Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2015
Thụy Khuê - Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long - Chương 9
Ký sự Bissachère, thủy tổ sự bóp méo lịch sử
Sử gia Charles B. Maybon và linh
mục học giả Cadière là hai người có công đầu trong việc "xây dựng lại sự
nghiệp" của những người Pháp đến giúp Gia Long. Cadière sưu tầm tài liệu,
văn bản, thư từ, dấu vết, dịch các văn bằng, tước vị, tìm lại đời sống, nơi cư
ngụ, mộ phần... của những người Pháp; còn Maybon viết lại giai đoạn lịch sử này.
Sự nghiên cứu của Cadière và những tác giả khác trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ
(Bulletin des Amis du Vieux Huế, BAVH) về những nhân vật này thực là cặn kẽ, ví
dụ: không một chi tiết nhỏ nào về đời sống của Chaigneau là không được truy
lùng tìm kiếm, rồi chiếu tỏ lên, ông được thượng diễn như một vị đại thần, có
vai trò chủ yếu trong triều đại Gia Long.
Về phần Maybon, tác phẩm
nòng cốt của ông là bộ sử thời danh, tựa đề Histoire moderne du pays
d'Annam, (1592-1820), étude sur les premiers rapports des
Européens et des Annamites et sur l'établissement de la dynastie annamite des
Nguyễn (Lịch sử hiện đại nước Nam (1592-1820), khảo luận về những giao
tiếp đầu tiên giữa người Âu với người An Nam và về sự xây dựng triều đại An Nam
nhà Nguyễn), Librairie Plon, Paris, 1920. Phần chủ yếu trong cuốn sử này viết
về giai đoạn Gia Long dựng nghiệp. Để hậu thuẫn cho những lập luận trong cuốn Histoire
moderne du pays d'Annam, Maybon cho in cuốn La Relation sur le Tonkin et
la Cochinchine de Mr de la Bissachère (Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà của ông de
La Bissachère) với những ý định rõ ràng:
1- Bác bỏ những điều Barrow
và Montyon viết về Gia Long bằng cách phê phán gắt gao hai tác giả này.
2- Xác định sự "đáng
tin cậy" của Bissachère và Sainte-Croix, hai tác giả được ông giới thiệu trong
La Relation de la Bissachère (Ký sự Bissachère). Maybon dựa vào những điều
Bissachère và Ste-Croix viết trong Ký sự Bissachère, để thiết lập
"sự thực" về "công trạng lớn lao" của Bá Đa Lộc và những "sĩ
quan" Pháp đến giúp Gia Long, mà ông cho rằng Thực Lục và Liệt Truyện đã
cố tình bỏ qua.
3- Cách trình bầy chứng từ
và lập luận tỏ ra vững vàng và "khoa học" của Maybon đã khiến cho hầu
như tất cả mọi người đều khâm phục và tiếp nhận những điều ông viết như những
"sự thực cuối cùng", rồi phụ hoạ hoặc chép theo mà không cần đặt câu
hỏi.
4- Tính cách nghiêm túc của
tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des Amis du vieux Huế, BAVH) và tập san Trường
Viễn Đông Bác Cổ (Bulletin de l'Ecole Française d'Extrême Orient, BEFEO), mà
hai học giả này phụ trách, đã bảo lãnh rộng rãi cho những điều mà họ đưa ra về giai
đoạn lịch sử này.
5- Về phần người Việt, sau
hơn thế kỷ bị Pháp đô hộ, đã mất gần hết bản tính tự cường về tư tưởng, không
còn khả năng làm lấy việc của mình, trở thành ỷ lại, cái gì người ngoài, người Âu,
nhất là người Pháp làm, đều hơn ta cả. Đó là lý do giải thích tại sao, trong một
trăm năm qua, đã không có lấy một bài viết nào đả phá những sự bịa đặt thô
thiển của những ngòi bút thực dân về giai đoạn này, cũng không có bộ sử nào khả
dĩ có thể thay thế được cuốn sử của Trần Trọng Kim. Và đó cũng là cái nhục tinh
thần của một dân tộc, ngoài cái nhục mất nước.
*
Cuốn La Relation sur le
Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère (Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà
của Ô. de La Bissachère) do Charles B. Maybon trình bầy, viết lời giới thiệu và
chú thích, nxb Champion, Paris, 1920 (sẽ dẫn là Ký sự Bissachère, hoặc
Bissachère) vì gắn bó với tên tuổi sử gia Maybon, nên được nhiều người trích
dẫn, kể cả các học giả nổi tiếng.
Bản Maybon in năm 1920, là
bản thứ ba, tức là ra đời khá chậm, nhưng tại sao một số điều ghi trong sách
này lại có ảnh hưởng rất sâu, từ trước năm 1920? Bởi vì, cách đấy hơn một thế
kỷ, năm 1810, Sainte-Croix đã cho in lần đầu bản Ký sự này trong cuốn
sách của ông tựa đề "Voyage commercial et politique aux Indes
Orientales..." (Hành trình thương mại và chính trị ở Đông Ấn...); và những
sự bôi nhọ Gia Long có tính cách "giật gân, kinh dị" do Bissachère viết
ra, đã được truyền đi từ 1810, tức là cách đây hơn hai thế kỷ.
Maybon cho in lại những điều
nhơ nhuốc ấy năm 1920, vì ba lý do:
Thứ nhất: xác định lại tên
tác giả Ký sự này là Bissachère chứ không phải Sainte-Croix.
Thứ nhì: giới thiệu những
điều Sainte-Croix viết trong bài Introduction (Nhập đề) như một loại
chứng khác, chưa hề in ở đâu. Bài viết này đưa ra những "thông tin"
quái đản khác về Gia Long và nhất là thổi phồng "công trạng" của các
"sĩ quan" Pháp.
Thứ ba: Cả Bissachère lẫn
Sainte-Croix đều tôn sùng Bá Đa Lộc và đề cao sự nghiệp các "sĩ quan"
Pháp, trong việc giúp Gia Long lấy lại ngai vàng, điều mà Maybon muốn xác định
trong bộ sử Histoire moderne du pays d'Annam để vinh danh công trạng của
người Pháp trong việc Gia Long thống nhất nước Nam.
Relation de la
Bissachère, thủy tổ việc bóp méo lịch sử Pháp-Việt
Bissachère là ai?
Pierre-Jacques Lemonnier de
La Bissachère sinh khoảng 1764 tại Angers. Học đạo. Gia nhập hội Thừa sai Ngoại
quốc Paris. Tháng 3/1790, ông rời Orient; sang Bắc Hà hoạt động ở vùng Nghệ An.
