Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2015
Thụy Khuê - Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long - Chương 11
Faure và Aubaret
1- Alexis
Faure và cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine
Năm 1891, Alexis Faure, bí
thư của Bộ trưởng Hải quân Pháp Chasseloup-Laubat, xuất
bản ở Paris cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine évêque d'Adran, (Đức Giám
Mục Bá Đa Lộc) (sẽ dẫn là Faure, Bá Đa Lộc) Augustin Challamel,
Paris, 1891.
Vì làm việc dưới quyền Bộ trưởng,
nên Faure có điều kiện tham khảo các tài liệu chính trị, quân sự, ngoại giao. Ông
đã viết lại cuộc đời giám mục Bá Đa Lộc, nhờ một số tư liệu lưu trữ trong bộ ngoại
giao và quốc phòng, đáng chú ý là những văn bản sau đây:
1- Bản
ghi chép những điều Bá Đa Lộc tâu vua Louis XVI, với hai yếu tố chính:
- Về những
lợi ích mang lại cho nước Pháp nếu đem quân "giúp" Nguyễn Ánh: ngoài
sự giầu có về sản vật của nước Nam, Pháp còn chặn đứng sự bành trướng của đế quốc
Anh ở Á Châu.
- Tình
trạng "tồi tệ" của quân Tây Sơn: nếu đánh là được ngay. Điểm này Bá Đa
Lộc hoàn toàn khai man, vì lúc đó Nguyễn Ánh đã bị Nguyễn Huệ đuổi đến bốn lần
ra khỏi lãnh thổ. Và có lẽ chính vì điểm man trá này, nên khi biết rõ sự thực, Louis
XVI đã bãi bỏ hiệp ước Versailles, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này khi viết về
Bá Đa Lộc.
2 - Bản
ghi buổi "khẩu cung" ở Pondichéry, Conway buộc Bá Đa Lộc phải trả lời
trước "bộ tư lệnh" về những điểm chiến lược khi đem quân vào Nam Hà: phải
tấn công ở đâu, như thế nào, nhưng vị giám mục ú ớ, không trả lời được.
Hai tài
liệu này rất quan trọng cho việc tìm hiểu Bá Đa Lộc. Faure "hồn nhiên"
đưa ra, nhưng Maybon không thích, cho nên ông chỉ trích Faure không đề xuất xứ
các tài liệu, thực ra là có.
3- Faure
tìm được danh sách 369 (có chỗ ông ghi 359, nhưng đếm thì đúng 369) người
lính đào ngũ, trên các tầu Pháp có dịch vụ ở biển Đông từ 1785 đến 1789, trong
số đó chỉ có một sĩ quan, và viên sĩ quan này không đến Việt Nam. Nhờ tư
liệu này, chúng ta có thể biết rõ học lực và cấp bậc của những người lính đào
ngũ như Puymanel, Lebrun, vv... Nhưng cái tệ là Faure lại vơ cả con số 369 này vào
thành 369 người đến giúp Nguyễn Ánh, một lập luận hết sức sai lầm không thể chấp
nhận được. Chúng tôi sẽ mổ xẻ vấn đề này trong chương Con số những người lính
Pháp đến giúp Gia Long.
Đó là ba điểm hữu ích mà cuốn
sách của Faure có thể giúp chúng ta rọi sâu vào sự nghiệp Bá Đa Lộc và những người
lính Pháp.
Nhưng sách của Faure còn có những
khía cạnh xuyên tạc lịch sử trầm trọng mà chúng ta cần biết:
1- Faure đã đọc bài Introduction
của Sainte-Croix trong Archives des Affaires étrangères, fonds Indes
Orientales (Văn khố Ngoại giao, đề tài Đông Ấn) trước Maybon gần 30
năm. Faure sẽ dùng hoàn toàn luận điệu của Ste-Croix (kẻ nhầm Nguyễn Ánh với hoàng
tử Cảnh) và tô điểm thêm để vẽ chân dung Bá Đa Lộc, như người thầy của Nguyễn Ánh,
tôn Bá lên thành Richelieu của Gia Long.
2-
Faure tìm thấy trong Archives des Affaires étrangères, fonds Indes
Orientales, những bản báo cáo của de Guignes, một nhân viên hay điệp
viên (nguyên tiếng Pháp là agent) ngoại giao của Pháp tại Quảng Đông,
gửi về Bộ Ngoại Giao Pháp; nhưng ông nâng cấp cho de Guignes thành lãnh sự
(consul). De Guignes được Faure giới thiệu là người "hiểu rõ tình
hình Nam Hà". Nếu đọc những bản báo cáo này, ta thấy Guignes cũng chỉ cung
cấp những tài liệu "giá trị" kiểu Ste-Croix, nếu làm điệp viên cho chính
phủ Pháp, thì chỉ là một điệp viên tồi. Nhưng một số "thông tin" của
de Guignes sẽ là nền tảng cho câu chuyện "Le Brun là nhà thiết kế đô
thị đầu tiên và Puymanel là kiến trúc sư xây tất cả những thành trì Vauban ở
Việt Nam". Đó là hai tác hại chính trong cuốn sách Bá Đa Lộc của
Alexis Faure.
Khởi thuỷ của việc
Le Brun và Puymanel trở thành "kỹ sư và kiến trúc sư" xây dựng thành
trì
Trong
số những báo cáo của nhân viên hay điệp viên de Guignes gửi về Bộ Ngoại Giao Pháp,
bản viết ngày 29/12/1791, có câu: "Các ông Olivier và Le
Brun, sĩ quan Pháp, đã cho ông ta [Nguyễn Vương] một cái
bản đồ thành đài. (Chúng tôi nhấn mạnh) (MM Olivier et Lebrun,
officiers francais, lui donnèrent un plan de ville fortifiée). Câu này
là khởi thuỷ của tất cả những xác định: Le Brun và Olivier xây thành Gia Định,
Olivier xây thành Diên Khánh, từ Trương Vĩnh Ký đến Nguyễn Đình Đầu.
Trương Vĩnh Ký, tiếp nhận những
"thông tin" trong sách của Faure, đưa vào cuốn Biên tích đức thầy,
Pinho Quận Công, Sài Gòn, 1897.
Taboulet
chép lại bản báo cáo của agent De Guignes trong bộ sách
La geste francaise en Indochine, (1955)
và biến nó thành một tài liệu chính thức, với cái tít: Ông Lãnh Sự Pháp ở Quảng
Đông gửi ông Bộ trưởng Ngoại Giao, (Taboulet, I, t. 242) và thêm thắt vào để
chính thức hoá bản báo cáo này thành một "tư liệu lịch sử".
Tạ
Chí Đại Trường, chép lại Taboulet, chính thức hoá thêm một lần nữa "sự kiện"
Olivier de Puymanel và Lebrun "xây" thành Gia Định, biện hộ cho lập
luận của Pháp và xác định luôn rằng Puymanel xây cả thành Diên Khánh.
Nguyễn
Đình Đầu, dựa theo các sách của Trương Vĩnh Ký, Taboulet và Tạ Chí Đại Trường để
xác nhận Lebrun là "kỹ sư thiết kế đô thị đầu tiên" của Việt Nam.
