Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015
Cao Thanh Phương Nghi - TRÊN LẦU BẢY BỆNH VIỆN
Truyện thứ nhất
Hôm
ấy người ta chuyển đến bệnh viện của trường đại học K. một nạn nhân bị trọng
thương. Anh ta 19 tuổi, bị xe tải cán và
lôi đi một quãng gần 10 thước. Kết quả
là anh bị gãy nát hết hai chân, da bụng bị tuốt không còn gì, dập gan, dập lá
lách, mất luôn bàng quan và bộ phận sinh dục.
Hãy tưởng tượng thân thể anh từ rốn trở xuống là một đống thịt bầy nhầy,
thê thảm, như xác mấy con chuột bị xe cán ta thỉnh thoảng gặp trên đường. Máu truyền vào bên trên thì rỉ ra bên dưới vì
các động mạch đã bị đứt, bị dập bể. Duy
chỉ còn trái tim là thoi thóp. Người ta
nói miễn trái tim còn đập là còn hy vọng…
Mẹ
của nạn nhân là một phụ nữ người Mễ Tây Cơ, thấp, lùn, nặng nề, đen đúa, lôi
thôi, bẩn thỉu, dắt theo sau một lũ con cũng lôi thôi bẩn thỉu như bà. Bà ấy lắp
bắp một tràng tiếng Mễ được thông dịch lại như sau: “Bác sĩ cấp cứu nơi bệnh viện
vùng tôi ở bảo tôi phải bằng bất cứ giá nào phải xin chuyển cho cháu về đây gặp
cho được bác sĩ M. Chỉ có bác sĩ M. mới
cứu được con tôi. Bác sĩ M. vẫn đang làm
việc ở đây phải không? Nghĩa là sẽ chữa
trị được cho con tôi phải không? Xin cho
tôi gặp bà ấy, để tôi van cầu bà ấy.”
Hai môi của bà mẹ tái mét, da mặt giựt giựt trong cơn xúc động mạnh. Những đứa trẻ giương cặp mắt đờ dại lên nhìn
mẹ. Nạn nhân được chuyển lên lầu bảy là
khu chăm sóc đặc biệt.
Bác
sĩ M. là một thần y như người ta vẫn mệnh danh bà như thế và là một từ mẫu nếu
nói về lòng tận tụy của bà đối với bệnh nhân.
Bà mới ngoài 40 mà tiếng tăm đã lẫy lừng trong giới y học. Tiếng nói của bà mạnh mẽ, rõ ràng, dứt khoát
như những nhát dao nhà nghề phập xuống mặt thớt. Hai mắt bà sáng quắc như hai luồng ánh sáng cực
mạnh làm cho một người nếu có những ý tưởng không minh bạch thì không dám nhìn
thẳng bà. Bà dịu dàng, từ tốn nói với mẹ
của nạn nhân: “Chị yên tâm về đi. Chúng
tôi sẽ cố gắng hết sức….” Người đàn bà
người Mễ Tây Cơ không về. Bà ta và lũ
con ngủ lại trong phòng đợi nhiều tuần liên tiếp sau đó. Làm như họ muốn lắng nghe từng nhát dao nhát
kéo trong phòng mổ. Bác sĩ M. mệt
nhoài. Bệnh nhân phải mổ đi mổ lại nhiều
lần. Những bộ phận nào bị mất thì thay bằng
ống nhựa. Thận mất thì dùng thận nhân tạo. Da mất thì cấy da những người hiến tặng thế
vào. Bác sĩ M. đã làm tất cả những gì bà
có thể làm được. Đã nhiều lần bà nhìn thấy
cái lưỡi hái của thần chết vung lên hạ xuống kề sát cổ người bệnh chỉ cách có
đường tơ kẽ tóc, trong bầu không khí nóng bức, tanh khét vì da thịt bị cháy dưới
mũi hàn điện trong phòng mổ. Bà nói với
mẹ của nạn nhân: “Tôi không giữ được đôi chân cho anh ấy.” Bà mẹ run rẩy: “Miễn là không mất mạng. Xin bác sĩ cố giữ mạng sống cho cháu…”
Sáu
tháng sau người bệnh có thể uống được nước và nuốt các thức ăn lỏng. Chín tháng sau thì bác sĩ M. ký giấy cho anh
ta xuất viện. Bà nói: “Bệnh nhân đã qua
giai đoạn nguy hiểm. Chúng tôi sẽ chuyển
cho cháu đến một trung tâm phục hồi chức năng.