Theo Maybon, năm 1795, đạo chúa ở vùng Nghệ An bị đàn áp, ông phải trốn tránh. Năm
1798, 1799, có những đàn áp mới, Bissachère phải sống chui nhủi khổ cực. Tới
1800, tình trạng khá hơn, Bissachère trở lại Nghệ An. Khi Gia Long đánh ra Bắc,
đầu tháng 7/1802 đến Nghệ An, vẫn theo Maybon, Giám Mục Castorie [La Mothe] và
La Bissachère đến chào. Năm 1806, Bissachère bị bệnh, phải về Macao, tại đây,
năm sau, ông gặp và trao cho viên sĩ quan kỵ binh Renouard de Sainte-Croix, tập
bản thảo ký sự của ông, trước khi về Anh tỵ nạn [Hội thừa sai Pháp sau cách
mạng 1789 phải chạy sang Anh]. Tại Luân Đôn, sinh sống khó khăn, ông gặp nam
tước de Montyon ở Pháp sang tỵ nạn chính trị; có lẽ họ đã trao đổi với nhau về
cuốn ký sự này. Năm 1815, Pháp trở lại chế độ vương triều, Louis XVIII lên
ngôi, Bissachère về Pháp, trở thành chuyên gia của chính phủ Pháp về tình hình
Á Đông, đặc biệt Việt Nam. Ông mất năm 1830 (Theo tiểu sử Bissachère do Maybon
soạn trong bài Introduction, Ký sự Bissachère, t. 5).
Vị giám mục cai quản địa
phận Bắc hà từ 1773 đến 1823 là Jean Labartette. Ông sinh ở Ainhoa, miền nam
Pyrénées ngày 31/1/1744, đi truyền giáo ngày 29/11/1773, thăng giám mục năm 1774
và mất ở Cổ-Vưu, thuộc Quảng Trị ngày 6/8/1823 (Launay III, t. 12).
Theo thư từ ông viết về hội
truyền giáo, ta có thể biết đại lược tình hình: từ 1773 đến 1785: đạo Gia Tô ở
Bắc Hà được an toàn. Từ khi Nguyễn Huệ, chiếm được chính quyền ở Phú Xuân, năm 1786,
mọi sự thay đổi: Nguyễn Huệ không thích đạo giáo nói chung, buộc các sư sãi về
nhà, làm ruộng, đi lính, đóng cửa chùa chiền, giáo đường và cho lệnh tìm bắt giáo
sĩ.
Khi Bissachère đến Bắc Hà trong
năm 1790, vua Quang Trung đã đuổi xong quân Thanh và thu phục toàn thể đất Bắc,
thời điểm này Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An cũng đã xây xong. Bissachère ở
trong vùng Nghệ An, chắc là phải chịu sự hà khắc đó.
Félix Renouard de
Sainte-Croix (1767-1840)
Người thứ nhì đóng góp vào sự
xuyên tạc lịch sử là Félix Renouard de Sainte-Croix, sự tác hại của những điều ông
viết trong bài Introduction (Nhập đề) dài 28 trang, được Maybon in lại, tương
đương hay tệ hơn Bissachère.
Sainte-Croix là người được
Bissachère phó thác những dòng ký sự của mình, ông là cựu sĩ quan kỵ binh, sang
Á Châu theo hạm đội của tướng Decaen [có nhiệm vụ tiếp nhận các thuộc địa Pháp
ở Á Châu được Anh trả lại sau hiệp định Amiens 27/3/1802)], ông đến Pondichéry
(Ấn độ) tháng 7/1803. Ở Ấn Độ một năm, rồi sang Phi Luật Tân. Trở về Macao cuối
1806. Sang Quảng Đông, qua Đà Nẵng nhưng không ghé lại. Gặp Bissachère ở Macao
và được trao bản thảo tập ký sự, năm 1807.
Ba năm sau, Ste-Croix cho in
bộ sách nhan đề "Voyage commercial et politique aux Indes Orientales,
aux Iles Philippines, à la Chine, avec des Notions sur la Cochinchine et le
Tonkin pendant les annéés 1803, 1804, 1805, 1806 et 1807" (Hành
trình thương mại và chính trị ở Đông Ấn, Phi Luật Tân, Trung Hoa, với những
khái niệm về Nam kỳ và Bắc kỳ trong những năm 1803...1807) (Aux Archives du
droit français, Imprimerie Crapelet, Paris, 1810).
Bộ sách này gồm ba
tập, viết dưới hình thức 80 lá thư gửi bạn, kể lại những điều Ste-Croix ghi
nhận trong 5 năm công tác ở Á Châu. Lá thư chót, trá đề Đà Nẵng ngày 25/12/1807
[vì Ste-Croix không vào Đà Nẵng, chỉ đi qua] tựa là Notions préliminaires
sur la Cochinchine et le Tonkin (Khái niệm sơ bộ về Nam Hà và Bắc Hà) (t. 221-289),
viết về tình hình nước Nam; và đó chính là Ký sự Bissachère, được sửa
đổi cách sắp xếp, không đề tên tác giả, chỉ nói là của một giáo sĩ đã sống ở
Việt Nam nhiều năm.
Ký sự Bissachère do Ste-Croix in năm
1810, sẽ là nguồn phát xuất những thông tin bôi nhọ Quang Trung, Gia Long và
dân tộc Việt, cách đây hơn hai thế kỷ, in ở Paris.
Maybon và Ký sự
Bissachère
Một thế kỷ sau, Maybon tìm
thấy trong văn khố Bộ ngoại giao Pháp, tập bản thảo gồm có:
- Một bài Avant-propos
(Tựa) không ký tên, của Sainte-Croix (4 trang).
- Một bài Introduction (Nhập
đề) không ký tên (28 trang) cũng của Ste-Croix.
- Một bài Récit abrégé de
quelques circonstances de la conquête du Tonkin par le prince annamite connu
sous le nom de Gia Long (Bài tóm lược vài cảnh đánh chiếm Bắc Hà của ông
hoàng nước Nam tên là Gia Long) do Bissachère viết (17 trang).
- Một bài ký sự tựa đề Des
Notions sur le Tonkin (Những khái niệm về Bắc Hà) của Bissachère (49
trang).
- Hai tư liệu đính kèm (Hịch
Quang Trung và Những thông tin về Bắc Hà).
Maybon thu thập tất cả những
tài liệu này và in trong cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de
Mr de la Bissachère (Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà của Ô. de La Bissachère) do chính
ông trình bầy, viết lời giới thiệu và chú thích.
Maybon nói rõ mục đích của
mình trong bài Introduction ở đầu sách:
"Có ba điều bổ
ích trong việc in lại sách này: Thứ nhất, trả lại cho cuốn sách dạng thức ban
đầu mà tác giả viết. Văn bản còn kèm theo những chú thích của Renouard de
Sainte-Croix, đã bị bỏ đi trong lần in lần đầu. Sau cùng, hai bài "Avant-Propos"
và "Introduction" của Sainte-Croix hoàn toàn "inédits",
chưa in ở đâu, trừ vài lầm lỗi, chứa đựng những thông tin về lịch sử Việt Nam,
lại càng quý giá hơn nữa, vì đến từ Jean-Marie Dayot, một sĩ quan Pháp đã phục
vụ đắc lực cho ông hoàng An Nam từ đầu cuộc chiến chống phiến loạn" (Maybon, Ký sự
Bissachère, Introduction, t. 6-7).
