint à Gia
Định dont il s'était d'abord emparé. Il se fortifia de son mieux, construisit
des galères, etc... et engagea M. Olivier, officcier francais, à lui faire une
ville à l'européenne dans une des provinces nouvellement conquise. Elle était à
peine achevé lorsque les rebelles y accoururent au nombre de quarante mille
hommes, résolus de l'escalader; mais tous leurs efforts furent vains".
3. "Nous fûmes un instant tenté de retenir pour épigraphe de
notre ouvrage ce jugement de Rémy de Gourmont: "Le plus honnête serait de
donner la parole "aux témoins originaux; c'est en ce sens qu'on a dit que
la meilleure histoire de France serait un recueil de textes..."
Il
est rare, en effet, qu'une prose de seconde main parvienne à restituer vraiment
l'atmosphère exacte des événements. Trop souvent, le livre, même le plus
consciencieux, altère les faits, fausse la perspective, ne peut parvenir à
recréer l'atmosphère. Au contraire, et par définition même, si on peut dire, la
citation, le document d'archives comportent un indéniable accent de vérité, une
puissance d'évocation, une richesse expressive inégalabes. C'est pourquoi,
persuadé que la révélation de textes peu connus fournirait au lecteur plus de
profit et d'agrément qu'un récit indirect de notre plume, nous avons pris le
parti de nous effacer devant les acteurs de la Geste indochinoise."
4. "Plutôt que de nous borner à
égrener sèchement des textes l'un après l'autre, nous avons tenu à présenter,
assez longuement parfois, les passages reproduits. Nous avons relié, soudé les
textes les uns aux autres; nous les avons complétés par des commentaires de
mise en situation, parfois assez développés, destinés à donner autant que faire
se pouvait l'explication des événements, que l'historien, plus ambitieux que le
chroniqueur, s'efforce de tirer au clair".
- Chương 1: Chương 1: Nhu cầu viết lại lịch sử thời Pháp thuộc
- Chương 2: Giới thiệu bộ sử Nguyễn Văn Tường của Nguyễn Quốc Trị
- Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 - (Phần 1)
- Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 - (Phần 1) - tt
- Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 (Phần 2)
- Chương 4: Tác phẩm của John Barrow (1764-1848) - (Phần 1)
- Chương 5: Ai cứu Nguyễn Ánh khỏi sự lùng bắt của Nguyễn Huệ, tháng 9-10/1777
- Chương 6: Chân dung vua Gia Long
- Chương 7: Montyon và cuốn Thuyết trình thống kê về Bắc Hà (Phần 1)
- Chương 7: Montyon và cuốn Thuyết trình thống kê về Bắc Hà (Phần 2)
- Chương 8: Hịch cuả Quang Trung
- Chương 9: Ký sự Bissachère
- Chương 10: Thụy Khuê - Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
- Chương 11: Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long - Chương 11
- Chương 12: Huyền thoại Le Brun và Puymanel xây thành Gia Định và Diên Khánh