Giai đoạn phục hồi lâu hay mau tùy vào mỗi người, có thể 10 tháng, có thể
hai năm. Cháu sẽ được tập ăn, tập thở, tập
nói, tập ngồi, tập đi…tức là tập mọi thứ để phục hồi những khả năng cháu bị mất
do thương tật. Tuy nhiên bà có thể yên
tâm được rồi.” Sau đó thì xe của bệnh viện
chở hai mẹ con đi. Bà mẹ vẫy tay chào
bác sĩ M. và các y tá, y công trên lầu bảy.
Con bà đã được hồi sinh từ “thần y” M. và những bàn tay thay tã, thay
băng, tắm rửa, đổ bô của hết thảy những nhân viên ở đó.
Không
ai nhớ rõ là hai hay ba năm sau thì hai mẹ con người Mễ Tây Cơ đột ngột xuất hiện
ở lầu bảy. Người mẹ khác hẳn khi xưa, mặt
mày tươi tỉnh, tóc tai gọn gàng, áo quần tươm tất. Họ xin phép vào thăm những người đã chăm sóc
cho mình trước đây. Các y tá ùa ra mừng
rỡ. Người thanh niên ngồi trên chiếc xe
lăn, thật đẹp trai với mái tóc dợn sóng và đôi mắt nâu, nói chuyện huyên thiên,
tươi cười rạng rỡ. Anh cười cười nửa đùa
nửa thật: “Tôi sắp cưới vợ rồi đấy nhé.”
Người mẹ đi phía sau cầm theo một giỏ hoa đủ màu, khuôn mặt lấp lánh nỗi
hân hoan. “Cho tôi gặp bác sĩ M. được
không? Bà ấy ở đâu? Bà không bận rộn chứ? Tôi có thể xin gặp ít phút được không?” Người
thanh niên bảo:” Tôi muốn cho bác sĩ M. xem là tôi có thể đi được chút ít trên
đôi chân giả. Xin các chị cho tôi gặp bà
ấy đi.”
Không
khí đang sôi động rào rào bỗng lặng im phăng phắc như giữa trưa đứng gió.. Không ai nói được câu nào. Một chị y tá bước đến nói mà như nghẹn: “Bác
sĩ M. không có ở lầu bảy. Nếu muốn gặp
thì xin đi theo tôi.”
Hai
mẹ con người Mễ Tây Cơ ngơ ngác. Bà mẹ đẩy
xe lăn cho đứa con trai theo chân chị y tá xuống vườn hoa của bệnh viện. Vườn hoa rất đẹp, thanh tĩnh, yên bình, có hồ
nước, và có lát những phiến đá rất trang trọng ghi khắc tên những người đã đóng
góp công sức hoặc của cải cho bệnh viện.
Chị y tá chỉ vào một phiến đá cẩm thạch có vân xám vân đen bên cạnh rất
nhiều những phiến đá khác có ghi dòng chữ: “Tưởng niệm bác sĩ C. M. nguyên trưởng
khu chăm sóc đặc biệt với tất cả lòng thương tiếc và tri ân.” Hai mẹ con ngẩn ngẩn ngơ ngơ: “Như vầy là thế
nào? Bác sĩ M. đã…Không lẽ….”