Chúng tôi sẽ khai triển những
vấn đề này trong chương 12: Ai xây các thành Gia Định và Diên Khánh.
Tóm
lại, Faure,
năm 1891 đã dùng tài liệu của Ste- Croix và de Guignes rồi thổi phồng lên để kết
luận: Bá Đa Lộc là Richelieu của Gia Long và Puymanel và Le Brun là thuỷ tổ việc
xây thành quách ở Việt Nam.
Tiến trình Puymanel từ
binh nhì, thành sĩ quan, rồi tham mưu trưởng quân đội Nam Hà
Faure là người "hồn nhiên",
ông không mưu tính sâu sắc như học giả Maybon, vì vậy, những thông tin ông đưa
ra, có cái thật, có cái ông tưởng là thật, có cái ông thổi phồng quá lố vì thiếu
tế nhị, nên chúng ta phải cẩn thận khi dùng tài liệu của ông.
Trước hết, cấp bậc của
Oliver de Puymanel và Le Brun trước khi đào ngũ, chính Faure đưa ra, vì ông chép
lại trong hồ sơ của bộ quốc phòng, thì không thể sai được.
Về Olivier de Puymanel, Faure
viết:
- "La Dryade
tới đảo Côn Lôn ngày 15/9/1788, để lại đây cha Paul Nghị [Hồ Văn Nghị],
người thân cận của Bá Đa Lộc và 10 lính thuỷ Nam Hà được đưa [từ
Pondychéry] về xứ. Tầu cũng để lại một ngàn súng được mua từ Pháp cho vua
Nam Hà. Tầu mất ở đây một lính tình nguyện binh nhì, ông Olivier de Puymanel
đào ngũ cùng vài thủy thủ bắn pháo. Người lính tình nguyện trốn thoát ngày
(19/9/1788) ở Con Lôn, chẳng bao lâu sẽ nổi tiếng ở Nam Hà, sẽ trở thành Vệ uý
Olivier de Puymanel.
Olivier de Puymanel
lúc đó 20 tuổi, sinh tại Carpentras tháng 4/1768, con của Augustin Raymon và
Francoise-Louise Vitalis. Người ta không biết thêm gì nữa về tình trạng hộ tịch
và gia đình của anh. Chỉ chắc chắn rằng, Giám mục Bá Đa Lộc đã tất nhiên chú ý và
thích anh trong chuyến vượt biển trên tầu La Dryade [đi từ Orient đến
Pondichéry, khi Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh từ Pháp về năm 1788] bởi vì người
không ngần ngại trao cho anh chức Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà (Chef
d'Etat Major de l'Armée Cochinchinoise) và anh đã thực thi nhiệm vụ một cách
cao cả tới chết, tại Malacca, nơi anh đi công vụ, ngày 23/3/1799". (Faure,
Bá Đa Lộc, Chương 17, t. 199-200).
Chúng ta thấy ngay, trong chỉ
có mấy hàng cách nhau, mà Faure đã tăng chức cho Puymanel từ binh nhì lên
"Tham Mưu Trưởng quân đội Nam Hà" vì được Đức Cha Bá Đa Lộc chú
ý đến! Trừ việc ấy, những điều khác đều dùng được.
Bức chân dung này sẽ được người
ta chép lại, trích dẫn, sửa đổi, theo nhu cầu. Ví dụ: người ta hoàn toàn
"quên" xuất xứ binh nhì, đào ngũ, của Puymanel, chỉ giữ lại chức
"Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà". Một ngàn khẩu súng Gia Long mua, sẽ
biến thành "1000 khẩu súng do Bá Đa Lộc mua về giúp Gia Long", vv...
trong sách của các sử gia Pháp Việt. Riêng việc Puymanel làm "Tham mưu
trưởng quân đội Nam Hà", sẽ được tô vẽ đủ kiểu, tùy theo tác giả, từ
Trương Vĩnh Ký, Cosserat, Maybon, Cadière, Taboulet, đến Tạ Chí Đại Trường...
Tiến trình Le Brun
từ binh nhất lên "kỹ sư thiết kế đô thị đầu tiên của Việt Nam"
Về Le Brun, Faure viết những
đoạn sau đây:
1- "Le Brun
(Théodore), lính tình nguyện binh nhì (cấp bậc ngày 8/2/1788) lên tầu La Méduse
ngày 19/6/1788". (Faure, Pièces justificatives, t. 241).
2- "Tên những lính
thuỷ đào ngũ, hoặc bị đuổi trong hành trình, là: "Le Brun (Théodore), lính
tình nguyện binh nhất (cấp bậc ngày 1/1/1789), vào bệnh viện Pondichéry ngày
28/6/1788, ra ngày 28/8/1788. Ngày 13/1/1790, xuống Macao và ở lại; nợ ông
Nicolas Lolier 45 piastres à 5, 8 (?), tính là 243 livres ..." (Faure,
Pièces justificatives, t. 243).
3-"Brun (Théodore), lính tình nguyện
binh nhất (cấp bậc ngày 1/1/1789), lên bờ ở Macao ngày 13/1 và ở lại đây. Lính
tình nguyện Le Brun chẳng bao lâu sẽ sang Nam Hà với bạn là Olivier de Puymanel"
(Faure, chương 17, t. 205-206).
4- "Chắc chắn rằng người
lính tình nguyện binh nhất Le Brun không ở lại Nam Hà quá 15 tháng. Le
Brun bỏ đi, không phải vì vua tiến binh chậm quá [như de Guignes nói] mà
bởi vì anh thấy vua trả lương ít quá, và nhất là anh không chịu làm việc dưới quyền
Olivier, chỉ là lính tình nguyện binh nhì, mà nay trở thành Tham mưu trưởng quân
đội Nam Hà, điều khiển anh" (Faure, chương 18, Note số 2, t. 215).
Theo những ngày tháng trên đây,
ta có thể tóm tắt rằng: ngày 13/1/1770, Le Brun đến Macao rồi ở lại. Sau đó tìm
cách sang Việt Nam. Le Brun phải đến Gia Định trước ngày 27/6/1790, là ngày được
nhận chức cai đội. Trên văn bằng thấy ghi như sau:
"Hoàng thượng thấy
tài trí và khả năng của Theodore Le Brun, quốc tịch Pháp, ân sủng cho bằng văn
bằng này, cấp kỹ sư, danh nghiã Khâm sai cai đội thanh oai hầu. Hoàng thượng
giao cho việc bố phòng đồn luỹ trong nước và lệnh cho lấy tất cả mọi phương
tiện để bảo đảm an toàn. Nếu vì bất cẩn, không thi hành nhiệm vụ, sẽ bị trừng
trị theo đúng pháp luật." Ngày thứ 15, tuần trăng thứ năm, Cảnh Hưng thứ 51
(27/6/1790) (Louvet, La Cochinchine religieuse, Ernest Leroux, Paris 1885, Pièces
justificatives, t. 531).