Câu của Maybon "trừ vài
lầm lỗi, chứa đựng những thông tin về lịch sử Việt Nam, lại càng quý giá hơn
nữa, vì đến từ Jean-Marie Dayot" đã xác định điều này: Maybon đánh giá
cao bài Introduction của Sainte- Croix vì bài này Ste- Croix viết theo
lời Dayot thuật lại.
(Dayot, là một trong những
lính Pháp đến giúp Gia Long, được vua tin dùng, nhiều lần được trao nhiệm vụ đi
mua khí giới ở nước ngoài. Năm 1792, Dayot phạm tội thâm thủng ngân quỹ trong
một chuyến đi, bị đuổi, nhưng xin ở lại. 1795, Dayot làm đắm tầu, bị xử tử,
trốn đi luôn, sống ở Phi Luật Tân, tại đây, gặp Ste- Croix, và kể cho Ste-Croix
những điều y viết trong bài Introduction này).
Cuốn Ký sự Bissachère
chia làm ba phần:
- Trang 5-70: là bài Introduction
do Maybon viết, về sự ra đời của cuốn sách lần này, về hai ấn phẩm in năm 1810
của Sainte-Croix và năm 1811 của Montyon. Bài Introduction này dài hơn 1/3
cuốn sách (bài Introduction của Maybon dài 64 trang, bài Introduction
của Ste- Croix dài 28 trang và Ký sự Bissachère dài 66 trang), có ba điểm
nổi bật: đả kích và triệt hạ tác phẩm của Barrow và Montyon và vinh thăng sự
nghiệp Dayot.
- Trang 71-104: Bài Avant-
Propos và Introduction của Ste-Croix.
- Trang 105-172: dành cho
phần Ký sự Bissachère.
Maybon trân trọng giới thiệu
cuốn Ký sự Bissachère trong bài Introduction dài 64 trang, nên cuốn
sách này sẽ được mọi người sử dụng như những tư liệu đáng tin cậy, nhờ tên tuổi
của Maybon. Trong sách, vì có tới 2 bài Introduction, một của Maybon và một của
Ste-Croix, cho nên những người trích dẫn sách này, thường không phân biệt: đoạn
nào do Maybon viết, đoạn nào do Ste-Croix viết, thường chỉ vắn tắt ghi Bissachère
hoặc Maybon.
Những sự bôi nhọ Quang Trung
và Gia Long của Bissachère trong Ký sự, được Maybon in lại mà không chú
thích, sẽ trở thành "sự thực".
Những sự thổi phồng vai trò
của Bá Đa Lộc và những người lính Pháp của Sainte-Croix trong bài Introduction,
được Maybon cho in, mà không chú thích, cũng sẽ trở thành "sự thực".
Vì vậy cho nên chúng tôi
thấy cần phải "giới thiệu lại" cuốn Ký Sự Bissachère do Maybon
chủ biên, để độc giả biết các tác giả này đã viết những gì và sau đó, ta sẽ tìm
hiểu tiến trình bóp méo lịch sử thành lịch sử của những cây bút thuộc điạ.
*
Chúng tôi giới thiệu phần Ký
sự Bissachère trước, bài Introduction của Ste-Croix sẽ được giới
thiệu sau.
Ký sự Bissachère chia làm 2 phần:
Phần đầu (t. 105-122) mang
tên: Récit abrégé de quelques circonstances de la conquête du Tonkin par le
ci-devant Roy de Cochinchine Ngu-Yen-Anh qui aujourd'hui porte le titre
d'empereur Gia Long (Tóm lược vài cảnh chinh phục Bắc Hà của vua -trước
đây là vua Nam Hà- bây giờ mang danh hiệu hoàng đế Gia Long): Nội
dung nói sơ lược về Nguyễn Ánh và nguyên nhân thành công: Nhờ sự giúp đỡ của
Tây phương, chủ yếu là Bá Đa Lộc. Lược thuật trận Trấn Ninh và sự can đảm của
Bùi Thị Xuân. Mô tả việc Gia Long trừng phạt Tây Sơn.
Phần thứ nhì (t. 123-172), mang tên:
Notions sur le Tonquin (Những khái niệm về Bắc Hà): Mở đầu, nói
qua về nguồn gốc chữ Tonquin, theo ông phải viết là Nước Nam mới đúng (t.
123-124), tiếp theo là nội dung, như sau:
Kể tội Gia Long đàn áp dân
chúng, sưu cao thuế nặng, xây thành đài, dùng hình phạt dã man, bắt dân vào
rừng rú tìm lâm sản, quan lại tham nhũng, làm giầu trên thuế má, chế độ rình
rập, mật thám được trả lương cao. Sau khi xây dựng xong thành quách, quan lại
vinh thân phì gia, dân chết đói phải bán con để sống. Tiếng Bắc nghe hay, tiếng
Nam thô lỗ v.v ... Tất cả những đoạn này sẽ được nhiều tác giả trích dẫn để
"chứng minh" sự "bất tài" của Gia Long.
Về "lịch sử" Bắc
Hà: Bissachère mô tả sự nhục nhã trong việc nhận lễ tấn phong của Trung Hoa:
vua Việt phải quỳ gối trước sứ giả mang thánh chỉ của thiên triều (t. 131). Quân
của Quang Trung (đánh Thanh) là một bọn thổ phỉ, tàn sát, cướp bóc dân chúng (t.
132). Tôn giáo ở Bắc Hà toàn một bọn mê muội, sùng bái quỷ thần, thờ cúng ma
quỷ (Idolâtrie). Quần chúng mê tín dị đoan, bị các thầy pháp mê hoặc, bị
ma làm... (t. 134-135).
Về Gia Long, Bissachère cho
rằng "Gia Long vô thần, không có thần nào khác ngoài ông và bụng
ông", Gia Long chỉ kính trọng Khổng tử (t. 137). Mẹ và em gái vua đều
tin ma quỷ (t. 138). Bissachère tiếp tục chỉ trích tín ngưỡng của người Việt
nhưng ông tỏ ra không hiểu gì về văn hoá Việt, trộn chuyện Liễu Hạnh với chuyện
ma rung thuyền, vv... (t. 140). Ông kể tình hình khốn khổ của đạo Chúa (t. 141).
Quan lại tham nhũng, làm tiền (t. 143). Tội ác. Lệ làng. Luật pháp. Binh lính.
Tổ chức làng thôn (t. 148). "Trên hà hiếp dưới, cá lớn nuốt cá bé" (t.
152). Đất Bắc mầu mỡ hơn đất Tầu (t. 154), có mỏ (t. 155). Gia Long bị dân Bắc
ghét (t. 156). Tả đội voi trận (t. 157). Người Việt khinh ghét người Tầu, gọi
là "Ngô chó" (t. 157). Người Việt qụy lụy trước người trên. Tục quỳ.