Vâng
thưa các ông, các bà, các bác, các chú, các cô, các anh, các chị. Trên đời này chẳng có cái lẽ nào hết. Bác sĩ M. đã chết. Một người bạn thân của bà đã đến đập cửa nhà
bà lúc sáng tinh mơ và phát hiện bà đã chết dưới cái bể bơi sau nhà, trong người
còn bận nguyên quần áo ngủ. Người bạn gần
ngất xỉu. Mọi thứ trong nhà không một thứ
gì suy suyển. Các nhân viên điều tra cho
biết đây không phải là một án mạng mà là một tai nạn. Bà té xuống hồ vì say rượu, say thuốc, hay chỉ
vì muốn nhào xuống ôm trăng giỡn chơi trong một đêm vắng vẻ mênh mông cô tịch
huyền bí chỉ có mình bà với trời mây bầu bạn.
Người chết thì đã chết rồi. Người
sống xôn xao một chặp rồi thôi. Mọi thứ
sau cùng đã ngủ yên dưới cái phiến đá này đây, trong khu vườn của bệnh viện, trong
tiếng nước chảy róc rách, tiếng chim kêu, tiếng thở dài của ai đó còn thương tưởng. Chị y tá bảo: “Bác sĩ M. đã cứu sống nhiều
người. Vậy mà đến lượt bà ấy thì không
ai cứu…”
Hai
mẹ con người Mễ Tây Cơ lặng đi một hồi.
Bà mẹ quì xuống hôn lên phiến đá, đặt giỏ hoa cạnh bên xong đứng lên chào
chị y tá rồi lặng lẽ đẩy chiếc xe lăn quay đi.
Trên lầu bảy hình như có bóng một chiếc áo trắng phất phơ, có một nụ cười
ẩn hiện sau lớp kính mờ, có một đôi mắt dõi theo chiếc xe lăn băng qua lối đi
giữa hai bờ cỏ. Người thanh niên ấy rồi
sẽ đi được trên đôi chân giả thay cho đôi bánh xe lăn, chỉ ít lâu nữa thôi, đó
là điều hy hữu mà thần y M. đã làm được.
Truyện
thứ hai
Đêm
đó chị y tá Nhàn nhận bệnh ở lầu bảy. Bệnh nhân của chị là một bà cụ bị liệt do
chấn thương cột sống, chuyển đến từ nursing home, mắt thụt sâu, hai má hóp. nằm
xẹp lép bất động như cái xác. Chị Nhàn
đem thuốc đến cho bà nghe bà mấp máy môi: “Tôi muốn gặp con gái tôi.” Chị hỏi: “Bác có số điện thoại không? Cháu gọi chị ấy giúp bác.” Bà cụ thút thít: “Tôi không có số gì của nó hết. Đã mấy năm rồi nó biền biệt tăm hơi. Tôi gặp nó rồi thì tôi có chết cũng vui lòng
mà chết…” Bà cụ nói rồi lại khóc, lại
nói thêm nữa, cứ lặp đi lặp lại mãi một câu.
Chị Nhàn mở hồ sơ ra đọc. Trong ấy
ghi là bà cụ có ba người con trai ở rải rác khá xa, không thấy nói đến một người
con gái nào cả.
Hai
hôm sau chị Nhàn trở lại thì bà cụ yếu thêm chút nữa. Thuốc men chẳng còn hiệu lực. Người bà mỗi lúc một phình lên do thận suy, ứ
nước. Bà cụ chốc chốc lại ngước nhìn ra
cửa sổ. Ngoài ấy bầu trời đen thăm thẳm. Chỉ có cây thập giá trên nóc nhà thờ là sáng
lên huyền ảo. Bà cụ xin Nhàn tờ giấy và
cây bút chì, nguệch ngoạc vẽ lên đó một khuôn mặt méo mó, mắt lớn mắt nhỏ, miệng
lệch một bên. Vẽ xong bà vò mảnh giấy tấm
tức: “Tôi không vẽ được. Tay tôi run
quá. Con gái tôi không phải thế này. Nó
đẹp lắm mà cuộc đời nó tan nát. Chắc kiếp
trước tôi ăn ở ác nhơn thất đức nên trời phạt.