Như vậy khi Le Brun đến Gia Định,
thành Gia Định đã làm xong. Thực Lục, ghi ngày Kỷ Sửu [9/3 Canh Tuất, tức
22/4/1790], Trịnh Hoài Đức ghi ngày 4/2/ Canh Tuất [tức 19/3/1790], đắp
thành đất Gia Định. Chỉ có 10 ngày đắp xong. Vậy Le Brun nhập vào hàng
ngũ quân đội của Nguyễn Ánh lúc nào? Và vẽ bản đồ thành Gia Định lúc nào? Mà
trong hầu hết sách Tây, ta đều thi nhau chép Le Brun là người vẽ bản đồ thành
Gia Định?
Nếu Le Brun chỉ ở không đầy
15 tháng như Faure viết, thì y bỏ đi vào khoảng giữa năm 1771. Theo Faure, vì
chê lương ít, và vì phải làm dưới quyền của Puymanel. Nhưng có lẽ còn có một lý
do nữa, nếu đọc văn bằng trên đây, ta thấy ghi "kỹ sư", vì vậy vua
giao cho việc bố phòng đồn lũy. Như hầu hết các lính đào ngũ này, khi đến Việt
Nam đều khai man là sĩ quan và có bằng cấp, nên vua cho chức cai đội, tương
đương với capitaine, nhưng ít lâu sau, có thể Le Brun không có khả năng
làm công việc của mình, bị đuổi, hoặc tự ý bỏ đi.
Điều mà chúng ta thấy rõ nhất
ở đây: không phải chỉ có lính đào ngũ khai man với vua để nhận chức cai đội, mà
những người viết sử thực dân, đã dựa vào sự khai man, tự tiện thăng chức cho những
người này, bất kể lô-gích, rồi người Việt cứ thế chép lại, không mảy may kiểm
chứng.
Chúng tôi đã chứng minh Ste-Croix,
dựa vào lời kể bịa đặt của Dayot để tự thăng chức cho mình và Puymanel trong chương
10 viết về Ste-Croix, ở đây Faure cũng biạ đặt trắng trợn không kém:
Ở chương 18, Note số 2, t.
215, Faure viết: Le Brun là binh nhất, Olivier là binh nhì, thì
trước đó 5 trang, ở chương 17, trang 210, ông đã viết:
"... số lính thuỷ Pháp bỏ tầu trong
khi thi hành nhiệm vụ, lên tới 359 tên, mà hầu hết, nếu không muốn nói là tất
cả đều đầu quân cho vua Nam Hà, và trở thành linh hồn của bộ binh và thủy binh
xứ này. Trong số đó, có những sĩ quan, những sinh viên sĩ quan, đủ khả
năng chỉ huy như các ông Olivier de Puymanel, Le Brun, Guillon, Magon de
Médine, Tardivet, Malespine, Dayot, những người này, dưới tay Giám Mục Bá Đa
Lộc, mỗi người, với khả năng của họ, sẽ góp phần xây dựng lại vương quốc Nam
Hà, mau chóng khôi phục sức chiến đấu của nước này đến thắng lợi và chẳng
bao lâu nghiền nát cuộc nổi loạn vũ bão do anh em Tây Sơn khởi xướng và cầm
đầu." (Faure, Chương 17, t. 210).
Từ con số 359 [có chỗ ghi 369]
người lính Pháp đào ngũ ở vùng Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương mà Faure kiếm ra
(trong số đó chỉ có một sĩ quan, không đến Nam Hà) mà ông dám quả quyết
"tất cả" những người này đều đầu quân theo Nguyễn Ánh, như thể cả vùng
Châu Á Thái Bình Dương chỉ có mình Nguyễn Ánh mộ quân! Sau đó, ông thăng chức
cho họ từ "binh nhì, binh nhất", lên hàng "sĩ quan" có khả
năng chỉ huy, lãnh đạo, rồi trở thành "linh hồn của bộ binh và thuỷ binh
của xứ này"; sau cùng, ông kết luận: chính những người này đã "góp phần
xây dựng lại vương quốc Nam Hà, nghiền nát Tây Sơn"! Tất cả chỉ trong có 8
dòng chữ. Thực chưa từng thấy hiện tượng binh nhất, binh nhì nào mà tiến nhanh
như thế, trong lịch sử quân đội loài người.
Faure phong thánh cho
giám mục Bá Đa Lộc
Sau Ste-Croix, Faure với những
"thông tin" như vậy đã tạo thành một cuốn sách phong thánh linh mục Bá
Đa Lộc và đưa Puymanel, Dayot lên tột đỉnh. Theo Faure, thì vị Giám Mục đã giữ địa
vị thống soái quân đội Nam Hà ngay từ 1779-1780:
"Sự phòng thủ
Sài Gòn do Giám Mục điều khiển, người đã ứng chiến làm Bộ trưởng Chiến tranh.
Dưới sức xung động mạnh mẽ của người, [bộ này] đã được phát triển
trong vài năm yên tĩnh vừa qua" (Chương 3, t. 41). Câu này hoàn toàn
"sáng tác", dựa theo những lời tưởng tượng của Ste-Croix.
Tiếp đó, Faure hùng hồn mô tả
các trận đánh do vị giám mục cầm quân, có trận chết như rạ, nhưng thiên tài của
vị giám mục bao giờ cũng sáng tỏ. Vua đi theo "người" trong tất cả hành
trình sôi nổi này và công trình lớn nhất là "người" đã cứu vua thoát
chết, đã đem hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, Faure viết:
"... Như đức
Hồng y giáo chủ Richelieu [đối với vua Louis XIII], đức giám mục Bá Đa Lộc
trực tiếp thương lượng với các cường quốc bên ngoài, tổ chức các hạm đội
và quân đội, lãnh đạo hoặc chỉ huy những đoàn quân lớn, có thể tính đến
50.000 người mà không sợ nói quá. Cũng như đức Hồng y Richelieu, đức giám mục
Bá Đa Lộc có đoàn vệ binh riêng, có cờ lệnh riêng bằng lụa đỏ (những
khâm sai của giáo hoàng kế nhiệm ông ở nước Nam, đã giữ gìn lá cờ cẩn thận,
nhưng có lẽ, do lệnh trên, không cho ai xem), ông đi tiên phong ra trận; lá cờ
lệnh được treo cùng với cờ trắng của vua trên các chiếm hạm. Theo ông
Bissachère, trong những hội đồng chiến tranh và các buổi họp khác, đức cha luôn
luôn ngồi cạnh và ngang hàng với vua. Vậy ta có thể nói, đức giám mục Bá Đa
Lộc là vị giáo chủ chiến tranh cuối cùng của lịch sử chúng ta" (Chương
18, t. 220-221).
Faure lầm đấy, không phải
Bissachère viết câu: "đức cha luôn luôn ngồi cạnh và ngang hàng với
vua" mà là Ste-Croix, y viết câu này vì lầm Nguyễn Ánh với hoàng tử Cảnh!
Vẫn theo Faure: "Đức
giám mục thấy vấn đề quân sự là cốt yếu nhất và khẩn thiết nhất, nên người
cho Dayot làm tư lệnh hải quân với chức vụ hải quân đại tá". (Chương
18, t. 217).
Lại lầm nữa: Dayot, bị kết án
tử hình vì tội làm đắm tầu, phải trốn đi, đã tự phong chức cho mình và kể lại với
Ste- Croix.