Cách ngồi ăn: chiếu trên, chiếu dưới, tùy theo ngôi thứ (t. 159). Vị trí người
phụ nữ trong gia đình. Đa thê (t. 160-161). Cưới hỏi, hồi môn trang sức, y phục
(t. 162-163). "Cấm [dân] lợp ngói mái nhà trừ đền thờ tổ tiên
của vua" (t. 166). Người Việt không khuyến khích nghệ thuật (t. 167).
Đồng bằng thuộc loại phì nhiêu nhất thế giới và mỏ nhiều như ở Pérou (t. 167).
Người Bắc khéo nói và nói hay, mồm miệng đỡ chân tay (t. 168). Ăn cá với cơm (t.170).
Lễ phục đẹp, giống như đội hát đồng ca dòng Bénédictine (t.170). Ăn tất cả các
thứ thịt kể cả thịt chó, ăn cả con tầm, ăn nhau các con vật, dùng nhau bà đẻ
chữa bệnh, ăn tất cả các loại sâu thoát ra từ đất (rươi) (t. 171-172).
*
Bissachère là người ít học,
không quen viết lách, cho nên ông kể chuyện vô trật tự, câu cú lôi thôi, gặp
đâu viết đấy. Dù Maybon có sửa chữa và sắp xếp lại câu chữ, nhưng vẫn còn nhiều
đoạn lủng củng tối nghiã.
Điểm đáng chú ý nhất:
Bissachère là người tu hành, nhưng có lẽ vì phải sống trong những điều kiện khó
khăn trốn tránh, nên ông viết về nước Việt với một lòng thù hận khó tả, ông chỉ
nhìn thấy những khía cạnh xấu xa, đáng khinh bỉ, tởm lợm mà ít có sự tôn trọng,
thông cảm.
Chưa nói đến những thiếu
thốn kiến thức về lịch sử, văn hoá, tôn giáo Việt Nam và Đông phương, lối kể
chuyện của ông đôi khi khó hiểu, vì cách ngắt câu. Thí dụ, mở đầu, ông viết:
"Ngu-yen-anh dù
sinh ở Nam Hà, nhưng gốc Bắc dòng dõi các quan lớn trong triều: khoảng 25 năm
nay, trốn quân Tây Sơn cướp ngôi, lang thang trên bờ biển của vua Xiêm, được
các giáo sĩ Âu châu nuôi nấng trong vài tháng. Nhưng chẳng bao lâu lại được dân
Đồng Nai thuộc Cao Mên đón tiếp, cùng với Nam Hà và Bắc Hà bị quân Tây Sơn
chiếm đóng; ông ở lại trong vùng này, dưới danh nghiã là Chúa, nhờ sự cứu giúp
của vài chiến hạm Tây phương mà quân Tây Sơn rất sợ, tấn công; một mặt, Nguyễn
Ánh có lợi thế trên biển nhờ đại bác và hỏa lực Âu Châu bắn xa hơn đại bác và
hỏa lực Bắc Hà (t. 106-107).
Câu trên chứng tỏ ông không
biết rõ Nguyễn Ánh, ông không rành địa lý nước Nam, ông đưa ra những xác định
vô bằng cớ, kiểu: Nguyễn Ánh "được các giáo sĩ Âu châu nuôi nấng trong
vài tháng", "nhờ sự cứu giúp của vài chiến hạm Tây phương mà quân Tây
Sơn rất sợ.", "có lợi thế trên biển nhờ đại bác và hỏa lực Âu
Châu bắn xa hơn đại bác và hỏa lực Bắc Hà"...
Nhưng những lời nói vu vơ
này sẽ được người ta chép lại nhiều lần, và trở thành "sự thực lịch sử".
Về việc Nguyễn Ánh đánh Phú
Xuân năm 1801, Bissachère viết: "Ông cũng được khuyến khích bởi ý kiến
của vài người Âu kể rằng đó là một trong những kế hoạch của Đức Giám Mục quá cố
Bá Đa Lộc, nhờ thuận gió [gió mùa] đem toàn lực quân đội đến vây kinh đô
Nam Hà, nơi vua trẻ Cảnh Thịnh ở với một ít quân..." Câu này cũng sẽ
được những người viết sử về Bá Đa Lộc, từ Faure đến Maybon... chép lại, cho
rằng cách đánh thuận theo gió mùa của Nguyễn Vương là do Bá Đa Lộc
"dạy", và khi Vương đánh Phú Xuân năm 1801, theo chiến lược của Đặng
Đức Siêu, Maybon vẫn dùng lại ý này của Bissachère, để kết luận: đó là để thực
hiện kế hoạch của linh mục quá cố Bá Đa Lộc!
Tại sao một "văn bản lịch
sử" sai lầm như vậy lại được một sử gia tầm cỡ như Maybon hết sức bênh vực
và giới thiệu? Bởi đó là văn bản đầu tiên (từ năm1810) đã nói rằng: Nguyễn
Ánh nhờ tầu bè, súng đạn của người Âu, nhờ Bá Đa Lộc làm quân sư, mà dựng nên
sự nghiệp.
Như trên đã nói: Ký sự
Bissachère chia làm hai phần; phần đầu rất ngắn, nhưng lại chứa đựng những tác
hại lớn đối với lịch sử dân tộc, vì sự bôi nhọ Quang Trung và Gia Long và hạ
thấp Việt Nam như một dân tộc mọi rợ, không có luật pháp.
Bôi nhọ Quang Trung
Vì căm thù Tây Sơn không
dung đạo giáo, Bissachère tìm cách triệt hạ Quang Trung bằng sự bịa đặt thô
thiển về việc Quang Trung mộ binh ra Bắc đánh quân Thanh, ông viết:
"Quang Trung
đang ở Nam Hà, hay tin quân Tầu đã sang, chạy vội ra Bắc với vài trăm lính, đi
ngày đêm, lượm trên đường tất cả những kẻ có thể cầm được khí giới, cướp lương
thực trong các làng mạc đi qua, chặt đầu kẻ nào không theo lệnh, đốt nhà kẻ nào
không hiến gạo, trâu, lợn cho quân ăn, thường nổi cơn giận hoặc lên cơn điên,
hay ra lệnh giết ngay trước mặt ông những người, ngựa không bước kịp theo. Ông
ta tiến gần đến trại quân Tầu với đoàn quân mỏi mệt, què cụt vì đường xa, dở
sống dở chết, chẳng làm khiếp sợ quân địch; ông ta tấn công và giết khoảng
40.000 người ngay hôm mới đến, những kẻ thoát được trốn vào rừng rồi cũng chết.
Chỉ còn lại rất ít chạy về Tầu báo tin thua trận" (t. 132-133),
Lối viết này thực là ấu trĩ,
bởi nếu Quang Trung là "kẻ cướp", "giết người" như thế, với
một đội quân "mỏi mệt, què cụt" "dở sống dở chết" như
thế mà tại sao lại tấn công và giết được "40.000 người ngay hôm mới đến"?
Nhưng điều lạ không phải ở
đấy, mà là ở chỗ sử gia tiến sĩ Maybon, người đã biên tập và chú giải ký sự
này, lại không có một lời chú thích, giải nghiã cho độc giả biết tại sao có
những mâu thuẫn này!