Faure viết tiếp: "Sau
thủy binh, Đức giám mục Bá Đa Lộc để tâm tổ chức bộ binh, hồi đó chỉ là những
băng đảng. Người thanh niên Olivier de Puymanel trở thành đại diện đặc trách nhận
lệnh trực tiếp của Đức Cha, nói cách khác Olivier là Tổng Tham Mưu Trưởng quân
đội dưới quyền điều khiển của Đức Cha." (Chương 18, t. 221).
Từ Tham mưu trưởng (Chef
d'etat major) lại được thăng Tổng Tham Mưu Trưởng (Chef d'état major général)!
Rồi ông tưởng nhớ Puymanel: "Người
sĩ quan chết ở tuổi 31 này, đã hoàn tất ở Nam Hà một công trình đồ sộ, những ai
biết rõ bao nhiêu thành trì Vauban mà ông đã xây trong thời kỳ 10 năm,
đều ngưỡng mộ, kính phục" (Chương 17, t. 200-201).
Lời hoang tưởng vô bằng cớ này:
bao nhiêu thành trì Vauban mà Puymanel đã xây trong 10 năm, của Faure sẽ
được người ta chép lại, đặc biệt học giả Cadière.
Sau đây, ông hăng hái kể tiếp
câu chuyện giám mục Bá Đa Lộc lập "trường võ bị":
"... Phải tạm
thời hạn chế, thành lập một đội quân 3000 người, do những người lính thuỷ mà Đức
Giám Mục đem về, thường trực tập luyện cho họ. Người nghĩ rằng số quân đội nòng
cốt này chưa đủ, [tuy vậy] trong khi chờ đợi, nó phải là một trường quân sự
cho lính và nhất là cho sĩ quan bản xứ, tuyệt đối không biết gì về thuật đánh
giặc.
Để khai tâm cho
chúng về thuật này, chính người đã dịch và chú thích những sách Pháp thích hợp
sang chữ nôm (idiome cochinchinois); những cuốn sách này nhiều bản còn rải rác đâu
đó, người ta đã lầm khi giấu đi, như đã từng giấu lá cờ lệnh vinh hiển
của đức cha. Olivier de Puymanel lại hân hạnh được đức cha chọn điều
khiển trường võ bị tổng hợp này, ở đó phát xuất những sĩ quan và hạ sĩ quan
người bản xứ, đã học về quy luật trận địa, họ sẽ thể hiện giá trị và kinh
nghiệm ấy trên chiến trường" (Faure, Chương 18, t.221-222).
Cả đoạn này sẽ biến thành "các
sĩ quan Pháp huấn luyện và cải tổ quân đội Nguyễn Ánh theo lối Tây phương"
mà ta có thể đọc được ở hầu hết mọi tác giả Việt Pháp!
Chưa hết, Faure còn kể tiếp:
hai vị tướng nổi tiếng Kaô-Kôun [chưa biết là ai, có thể ông muốn chỉ Nguyễn Văn
Thành] và Taô-Koun [chắc là Võ Tánh, vì đoạn sau nói đến việc tử tiết trong thành
Qui Nhơn] cũng xuất thân từ trường võ bị của GM Bá Đa Lộc, do Puymanel điều khiển!
Vẫn theo Faure, cạnh trường võ bị, còn có trại Mộ binh, do Laurent Barisy chỉ
huy! (Faure, chương 18, t. 222-223)
Và sau đây là "sự kiện"
Bá Đa Lộc xây thành Sài Gòn và quyết định xây các thành Vauban:
"Trong khi tổ
chức quân đội và thủy quân, Giám Mục Bá Đa Lộc không bỏ quên sự củng cố các thành
đài trong hệ thống phòng thủ. Thành cũ Sài Gòn xây dưới sự điều khiển của người
mười năm trước, được sửa chữa và mở rộng lớn lao thêm theo những bản đồ mới. Người
cũng quyết định chương trình kiến thiết các thành Vauban, sẽ được xây ngay ở
Vĩnh Long, Hà Tiên, Châu Đốc, Mỹ Tho, Biên Hoà, v.v... để che chở cho những vị
trí chính yếu của cả xứ, tránh những xúc phạm của quân thù, đến từ Tây hay
Đông, từ Xiêm La hay Bắc Hà." (Faure, chương 18, t. 224).
Đọc một số trích đoạn trên đây
đã quá đủ để thấy rõ "tinh thần" tác giả:
Toàn thể quân đội thủy bộ của
Nguyễn Ánh đều do đức GM Bá Đa Lộc tạo ra! Những "sĩ quan", "kỹ
sư", "kiến trúc sư" Le Brun, Puymanel, Dayot, Barisy... là nòng
cốt xây dựng nên quân đội Nguyễn Ánh! Tiếc rằng các sách đức giám mục dịch ra,
không biết kẻ nào giấu đi, khiến nay không còn vết tích! Chúng giấu sách dịch của
đức cha cũng như chúng giấu cờ hiệu xông trận của đức cha vậy!
Những "sáng tác" về
"công ơn trời biển" của Bá Đa Lộc và các "sĩ quan" Pháp, xuất
phát từ cuốn Bá Đa Lộc của Faure mà ra,
sẽ được nhiều người chép lại, xé lẻ, tô điểm thêm rải rác khắp nơi, trở
thành những "sự thật".
Tạ Chí Đại Trường: Bá
Đa Lộc dạy Đỗ Thanh Nhơn dùng lựu đạn
Tạ Chí Đại Trường là người,
không những chấp nhận vai trò "lãnh đạo" của Bá Đa Lộc, thầy của Nguyễn
Ánh, thông qua Faure, Taboulet; mà ông còn đưa thêm những tin "inédit"
rất lạ như: nửa đêm Nguyễn Ánh đi tìm Bá Đa Lộc để "hỏi ý kiến" về việc
giết Đỗ Thanh Nhơn, mà chúng tôi đã nói trong chương trước.
Ở đây, ta thử xem Tạ Chí Đại
Trường kể lại chuyện Bá Đa Lộc xoay được 2 chiếc tầu Bồ cho Nguyễn Ánh và dạy Đỗ
Thanh Nhơn dùng lựu đạn như thế nào.
Trong chương tựa đề "Kỹ
thuật Tây phương rụt rè bước vào chiến tranh Nam Hà" (Lịch sử Nội
chiến Việt Nam, t. 106-115), có đoạn văn sau đây mô tả Bá Đa Lộc "phân trần"
về hành động can dự vào chiến cuộc Đại Việt như thế nào:
"Trong khi phân trần
về hành động đã can dự vào chính trị Đại Việt, Giám mục D'Adran chứng minh cho
ta thấy xác nhận trên trong bức thư đề ngày 26-7-1779: "Hai chiếc tầu từ
Macao đến Bassac trong năm nay để buôn bán... Một người Trung hoa đưa ý kiến
với ông lớn của xứ Cochinchine cho ông ta biết rằng tầu chứa đầy đại bác, diêm
tiêu, lưu hoàng và các thứ khí giới, đạn dược khác. Ông quan mà tôi rất quen đó
đương hết sức cần các thứ hoàng hoá này, vội vã bắt tôi viết thư cho các quan
coi tầu yêu cầu họ bán cho ông hết hay một phần. Hay nếu có thể, họ đem tầu
giúp xứ Cochinchine; đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và những quyền lợi
khác nữa". (TCĐT chú thích: Ông quan lớn này là Đỗ thanh Nhân)
Tuy các vị chủ tầu
có phàn nàn về thái độ tham dự của Bá Đa Lộc, cách giao thiệp này cũng đưa tới
kết quả là vào khoảng tháng hè 1781 trong cuộc duyệt binh tháng 5 Tân Sửu với
không dưới 3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 đại chiến thuyền, sử quan ghi rõ có
hai chiếc tầu tây (Tây dương thuyền).