Về việc Quang Trung mộ binh
đánh quân Thanh, Liệt truyện viết rõ như sau:
"Huệ được tin
báo cả mừng rằng: con chó Ngô là hạng gì, lại dám ngông cuồng như vậy? Tức thì
hạ lệnh cử binh. Các tướng đều xin chính vị hiệu đế trước, để ràng buộc lòng
người. Huệ bèn đắp đàn ở bên nam núi Ngự Bình, lấy ngày 25 tháng 11 [22/12/1788] tự
lập lên ngôi hoàng đế, đổi năm đầu là Quang Trung (1788); ngay ngày hôm ấy đem
cả tướng sĩ, quân thủy quân bộ đều tiến đi; ngày 29 [26/12/1788] đến
Nghệ An đóng quân ở lại hơn 10 ngày, chọn thêm dân Nghệ An, cứ ba đinh lấy một,
chia thân binh Thuận, Quảng làm 4 doanh Tiền, Hậu, Tả, Hữu mà tân binh ở Nghệ
An là Trung Quân, quân đắc thắng có hơn 10 vạn người, voi chiến hàng trăm thớt,
duyệt đại binh ở trấn doanh. Huệ thân cưỡi voi ra ngoài doanh để uỷ lạo quân
lính, bèn hạ lệnh tiến quân đi. Đến ngày 20 tháng 12 [15/1/1789] đến núi
Tam Điệp" (Liệt truyện, tập 2, truyện Nguyễn Văn Huệ, t. 548).
Về việc Quang Trung đại phá
quân Thanh, Liệt truyện ghi rõ từng chi tiết mỗi trận đánh, khó tìm ra
một ngòi bút sử sau này viết được đầy đủ và cô đọng như thế. Sự khách quan của
các sử gia triều Nguyễn khi viết về "ngụy" Quang Trung, sự thiết tha
và hãnh diện của họ khi viết về sự dũng cảm của Bùi Thị Xuân, "tướng
ngụy", về những sự thực lịch sử, dù của bên thắng cũng như bên bại, là
điều mà nhiều người viết sử sau này không có được. Nhân danh sự "trung
lập" của một sử gia, họ thường có giọng mỉa mai, đôi khi cay độc đối với
Gia Long và cho rằng các sử gia triều Nguyễn tâng bốc nhà vua, và chấp nhận hoặc
biện hộ cho sự ngụy biện của các sử gia thuộc địa, đến độ phản bội sự thực,
phản bội dân tộc mà không biết.
Bôi nhọ Gia Long
Bôi nhọ Quang Trung chưa đủ,
Bissachère còn dành cho Gia Long một đoạn tiểu thuyết hoang đường về sự trừng
phạt Tây Sơn, sau khi thống nhất đất nước. Bissachère rất cảm phục Bùi Thị
Xuân, ông đã viết những dòng hết sức hâm mộ sự can đảm dũng mãnh của bà [với những
chi tiết sai lầm, ví dụ: ông kể Bùi Thị Xuân tập hợp được 300.000 quân! Maybon
biện hộ cho sự sai lầm này: không phải lỗi Bisssachère, ông chỉ viết theo một
bài dân ca! (Maybon, Note 1, Bissachère, t. 110]; sau đó Bissachère "mô
tả" cảnh Gia Long làm nhục sọ các vua Tây Sơn và cảnh mẹ con bà Bùi Thị
Xuân bị xử voi dầy với những lời giáo đầu như sau:
"Vua Gia Long
trở về Kinh đô Nam Hà nghỉ ngơi khoảng hai tháng. Sau đó ông lo việc hành hình
tù nhân. Một trong những người đầy tớ mà tôi [Bissachère] gửi vào
triều để xin vua cho tôi một giấy phép, ở trong danh sách những người có thể
vào cung, đứng trước mặt vua trong một tháng, y làm việc trong ngày xử tội, nên
y nhìn thấy rõ từ đầu đến cuối. Khi trở về, y đã kể cho tôi nghe, hôm nay tôi
không nhớ hết tất cả quang cảnh cực kỳ kinh tởm này, tôi chỉ kể lại những điều
khủng khiếp nhất mà về sau mọi người trong nước Nam đều biết" (Ký sự
Bissachère, t. 117-118)[1] (1).
Đoạn văn này cho thấy:
1- Việc Gia Long hành hình
mà Bissachère mô tả sau đó, không phải ông được xem tận mắt, mà do người
đầy tớ của ông kể lại.
2- Người "đầy tớ"
này được ông sai vào triều để xin một giấy phép của vua (hay xin phép
vua) để làm gì, không thấy viết rõ.
3- Tại sao "người đầy
tớ" của một giáo sĩ, không có chức gì đặc biệt trong triều, lại được quyền
đứng trước mặt vua trong một tháng?
4- Tạm hiểu là y được phép
hầu vua trong một tháng. Tại sao nhà vua lại có chung người hầu với một giáo
sĩ? Nhất là vị giáo sĩ này, mới đây còn phải sống lẩn lút trong rừng.
5- Ngay cả Giám mục Labartette,
người cai quản giáo phận Bắc hà (tương đương với Giám mục Bá Đa Lộc ở trong Nam)
cũng sống lẩn trốn, khi Gia Long chiếm Phú Xuân không dám ra trình diện. Theo thư
của Barisy gửi M. Marchini, ngày 15/7/1801 (Launay, III, t. 423) vua đã sai anh
ta đi kiếm vị thủ lãnh đạo Gia Tô này. Theo Labartette (ông ở Huế) việc được
vua vời ra là một ân huệ lớn. Một giáo sĩ vô danh như Bissachère làm sao có thể
"giao thiệp" với vua, chưa nói đến việc gửi đầy tớ vào triều,
xin vua này, nọ?
6- Bissachère không hiểu
nghi lễ triều đình nước Nam, hoặc cố tình viết loè người Pháp rằng triều đình
Việt Nam như chỗ không người, ai vào cũng được. Ông "thế lực" đến độ
có quyền gửi "đầy tớ" vào cung xin giấy của vua. Ông không biết là sứ
thần các cường quốc Anh, Pháp đến xin yết kiến mà không có quốc thư cũng không
được vua tiếp.
7- Việc xử tử không thể xẩy
ra ở trong cung (palais), như "đầy tớ" kể lại. Theo Thực Lục, xử tử ở
ngoại thành.
Bẩy điểm trên, chứng tỏ Bissachère
bịa chuyện để phô trương sự quan trọng của mình.
Sau đó, Bissachère "mô
tả" sự hành hình:
"Việc đầu tiên
chiếu cố đến ông vua Tây Sơn trẻ [Cảnh Thịnh] là họ bắt ông mục kích cảnh đau đớn: quật
xác cha mẹ chết từ 10, 12 năm, cùng xác những người thân. Xương cốt cha mẹ [vua
Quang Trung và Hoàng Hậu] được bầy lại rồi chém đầu theo đúng hình thức, làm
cho nhục nhã, và theo sự mê tín của nước này, chính là để cho [hương hồn]
những hài cốt này không thể phù hộ phúc lộc cho con cháu. Sau đó, họ bỏ tất cả
xương cốt Tây Sơn vào một cái thúng lớn, bắt lính đi tiểu lên, rồi nghiền nát
thành bột, bỏ sang thúng khác để cho vua trẻ Tây Sơn nhìn thấy mà đau lòng.
Cho vua ăn một bữa
thật sang trọng, đúng như thủ tục ở đây đối với tử tội; người em út, can đảm
hơn, thấy vua ăn, trách, và vì cái bàn để đồ ăn có dấu hiệu vương giả, y nói:
"Nhà ta không thiếu gì bàn ăn mà anh phải ăn bàn mượn"; sau bữa,
người ta nhét giẻ vào miệng y và nhiều người khác vì sợ y lại nguyền rủa vua
mới, rồi buộc tứ chi của y vào bốn con voi để xé xác. Bị voi xé xong đùi và gân
cốt rồi, y còn ngoảnh lại nhìn cái thúng đựng xương cốt cha mẹ. Những kẻ hành
hình, dùng một thứ dụng cụ mà bên Âu Châu không thể tưởng tượng nổi, chia làm
bốn những phần hãy còn dính nhau, cùng với cái đùi đã rời, thành năm phần thịt,
đem bầy ở năm chợ đông nhất thành phố, mỗi miếng trên một cột rất cao; được
canh gác ngày đêm; kẻ nào xâm phạm sẽ bị tội nặng. Đợi cho thối tha hay bị qụa
riả hết.
Còn về ông tướng
Thiên Phô nổi tiếng [Thiếu phó Trần Quang Diệu] được gia đình và những ai quen
biết kính trọng và thương tiếc, ngày hôm trước hay chính ngày chết, ông đã hiếu
thảo xin vua tha chết cho mẹ già 80 tuổi, không thể làm hại ai, và ông được
toại nguyện; ông bị chặt đầu, ông có người con gái tuổi 15, hết sức khả ái, khi
cô trông thấy con voi lớn sừng sững tiến đến quật cô, cô hét lên một tiếng thất
thanh thê thảm về phía mẹ, nói với bà rằng: "Ôi mẹ ơi cứu con với!"
Mẹ cô là người đã cầm đầu quân đội, bảo con: "Mẹ cứu thân mẹ còn chưa được
làm sao cứu nổi con. Con phải chịu chết như cha và cả gia đình, còn hơn sống
nhục với những kẻ này..." Nhiều người xem muốn cứu cô gái, đã phải quay
mặt đi để khỏi nhìn thấy cảnh cô bị hai lần voi tung lên trời, rơi xuống trúng
hai sừng voi đâm thủng.
Khi đến lượt vị nữ
anh hùng, tức vợ của vị Thiếu Phó, bà hiên ngang tiến đến trước voi để kích
thích nó. Khi bà đến gần, người ta hét lên bắt bà phải quỳ xuống cho voi dễ
quật, nhưng bà không quỳ, bà tiếp tục đi tới; người ta kể rằng, mặc dù con vật
bị kích thích mạnh, vẫn phải bắt buộc nó mới ném bà lên, vì nó đã nhận ra bà là
một trong những chủ cũ của nó; trước khi bị hành hình, người đàn bà can đảm này
đã cho đem vào nhà tù nhiều tấm lụa để quấn chân và thân mình tới ngực, tránh
cho thân khỏi bị loã lồ khi chịu cực hình.
Những kẻ hành hình, nghe
nói để có can đảm, đã ăn tim, gan, phổi, và cánh tay mập mạp của bà, vì bà đã
làm cho bao nhiêu quân lính sợ hãi, cả tướng của chúng nữa, khi leo tường [Trấn Ninh], họ
giao chân tay bà cho sự háu đói của bọn ăn thịt người này. Ở Bắc Hà, thịt người
nhắm rượu ăn sống (nhưng người ta chỉ ăn trong những dịp như vậy)". (Les
exécuteurs pour avoir dit-on son courage, mangèrent son coeur, son foie, ses
poumons et ses bras potelés, elle avait causé tant de peur aux soldats et même à
leur Chef à l'escalade de la muraille qu'on livra ses membres à la voracité de
ces cannibales. Au Tonquin, la chair humaine se mange crue en buvant du vin
(mais on n'en mange que dans de semblables occasions) (Ký sự Bissachère, t.
121).
Maybon cho in lại những dòng
như thế này và cũng không có một lời chú thích. Chúng ta thử tưởng tượng trường
hợp ngược lại: một tác giả Việt Nam kể chuyện người Pháp ăn thịt người được Hoàng Xuân Hãn hay Đào Duy Anh cho in
lại mà không chú thích, thì người Pháp sẽ đánh giá dân tộc mình ra sao?
Trở lại những điều
Bissachère viết trên đây: Việc quật mộ Quang Trung và hoàng hậu, Thực Lục ghi làm
hai giai đoạn:
- Tháng 12/1801 (tháng 11
Canh Thân) "Phá huỷ mộ Tây Sơn Nguyễn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu
ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu, 31 người, đều bị lăng trì cắt
nát thây" (TL. I, t. 473).
- Ngày 6/12/1802 (ngày
Giáp Tuất tháng 11 Nhâm Tuất), làm lễ hiến phù (lễ dâng tù binh): đem hài
cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi, còn xương đầu lâu
của Nhạc và Huệ thì đều giam ở nhà Đồ Ngoại. (TL. I, t. 531).
Như vậy, mọi việc khá rõ
ràng: Tháng 12/1801: quật mồ, phơi thây, bêu đầu. Một năm sau, tháng 12/1802, làm
lễ hiến phù: đem xương giã nát và giam đầu lâu vào ngục. Vậy còn đâu xác nữa mà
quật lên trước mắt anh em Quang Toản, như Bissachère tưởng tượng ra.
Những gì Bissachère viết về
việc Gia Long hành hình Tây Sơn, được Sainte-Croix in nguyên văn năm 1810,
Montyon tóm lược, in năm 1811. Maybon tái bản Ký sự Bissachère, năm
1820. Taboulet trích in đoạn hành hình này, năm 1955, trong bộ sách La geste
française en Indochine, tập II, t. 265-266. Theo Nguyễn Quốc Trị, thì Hoàng
Xuân Hãn cũng trích dịch Montyon, để lên án Gia Long. Riêng cảnh hai mẹ con
tướng Bùi Thị Xuân "bị voi dầy" được tác giả Quỳnh Cư mô tả lại toàn
bộ trong tiểu thuyết lịch sử "Đô đốc Bùi Thị Xuân" (nxb Phụ Nữ,
1985), trừ đoạn ăn thịt người! Như vậy đủ biết tác dụng tai hại của Bissachère.
Nguyễn Quốc Trị trong bộ Nguyễn
Văn Thành, (quyển I, t. 350-368), đã tố cáo các sự bịa đặt vu cáo cho Gia
Long, đặc biệt vụ bắt lính đi tiểu lên sọ các vua Tây Sơn.