Thực ra, Bá-đa-lộc
và các LM giòng Franciscain ghi nhận tới 3 chiếc tầu Bồ đào nha chở đầy binh
lính, khí giới, súng đạn và lương thực. Chính Bá-đa-lộc, "bằng cách nói
chuyện chơi" cũng đã du nhập kiến thức, kỹ thuật mới vào Gia định khi ông
dạy Đỗ thanh Nhân lối dùng lựu đạn, làm giúp một thước đo góc đạc điền, một
rapporteur, một ống loa, một dụng cụ thiên văn (?) và những dụng cụ toán học
khác... Hơn nữa, ông còn cho người giúp việc của ông, Mãn-noài, Emmanuel... một
tay lính thuỷ breton, sang phụ tá Nguyễn Ánh, điều khiển một chiếc tầu
Bồ." (Lịch sử Nội chiến Việt Nam, t. 106-107).
Đoạn văn trên có vẻ quan trọng
nhưng hơi khó hiểu. Chúng tôi xin tóm tắt mấy ý chính:
Có hai tầu buôn vũ khí ở
Macao đến Nam Hà. Đỗ Thanh Nhơn muốn mua, nhờ Bá Đa Lộc viết thư cho thuyền trưởng,
đề nghị họ bán cả tầu hoặc một phần cho ông, hoặc đem "cả tầu về giúp"
Nam Hà thì sẽ được quyền vào cảng không phải đóng thuế. (?)
Các chủ tầu phàn nàn về
"thái độ tham dự" (?) của Bá Đa Lộc.
Cách "giao thiệp"
này đưa đến kết quả là cuộc duyệt binh năm hè năm 1781 (?).
Bá Đa Lộc ghi nhận không phải
2 mà 3 tầu Bồ Đào Nha "chở đầy binh lính khí giới và lương thực" (?).
Chính Bá Đa Lộc "bằng cách
nói chuyện chơi" đã du nhập kiến thức kỹ thuật mới của Tây phương, "dạy
Đỗ Thanh Nhơn dùng lựu đạn", vv...
Tuy đã tóm tắt lại, nhưng những
chỗ đánh dấu hỏi vẫn còn khó hiểu, chúng tôi phải tìm lại lá thư của Bá Đa Lộc,
xem ông viết gì. Sau đây xin dịch nguyên văn lá thư này:
"26/7/1779
Pierre-Joseph-Georges,
giám mục Adran, Đại lý giáo hoàng ở Nam Hà, Cao Mên và Chàm, gửi tới tất cả
những ai cần biết, lời chào.
Năm nay [1779] có hai
tầu buôn [Bồ] từ Macao đến Bassac [Cà Mau], một người Hoa báo ngay
cho quan đại thần Nam Hà biết tầu chở đại bác, salpêtre, lưu huỳnh và nhiều
quân nhu khác. Vị quan này, rất thân với tôi, đang cần đến tất cả những hàng
hoá này, khẩn khoản nhờ tôi viết thư cho các thuyền trưởng, đề nghị họ bán cho
ông một phần hay tất cả, hoặc cứ đem tầu ghé thẳng vào Nam Hà, sẽ được miễn các
thứ thuế nhập khẩu. Tôi làm giúp và hai vị thuyền trưởng này, lúc từ Cao Mên trở
lại, đã gửi ngay những người lái tầu sang điều đình với ông quan, xong việc, cả
hai hoa tiêu đều bằng lòng, một người quay về Bassac một người ở lại đây. Còn
tôi, sau khi làm xong việc giới thiệu các thuyền trưởng với ông quan, tôi đi
thăm một phần giáo phận của tôi, vì các tu sĩ và giáo dân đang đợi từ một tháng
nay.
Những vị thuyền
trưởng khi đến đây cùng với tầu của họ lại tưởng rằng tôi cốt ý tránh và than
phiền thái độ của tôi đối với họ. Lại được một giáo sĩ, có ác cảm với tôi, phụ
hoạ, họ bảo rằng:1- Họ nghi tôi muốn cướp quyền tự do của tầu [Bồ] ở Macao đến
buôn bán ở đây. 2- Họ than phiền tôi làm vài việc xấu với vua Cao Mên. 3- Họ
buộc tội tôi dạy người Nam Hà cách đúc đại bác, làm bom và những khí giới
khác..."[1] (1) (Histoire de la
Mission de Cochinchine 1658-1823, Launay, III, t. 75).
Lá thư này được Launay in lại
và được trình bầy dưới tựa đề: "Vụ tầu Bồ Đào Nha, tuyên bố của đức GM
Bá Đa Lộc (Affaires des vaisseaux portugais, Déclaration de Mgr
Pigneaux)".
Lời tuyên bố Ba Đa Lộc trên đây
là để phản bác và trình bày cho mọi người biết sự thể đã xẩy ra, về ba
"tội" mà vị giám mục bị người Bồ tố cáo, là:
1- Họ nghi ông cướp quyền tự
do của tầu [Bồ] ở Macao đến buôn bán tại Nam Hà.
2- Họ than ông làm những việc
xấu với vua Cao Mên.
3- Họ buộc tội ông dạy
người Nam Hà cách đúc đại bác, làm bom và những khí giới khác.
Vì vậy, Bá Đa Lộc phải viết
bản tuyên ngôn này để bảo vệ danh dự thầy tu, đại lý giáo hoàng.
Tuy ông không nói rõ địa
danh "ở đây" là đâu, nhưng ta có thể đoán đó là Hà Tiên, vì Hà Tiên ở
trên đường biển từ Macao đến Cao Mên và ở cạnh Cà Mâu; và câu "một
người Hoa báo ngay cho quan đại thần" thì chắc là người Minh hương ở Hà
Tiên báo cho quan trấn thủ.
Không hiểu tại sao một lá thư
viết khá rõ ràng, rành mạch như vậy, lại được Tạ Chí Đại Trường hiểu và viết lại
như trên kia. Lối viết sử như thế này thật đáng ngại:
1- Vì ông hiểu sai câu chữ
(xem bản tiếng Pháp ở chú thích), ví dụ câu "hoặc có thể đưa tầu ghé
vào Nam Hà, sẽ được miễn các thứ thuế nhập khẩu" lại được ông hiểu thành:
"đem tầu giúp xứ Cochinchine; đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và
những quyền lợi khác nữa". Hai thuyền trưởng làm sao có thể đem tầu
"giúp" xứ Cochinchine được, họ có phải là chủ tầu đâu, và "biếu"
tầu rồi cũng chỉ được quyền ghé bến và những quyền lợi khác là gì? Ai lại đem cho
không tầu, để đổi lấy quyền "ghé bến"?