Việc Gia Long tiêu diệt gia
đình Tây Sơn nằm trong bối cảnh trả thù dòng họ, đã được Thực Lục ghi rõ tên
từng người và chúng tôi đã trích dẫn trong chương ba Tóm tắt lịch sử. Ở
đây chỉ ghi lại những đoạn Thực Lục viết về việc hành hình, tương đối khá đầy
đủ:
"Tháng 11 [Nhâm Tuất, tức
tháng 12/1802] làm lễ tuyên cáo võ công. Ngày Quý Dậu [5/12/1802] tế
thiên địa thần kỳ. Ngày Giáp Tuất [6/12/1802] hiến phù ở Thái Miếu.
Sai Nguyễn Văn Khiêm
là Đô Thống chế dinh Túc Trực. Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri hình bộ áp dẫn
Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa
thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai
tay hai chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt của Nguyễn
Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi, còn xương đầu lâu của Nhạc và
Huệ thì đều giam ở nhà Đồ Ngoại [Ngoại đồ gia, sau đổi là Vũ khổ] (năm Minh Mệnh
thứ hai đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần Quang
Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết" (TL,
I, t. 531).
Bài chiếu ở đoạn sau, viết
rõ hơn:
"Ngày mồng 6
tháng này, tế cáo Trời Đất; ngày mồng 7 yết tế Thái miếu, làm lễ hiến phù, bọn
Nguyễn Quang Toản và ngụy thái tể Quang Duy, Nguyên súy Quang Thiệu, Đốc trấn
Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ,
Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng
vời bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng.
Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu
Xã, rửa hận cho thần nhân." (TL, I, t. 532-533).
Xem như vậy, bốn người có tội
nặng nhất là bốn con vua Quang Trung bị voi xé xác: Gia Long báo oán sự Tây Sơn
giết gia đình mình, đào mả các chúa Nguyễn.
Còn các đại tướng Trần Quang
Diệu, Võ Văn Dũng... cùng với bè lũ đầu sỏ, đều bị chém bêu đầu. Bùi Thị
Xuân, như chúng tôi đã nhắc đến trong chương ba Tóm lược lịch sử, không
thấy Thực Lục ghi tên bà trong số những vị tướng bị bắt, cũng không thấy tên bà
trong danh sách các tướng bị hành hình. Liệt Truyện có câu: "Quang Diệu
từ Quy Hợp xuống Hương Sơn (Nghệ An), nghe thấy Nghệ An đã phá, bèn qua Thanh
Chương sang sông Thanh Long, những người đi theo dần dần tản đi cả. Diệu và vợ
là Thị Xuân đều bị quan quân bắt sống" (Liệt truyện II, t. 570). Vì
Liệt truyện muốn kể một câu chuyện cho nên có thể tác giả đã "suy ra"
việc Bùi Thị Xuân bị bắt cùng với Trần Quang Diệu; nhưng nếu đọc kỹ Thực Lục và
Liệt truyện về giai đoạn cuối cùng của Trần Quang Diệu, cầm quân từ Qui Nhơn
về, lội đèo vượt suối, luôn luôn phải phòng bị quân Nguyễn truy kích mọi ngả; khi
bị bắt, cả quân tướng đều hoàn toàn kiệt sức không còn chống nổi nữa. Như vậy
thì khó có thể ông gặp được vợ, mà bà Bùi Thị Xuân có muốn đi tìm chồng cũng
không biết đâu mà kiếm; nhất là Thực Lục chuyên chép những dữ kiện xác thực,
không ghi việc này. Cho nên việc bắt được Bùi Thị Xuân hay không cũng còn là
một nghi vấn lịch sử.
Á Đông có sự kính trọng nhân
tài mà những người thiển cận như Bissachère không thể hiểu được: các tướng tài
khi bị bắt thường được dụ hàng, nếu không theo mới xử tử. Trong thời gian nội
chiến, có những tướng của Nguyễn Ánh sang hàng Tây Sơn và ngược lại. Trần Quang
Diệu vào thành Bình Định, khóc trước thi hài Võ Tánh, làm lễ chôn cất vị anh
hùng của nhà Nguyễn, tử tiết, rất trọng thể. Bà Bùi Thị Xuân thực quả cảm đã
được sử thần triều Nguyễn mô tả với sự khâm phục kính nể, nếu bà bị xử tử, chắc
chắn đã có vài dòng trong Thực Lục hoặc Liệt Truyện.
Bissachère coi nước ta là
man di mọi rợ, ăn thịt người, không có luật pháp gì cả, nên ông muốn viết sao
thì viết. Ngoài ra ông còn mắc thêm bệnh phô trương và khoác lác, ta có thể
thấy sự này trong sách của Montyon. Đây là những điều Bissachère nói với
Montyon và được Montyon ghi lại trong bài tựa sách của ông:
"Ông Bissachère
đã sống 18 năm ở Bắc Hà và Nam Hà, đã đi hầu hết khắp nơi trên nước này và các
nước lân cận; ông nghe và nói được tiếng [Việt] và đã có quan hệ
với tất cả mọi tầng lớp dân chúng ở đây. Là vị cha thực tế, tâm giao, cố vấn
của giáo dân, khá nhiều trong xứ này, ông giao thiệp với những nhân vật hàng
đầu của quốc gia, ông thường hội họp với các quan, chính ông cũng có văn bằng
làm quan; theo lệnh triều đình, ông có những người Bắc phục dịch riêng cho ông;
nhiều lần ông được bệ kiến Hoàng đế." (Montyon I, Introduction, t.7-8)
Bissachère đến Nghệ An năm
1790, khi Quang Trung trị vì, phải trốn chui trốn nhủi qua các đợt đàn áp đạo
giáo năm 1795, 1798, 1799, như Maybon ghi trong tiểu sử Bissachère. Vậy Bissachère
làm quan với ai, vào lúc nào? Nhiều lần bệ kiến Hoàng đế nào? Quang Trung hay
Quang Toản?
Ngay cả việc Maybon kể: khi
Gia Long hành quân ra Bắc qua Nghệ An, Giám Mục Castorie [La Mothe] và La
Bissachère đến chào, cũng chẳng có gì là chắc chắn, vì lúc ấy, bề trên của các
ông là Giám Mục Labartette còn đi trốn, vì chưa biết thái độ của Gia Long như
thế nào. Đến khi Gia Long, vị tình với Bá Đa Lộc mà sai Barisy đi tìm, giám mục
Labartette mới dám ra. Tạm cho là Bissachère có thể đã gặp Gia Long năm 1802 ở
Nghệ An. Năm 1806, Bissachère về Macao. Trong thời gian ở giữa 1802 đến 1806,
Bissachère đã lập được những "công trạng" gì để thành quan trong
triều Gia Long và được nhiều lần bệ kiến Hoàng đế? Không thấy Maybon giải quyết
những vấn đề này.
Tử hình ở Việt Nam
Nhân việc Bissachère kể hai
mẹ con bà Bùi Thị Xuân bị xử "voi dầy". Chúng ta thử xem lại các loại
hành hình trong luật pháp Việt Nam. Về tội xử tử, đời Lê, Phan Huy Chú viết:
"Tử hình (giết
chết) có ba bực (từ giảo, trảm đến lăng trì gồm làm ba bực. Giảo với trảm kể là
một bực, khiêu và lăng trì kể riêng là 2 bực, có thêm bớt):
1- Giảo (thắt cổ) và
trảm (chém đầu)
2- Khiêu (chém bêu
đầu)
3- Lăng trì (chặt
chân tay, xẻo thịt, làm cho chết dần).
Xét: Phép ngũ hình,
từ trước đời Tuỳ (589-618) là: mặc (thích chữ vào mặt), giảo, trảm, khiêu, liệt
(xé xác) (...) Đến nhà Tuỳ mới định lại (...), tử hình còn hai bực: giảo, trảm;
bỏ những hình tàn khốc, đánh tiên (đánh roi da hoặc sắt), bêu đầu, xé thây. Nhà
Đường (618-907) cũng theo như thế (...) thành phép đời sau không thay đổi (...)
Đến đời Nguyên (1206-1368) lại đặt thêm hình lăng trì, tức đời trước gọi là
"oa". Đời trước hình này dầu có dùng ở ngoài pháp luật, nhưng chỉ là
để xử trị những kẻ ác nghịch cực nặng, không ghi vào hình thư. Đến đời nhà
Nguyên mới thấy ở hình thư mà luật triều Lê ta cũng nhân theo đó." (Phan Huy Chú, Lịch
Triều Hiến Chương, Tập II, Hình Luật Chí, t. 306)
Tội xử tử đời Nguyễn, theo
Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ:
Có 5 tội hình: 1- Tội đánh roi.
2- Tội đánh trượng. 3- Tội đồ. 4- Tội lưu. 5- Tội xử tử.
Tội xử tử lại chia làm 5
loại như sau:
"Có tội giảo,
tội trảm và tội lăng trì, cưu thủ, lục thi. Nếu kẻ nào tội ác quá nặng, thì đem
thi hành ngay, không phải đợi đến kỳ xét án; còn các tội khác đều đợi đến hạn
mùa thu mới đem thi hành án" (Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ, Trần Huy Hân dịch,
tập 11, t. 19).
Giảo là thắt cổ, trảm
là chém đầu, lăng trì là xẻo từng miếng thịt, cưu thủ là chém rồi
lấy đầu đem bêu, lục thi là băm xác ra.
Như vậy, Gia Long cho thêm
tội lục thi là băm xác khi xử tử Tây Sơn, và ông đã áp dụng ba loại cực
hình sau đây:
Đối với các con của Quang
Trung: Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn "xử án lăng trì
cho 5 voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho
voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn
Huệ giã nát rồi vứt đi" "Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn
Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết." (TL, I, t.
531), tức là:
- Lăng trì: xử các con Quang
Trung, nhưng không cắt từng miếng thịt, mà cho voi xé xác.
- Lục thi: nghiền hài cốt
Quang Trung và Hoàng hậu.
- Cưu thủ: chém bêu đầu các
đại tướng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, vv...
Không nói gì đến Bùi Thị
Xuân.
Luật Gia Long trong Hội Điển
không ghi cực hình "voi dầy". Và trong các hình luật trước, từ đời Lê
ngược lên đến nhà Tuỳ bên Tầu, cũng đều không thấy ghi lối xử tử này.
Đó là những chứng cớ cho
thấy những điều Bisschère viết ra là không có cơ sở.
Tử hình ở Pháp
Cũng nên nhắc lại cho
Bissachère biết về án tử hình ở Pháp: trước cách mạng 1789, có những cách xử tử
sau đây: la potence (treo cổ), le bucher (đốt), la roue (nghiền
xay bánh xe), l'écartèlement (xé xác bằng ngựa), còn décapitation
(chém) chỉ dành cho quý tộc.
Sự nghiền xay bằng bánh xe,
sự đốt cháy và ngựa xé xác còn độc ác hơn bị voi xé xác.
Ngày 11/11/1789, bác sĩ
Guillotin, nghị viên, đòi sự công bằng trước cái chết. 1/12/1789, ông tuyên bố:
"Chém, dưới hình thức đơn giản máy móc". 1791, luật hình ghi: "Mọi
án tử hình đều chém". Antoine Louis được lệnh sáng tạo máy chém.
17/4/1792, thử máy ở bệnh viện Bicêtre trên ba xác người. Máy được đặt trên bệ
cao, gọi là échafaud (đoạn đầu đài). Tên Guillotin được bất tử hoá thành
tên máy chém: La Guillotine. Pháp bước vào giai đoạn Kinh Hoàng (La
Terreur): Vua Louis XVI lên đoạn đầu đài ngày 21/1/1793 tại quảng trường La
Révolution (nay là Concorde), hoàng hậu Marie Antoinette ngày 16/10/1793. Trong
thời Kinh hoàng (1792-1794), số người lên máy chém ước lượng 16.000 đến 17.000;
tổng cộng số người bị giết khoảng 100.000.
Thụy Khuê
(Còn tiếp)
Kỳ tới: Bài Introduction
của Sainte-Croix
[1] Nguyên văn: "Le Roy Gia
Long étant arrivé à la Capitale de la Cochinchine s'y reposa pendant deux mois
ou environ. Ensuite il s'occupa du supplice de ses prisonniers; un de mes gens
que j'avais envoyé à la cour, pour m'obtenir une permission du roy et qui fut
porté sur la liste de ceux qui pouvoient entrer au palais et se tenir devant Sa
Majesté pendant un mois, se trouva de service le jour de l'éxécution, et il la
vit tout entière depuis le commencement jusqu'à la fin. A son retour il m'en a
fait le récit, je ne puis m'en rappeler aujourd'hui toutes les circonstances
qui d'ailleurs sont extrêmement dégoutantes, je ne rapporterai dont ce que je
me souviens, ou ce qui m'a frappé le plus du récit qui m'en a été fait et qui
depuis a été publique dans tous les états du roy de Cochinchine" (t.
117-118).
- Chương 1: Chương 1: Nhu cầu viết lại lịch sử thời Pháp thuộc
- Chương 2: Giới thiệu bộ sử Nguyễn Văn Tường của Nguyễn Quốc Trị
- Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 - (Phần 1)
- Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 - (Phần 1) - tt
- Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 (Phần 2)
- Chương 4: Tác phẩm của John Barrow (1764-1848) - (Phần 1)
- Chương 5: Ai cứu Nguyễn Ánh khỏi sự lùng bắt của Nguyễn Huệ, tháng 9-10/1777
- Chương 6: Chân dung vua Gia Long
- Chương 7: Montyon và cuốn Thuyết trình thống kê về Bắc Hà (Phần 1)
- Chương 7: Montyon và cuốn Thuyết trình thống kê về Bắc Hà (Phần 2)
- Chương 8: Hịch cuả Quang Trung
- Chương 9: Ký sự Bissachère