2- Ông tiếp tục hiểu sai
nữa, khi viết: "Tuy các vị chủ tầu có phàn nàn về thái độ tham dự của
Bá Đa Lộc". Hai thuyền trưởng này (họ không phải là chủ tầu) chẳng hề phàn
nàn về "thái độ tham dự" nào của Bá Đa Lộc cả, họ phàn nàn vì
ông Bá không ở lại Hà Tiên (hay Gia Định, vì trong văn bản, Bá không nói rõ nơi)
để đón họ mà lại đi mất.
3- Từ cái sai trên, Tạ Chí
Đại Trường còn móc nối thêm nữa: ông cho rằng "cách giao thiệp
này" (được hiểu là nhờ cách giao thiệp với tầu Bồ, khiến họ "nộp
không" hai chiếc tầu "giúp" Nam Hà, để "lấy quyền vào cửa
miễn thuế") đã đưa đến kết quả là cuộc duyệt binh năm 1781 với "3
vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 đại chiến thuyền, sử quan ghi rõ có hai chiếc
tầu tây (Tây dương thuyền)".... Nói khác đi, nhờ Bá Đa Lộc "khéo
giao thiệp" nên được 2 chiếc tầu Bồ cho không, vì thế Nguyễn Ánh mới tổ chức
được cuộc duyệt binh năm 1781 với 2 tầu Tây Dương! Và không phải chỉ có hai, "thực
ra, Bá-đa-lộc và các LM giòng Franciscain ghi nhận tới 3 chiếc tầu Bồ đào nha
chở đầy binh lính, khí giới, súng đạn và lương thực". Một sự suy diễn
như thế này thì thực là đáng ngại.
4- Nhưng đoạn sau cùng còn tệ
hơn nữa:
"Chính Bá-đa-lộc,
"bằng cách nói chuyện chơi" cũng đã du nhập kiến thức, kỹ thuật mới
vào Gia định khi ông dạy Đỗ thanh Nhân lối dùng lựu đạn, làm giúp một thước do
góc đạc điền, một rapporteur, một ống loa, một dụng cụ thiên văn (?) và những
dụng cụ toán học khác... Hơn nữa, ông còn cho người giúp việc của ông,
Mãn-noài, Emmanuel... một tay lính thuỷ breton, sang phụ tá Nguyễn Ánh, điều
khiển một chiếc tầu Bồ."
Muốn hiểu rõ cái sai của đoạn
này, chúng ta cần nhìn lại lịch sử trước đó:
Kể từ tháng 6/1775, Bá Đa
Lộc được Mạc Thiên Tứ cho chính thức lập trụ sở tại Hòn Đất (Hà Tiên). Vị đại
thần mà Bá Đa Lộc nói đến ở đây, chỉ có thể là Mạc Thiên Tứ (1718-1780), quan
trấn thủ Hà Tiên, công thần nhà Nguyễn, là ân nhân của Bá Đa Lộc, đã cho phép
ông lập trụ sở và giảng đạo khắp Hà Tiên. Không thể là Đỗ Thanh Nhơn như Tạ Chí
Đại Trường tưởng, bởi vì không có gì chắc là Bá Đa Lộc lại rất thân với Đỗ
Thanh Nhơn, một ông tướng có công, có tài, nhưng tàn ác giết người như ngoé
mà tác giả Sử Ký Đại Nam Việt gọi là "tướng cướp", nên Nguyễn Ánh mới
phải giết đi.
Bá Đa Lộc dùng chữ rất chính
xác, ông viết rõ "grand mandarin" (quan đại thần), chứ không viết
"grand général" (đại tướng).
Bá Đa Lộc trình bầy rõ ràng:
ông chẳng làm gì trở ngại cho việc buôn bán khí giới của tầu Bồ với Nam Hà cả,
ông chỉ giúp vị quan đại thần liên lạc với họ mà thôi; xong việc, ông đi thăm
con chiên của ông. Nên khi đến Hà Tiên (hay Gia Định) hai vị thuyền trưởng Bồ
đã hiểu lầm, tưởng ông trốn không muốn tiếp họ. Hai vị này lại gặp một giáo sĩ
vốn ghét ông, nên cả ba về hùa, thêu dệt, tố cáo ông ba điều đã nói ở trên.
Sở dĩ có những tranh chấp,
tố cáo này vì thời đó, Pháp và Bồ cạnh tranh kịch liệt trên địa hạt tôn giáo
cũng như buôn bán.
Trong bài tuyên bố này, chủ đích
của Bá Đa Lộc là phản bác ba điều bị người Bồ lên án, điều thứ nhất vừa nói; điều
thứ nhì liên quan tới vua Cao Mên, không cần dịch, về điều thứ ba, xin trình bầy
tiếp theo đây, ông viết:
"Còn về điều
thứ ba, tôi không bao giờ làm và giúp ai làm bom, làm đại bác, hay bất cứ
khí giới nào khác. Tôi biết quá rõ việc này không phù hợp với tình trạng [thầy tu] của
tôi. Một điều có thể dẫn đến những nghi ngờ này, là việc ông quan hỏi tôi về
cách nạp một quả lựu đạn ông có từ Cao Mên, và vài thứ vụn vặt khác về loại
này, tôi giải thích cho ông trong lúc trò chuyện. Tôi cũng chia độ một
graphomètre, một phần tư vòng tròn, một thước đo góc cho ông và đặt làm cho ông
một loa phóng, một vành thiên văn và vài dụng cụ toán học khác. Đó là những gì
tôi thấy có bổn phận phải ghi ra để ngăn chặn hậu quả những vu cáo và báo cáo
của những kẻ có ý xấu." [2] (2) (Launay III, t.
76).
Bá Đa Lộc viết rõ ràng: mọi
sự đồn đại chỉ vì ông quan (le mandarin) hỏi ông cách nạp một quả lựu
đạn ông có từ Cao Mên (charger une grenade qu'il avait eue du Camboge).
Trong bối cảnh của câu này, ta chỉ có thể hiểu: le mandarin vẫn là Mạc
Thiên Tứ, quan trấn thủ Hà Tiên, một nhà văn học và khoa học, không biết dùng
lựu đạn, cần những dụng cụ thiên văn, đo lường... người đó không thể là Đỗ
Thanh Nhơn. Và Bá Đa Lộc cũng như một số thầy tu uyên bác, đều rành về thiên
văn và khoa học, nên đã giúp Mạc Thiên Tứ những việc đó.
Tạ Chí Đại Trường đưa tên Đỗ
Thanh Nhơn vào, rồi liên kết với việc Mạn Hoè (Manuel), để vinh thăng Bá Đa Lộc:
- Đã tiến cử Mạn Hoè, một
anh hùng chống Tây Sơn đến chết.
- Đã xoay xở cho Nguyễn Ánh
có được 2, 3 tầu Tây phương của Bồ Đào Nha.
- Đã du nhập kiến thức
mới vào Gia Định bàng cách "dạy" Đỗ Thanh Nhơn, một vị tướng
tinh thạo khí giới, biết đóng tầu... cách dùng lựu đạn!
Lời tuyên bố của Bá Đa Lộc trên
đây, đã bác bỏ tất cả những "thông tin" cho rằng ông có dính líu xa gần
đến chiến tranh. Ông xác định mình chỉ là thầy tu, lo chuyện đạo. Trong số những
người bị Bá Đa Lộc gián tiếp đào thải, có Alexis Faure, người đã tôn ông lên
hàng "nguyên soái" cầm đầu quân đội Nguyễn Ánh, rồi trở thành Bộ
trưởng bộ chiến tranh, từ 1780, và sau trở thành Richelieu của Gia Long!
Gabriel Aubaret dịch
Gia Định Thành Thông Chí
Năm 1862, ngoài Bắc có loạn
Tạ Văn Phụng, tự xưng dòng dõi nhà Lê. Phụng có học đạo và theo Charner về đánh
Quảng Nam. Khi y nổi lên đánh phá, được Pháp, Y Pha Nho và giới thừa sai giúp đỡ,
với chủ ý xây dựng một nhà nước công giáo. Phụng đã chiếm được nhiều tỉnh miền
Bắc.
Vua Tự Đức, muốn yên mặt Nam
để có thể sai Nguyễn Tri Phương ra Bắc dẹp loạn này, đành phải ký hoà ước Nhâm
Tuất, nhượng cho Pháp ba tỉnh Biên Hoà, Gia Định và Định Tường. Nhưng sau đó, vua
hết sức muốn chuộc lại, bèn sai Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình. Napoléon
III còn lưỡng lự, phái trung tá hải quân Gabriel Aubaret sang Việt Nam xem xét
tình hình. Aubaret tỏ ra ôn hoà, được nhiều sử gia Việt có cảm tình. Trần Trọng
Kim, Phan Khoang đều cho rằng sở dĩ việc không thành vì vua Tự Đức không dứt
khoát, cố tình kéo dài việc thương thuyết để hy vọng sẽ chiến thắng, hoặc quân Pháp
thấy đánh bất lợi sẽ tự rút lui. Nhưng Thực Lục cho biết chính phía Pháp cố
tình kéo dài thương thuyết và một mặt vẫn tấn công.
Ta có thể hiểu là Aubaret được
lệnh "giả vờ" thương thuyết để chứng tỏ thực tâm của nước Pháp. Về
mặt Pháp, bộ trưởng Hải quân và Thuộc điạ Chasseloup Laubat, năm 1864, đã dâng
sớ tâu vua không cho chuộc ba tỉnh Nam kỳ. Sự kiện này có thể liên hệ tới cuốn
sách tựa đề:
(Gia-Đinh-Thung-Chi) Histoire
et description de la Basse Cochinchine (Pays de Gia Định) traduites pour
la première fois, d'après le texte chinois original, par G. Aubaret, capitaine
de frégate, publiées par ordre de s. exc. le comte de Chasseloup-Laubat,
ministre de la Marine et des Colonies. Paris, Imprimerie Impériale, 1864.
(Gia Định Tùng Chi)
Lịch sử và miêu tả miền nam nước Nam (Vùng Gia Định), do G. Aubaret, hải quân
trung tá, dịch lần đầu, theo bản gốc chữ Hán, ấn hành theo lệnh của Ngài Bá
Tước de Chasseloup-Laubat, bộ trưởng Hải quân và Thuộc điạ. Paris, nhà in
Hoàng gia, 1864.
Trên cái tựa rất dài này, có
hai điểm đánh chú ý:
1- Biến tên đích thực của cuốn
sách Gia Định thành thông chí (Ghi chép thông suốt về thành Gia Định)
thành Gia Định Tùng chi (Gia Định, nhiều chi họp lại) và bỏ hẳn chữ thành.
Chúng ta sẽ hiểu rõ, tại sao, ở dưới.
2- Không đề tên tác giả
Trịnh Hoài Đức, chỉ ghi mơ hồ: dịch theo bản gốc chữ Hán. Để độc giả có
thể nhầm là sách của người Trung Hoa. Một sự miệt thị và gian dối của dịch giả.
Bài Introduction (Nhập
đề) còn đi xa hơn nữa, Aubaret viết:
"Độc giả sẽ
kinh ngạc khi thấy sự vong ân bội nghiã của sử gia [chỉ Trịnh Hoài Đức]; không
những không nói gì đến Giám mục Bá Đa Lộc mà cũng không nhắc nhở gì đến
những sĩ quan lỗi lạc của Pháp mà Gia Long đã hoàn toàn dựa vào để khôi phục
lại ngai vàng. Nhưng độc giả cũng đừng quên rằng cuốn sách này được viết
dưới triều Minh Mạng, ông hoàng bẩm sanh có tánh vô ơn, cho nên nếu viết theo
đúng cảm tưởng của mình thì có thể rất nguy hiểm. Tuy nhiên chữ
"Pháp" được thấy nhiều lần trong sách, và người ta còn ca tụng
một người lính thủy gốc Breton [Mạn Hoè] sau khi chết được thần thánh
hoá ở Nam Kỳ" (t. IV).
Giọng điệu lạ lùng của một
dịch giả nói về tác giả của cuốn sách mà mình dịch, chưa kể sự suy diễn có tính
bệnh hoạn của dịch giả về một ông vua "bẩm sanh có tánh vô ơn".
Nhân nói qua về thành Gia
Định, Aubaret không quên nhấn mạnh:
"Ngày nay [1864] người ta
còn gọi là thành Phan Yên, khi nói đến công cuộc vĩ đại do đại tá Pháp Olivier
thực hiện" (t. VII)".
Và cuối cùng, ông cho biết
mục đích của mình khi dịch cuốn sách này:
"Mục đích của
chúng tôi, khi dịch sách này, trước hết là thực tiễn và muốn giới thiệu một xứ
đáng chú ý trên nhiều bình diện, về địa thế cũng như về sự giầu có của đất đai,
có thể trở nên nguồn lợi tức quan trọng đối với nước Pháp, đồng thời Pháp có
thể truyền bá ảnh hưởng tinh thần một cách chính đáng trong vùng viễn đông, nơi
những thế lực thương mại Âu châu hôm nay đang nhòm ngó. Paris ngày
1/7/1863" (t. XIII).
Chúng ta có thể hình dung câu
chuyện như thế này: sách dịch xong ngày 1/7/1863, Aubaret trình cho bộ trưởng Chasseloup-Laubat.
Sau khi tham khảo kỹ càng cuốn sách, bởi đây là cuốn sách toàn thư về miền Nam,
có thể so sánh với bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú về
miền Bắc. Năm sau, 1864, ông bộ trưởng tâu lên Pháp hoàng: một xứ cực kỳ giầu
có về tài nguyên như vậy, ta không thể không chiếm cho được.
Nhưng mục đích của sự dịch
không chỉ ngừng ở đó, Aubaret còn muối mặt bỏ hẳn chương quan trọng nhất là Thành
trì chí, Trịnh Hoài Đức viết về thành Gia Định và các thành đồn
khác được xây dựng dưới thời Gia Long. Không những Trịnh Hoài Đức mô tả thành
Gia Định rõ ràng và tường tận, và ông còn mô tả những thành khác xây theo lối
bát giác như thành Gia Định. Nếu độc giả đọc chương Thành trì chí này,
thì không thể coi thành Gia Định là một thành Tây do người Tây xây.
Tại sao? Bởi vì trong chương
này, Trịnh Hoài Đức, ngoài việc mô tả thành phố Gia Định, từng nét, từng nét,
rõ ràng, ông còn kê khai vị trí các địa điểm đáng chú ý:
Công binh xưởng (Cục Chế
Tạo) ở trong thành sau đường Cấn Chỉ và Đoài Duyệt. Kho bạc ở phiá phải đường
Càn Nguyên và Khảm Hiểm. Kho thổ sản ở bên trái đường Càn Khảm. Trại đúc súng ở
phiá trước, bên trái Cục chế tạo, đúc các loại súng lớn bằng đồng, bằng sắt, và
súng hoả xa trụ. Kho thuốc súng ở mặt sau nội thành. Xưởng thuyền chiến ở phiá
đông, cách thành một dặm, trên sông Tân Bình, xưởng dài 3 dặm, làm thuyền hải
đạo, chiến hạm, ghe chiến cụ... Xưởng voi, Xưởng thuốc súng, Khám đường, Sứ
quán, Trường học, Trường Diễn võ ... ở đâu, ở đâu, Trịnh Hoài Đức đều nói rõ
cả.
Nhất là ông còn cho biết về các
đồn luỹ xây cùng thời ấy: Đồn Giác Ngư (tức đồn Cá Trê) (xây ngày 1/4/1789) và
đồn Thảo Câu (trấn Biên Hoà), đối diện nhau trên 2 bên bờ sông Tân Bình. Lũy
Hoa Phong ở Bình Dương, do Tống suất trưởng cơ Nguyễn Lễ, bình định Cao Miên
rồi đắp năm 1700. Luỹ Bán Bích ở địa phận Bình Dương và Tân Long, do
đốc chiến Nguyễn Đàm xây, hình giống mặt trăng xếp, sau khi thắng quân Xiêm
năm 1772 [Luỹ Bán Bích sẽ là khởi thuỷ của thành Gia Định]. Đồn Tân Châu, do
trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân đắp năm 1818. Đồn Mỹ Tho, hình vuông, đắp
năm 1792. Đồn trấn Vĩnh Thanh (Vĩnh Long và An Giang), bát giác, do trấn thủ
Lưu Phước Tường xây năm 1813. Đồn Châu Đốc, bát giác, Lưu Phước Tường xây 1815.
Đồn Châu Giang, bát giác, Nguyễn Văn Xuân xây năm 1818, vv... Luỹ bán bích, là
nền móng chính của thành Gia Định sau này, và Nguyễn Đàm hay Nguyễn Cửu Đàm là
tác giả đầu tiên xây dựng nền móng thành Gia Định.
Tất cả những công trình này
đều do người Việt xây, không thấy có dấu vết Vauban nào cả và cũng không thấy
Trịnh Hoài Đức nói đến công lao của một ông Le Brun hay ông Olivier de Puymanel
nào. Đó là lý do khiến Aubaret đã bỏ hẳn chương sáu: Thành trì chí của
Trịnh Hoài Đức, không dịch. Và sau này Cadière có thể nhận vơ tất cả những công
trình này là do Puymanel xây, hoặc dạy dân ta xây, mà không sợ chứng cớ rành rành,
đã nằm trong Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức.
Thụy Khuê
(Còn tiếp)
Kỳ tới: Chương 12: Ai xây thành
Gia Định và Diên Khánh
Chú thích :
(1) Nguyên văn tiếng Pháp:
"26/7/1779
Pierre-Joseph-Georges, évêque
d'Adran, Vicaire apostolique de Cochinchine, Camboge et Ciampa, à tous ceux à
qui besoin sera, salut.
"Deux vaisseaux étant
venus cette année de Macao à Bassac, pour y faire le commerce, un Chinois en
donna aussitôt avis au grand mandarin de Cochinchine, et lui annonca que les
vaisseaux étaient chargés de canons, de salpêtre, soufre, et autres munitions
de guerre. Le mandarin, avec qui je suis fort lié, se trouvant dans un grand
besoin de toutes ces marchandises, me pressa vivement d'en écrire aux
capitaines et de les prier, de sa part, de les lui vendre tout ou en partie, ou
même de passer en Cochinchine avec leurs vaisseaux si cela était possible,
remettant à cet effet tout droit d'encrage et autres. Je fis sa commission et
les capitaines, au retour du Cambodge, envoyèrent tout de suite leurs pilotes
pour s'arranger avec lui. Les arrangements pris, et les pilotes contents, l'un retourna à Bassac, l'autre demeura
ici. Pour moi, après avoir recommandé les capitaines au mandarin, je partis
pour aller faire la visite d'une partie de mon Vicariat, où les missionnaires
et les chrétiens m'attendaient depuis plus d'un mois.
Les capitaines arrivés ici avec leurs vaisseaux s'imaginèrent que je
m'étais éloigné à dessein, et se plaignirent de ma conduite à leur égard.
Confirmés dans leur opinion par un religieux missionnaire, qui, de son côté,
n'a pas tout lieu d'être content de moi, on dit que: 1- ils me soupconnèrent de
vouloir ôter aux vaisseaux de Macao la liberté de venir faire le commerce ici;
2- ils se plaignirent que j'avais quelques mauvaises affaires avec le roi du
Camboge; 3- ils m'accusèrent d'avoir enseigné aux Cochinchinois la manière de
fondre des canons, de faire des bombes et autres armes..."
(2) Nguyên văn tiếng Pháp: "Quant
au troisième article, je n'ai jamais fait ni aidé à faire aucune bombe, canon
ou autre arme quelconque. Je sais trop que cela ne convient en aucune manière à
mon état. Ce qui a pu donner lieu à ces soupçons, c'est que le mandarin m'ayant
interrogé sur la manière de charger une grenade qu'il avait eu du Camboge, et
autres bagatelles en ce genre, je le lui avais dit par manière de conversation.
Je lui graduai un graphomètre, quart de cercle, un rapporteur et lui fis faire
un porte-voix, un anneau astronomique, et autres instruments de mathématique.
Voilà ce que j'ai cru devoir remarquer pour empêcher les effets que pourraient
causer les calomnies et les rapports de personnes mal intentionnés"
- Chương 1: Chương 1: Nhu cầu viết lại lịch sử thời Pháp thuộc
- Chương 2: Giới thiệu bộ sử Nguyễn Văn Tường của Nguyễn Quốc Trị
- Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 - (Phần 1)
- Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 - (Phần 1) - tt
- Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 (Phần 2)
- Chương 4: Tác phẩm của John Barrow (1764-1848) - (Phần 1)
- Chương 5: Ai cứu Nguyễn Ánh khỏi sự lùng bắt của Nguyễn Huệ, tháng 9-10/1777
- Chương 6: Chân dung vua Gia Long
- Chương 7: Montyon và cuốn Thuyết trình thống kê về Bắc Hà (Phần 1)
- Chương 7: Montyon và cuốn Thuyết trình thống kê về Bắc Hà (Phần 2)
- Chương 8: Hịch cuả Quang Trung
- Chương 9: Ký sự Bissachère
- Chương 10: Thụy Khuê - Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
- Chương 11: Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long - Chương 11