Ông trời phạt tôi, không trút xuống tôi mà trút xuống con tôi. Tôi khổ lắm cô y tá ơi…”
Chị
Nhàn ngần ngại. Thôi cứ để bà cụ đổ thừa
cho kiếp trước như vậy cho yên lòng. Chị ngập ngừng hỏi một cách vu vơ:
-
Bác có ba người con phải không?
-
Không phải. Tôi có bốn đứa. Ba đứa con trai thì đã yên ổn làm ăn. Tôi không có gì lo lắng. Riêng đứa con gái út thì lưu lạc. Nó là con Hà, con bé Hà…
-
Ủa, bác còn người con gái à? Trong hồ sơ
không thấy ghi…
-
Người ta ghi thiếu…
-
Con gái bác bây giờ ở đâu?
-
Nó ở bên Pháp.
-
Chị ấy làm gì bên đó?
-
Tôi không biết… Tôi không biết gì cả…Nó
sống chết thế nào tôi không biết. Nó
không gởi thư về. Tôi thì nằm một chỗ đã
ba năm nay….Tôi muốn đi tìm nó cũng không đi được… Hay là nó đã chết rồi? Trời ơi tôi phải gặp nó chứ… Không lẽ mẹ con
không còn thấy mặt? Phải chi con trai
tôi về kịp để tôi hỏi xem đứa em út của nó như thế nào. Tại sao không có đứa nào về cả? Cô y tá, tôi còn sống được bao lâu nữa? Có ai gọi được cho con tôi hay chưa? Trời ơi sao ông trời hành hạ tôi như thế
này….
Bà
cụ giận dữ như lên cơn động kinh. Giận
mà không cử động được thì cơn giận trào qua mắt, qua mũi, qua miệng, qua những
vết thương trên thân thể. Nước vàng ứa
ra từ những chỗ lở loét, bọt mép sùi ra hai bên khóe miệng. Mặt bà nhăn lại như cái mặt nạ phù thủy. Cái đau bên trong thì thuốc men gì chữa được. Bác sĩ có dặn trong trường hợp như thế này
thì cho bệnh nhân một liều thuốc an thần.
Chị Nhàn làm theo. Bà cụ thiếp dần
đi. Đến sáng chị Nhàn giao ca lại cho
người trực ban ngày. Chị dặn nếu được
hãy cố liên lạc tìm cho ra người con gái của bà cụ.
Ba
hôm sau nữa thì bà cụ đã mê sảng, hai mắt nhắm nghiền, miệng há ra, bất động,
phất lên mùi hôi. Người bà lúc này đã
phình to như cái quả bóng bơm căng đầy nước, hai môi dầy lên, mắt mũi đều sưng
phù.Lúc bà mới chuyển đến có đem theo một chiếc áo dài, dặn chị nếu có bề gì
thì mặc cho bà chiếc áo ấy khi tẩn liệm.
Chị lấy chiếc áo ra, đau lòng nhận thấy rằng bà không cách nào mặc vừa
được. Chị bước ra ngoài hỏi người thư ký
-
Chưa có thân nhân nào đến à?
Người
ấy bảo:
-
Chưa thấy ai đến cả.
-
Có gọi được cho ai chưa?
-
Gọi nhiều lần rồi. Người con lớn nói sẽ
thu xếp về gấp.
Ngoài
khung cửa sổ vẫn là bầu trời đen ngòm, vẫn là cây thập giá đứng lẻ loi cô độc
trên nóc nhà thờ. Sương trắng bay mù mù
phủ kín những tàng cây. Khoảng hai giờ
khuya chị Nhàn đến xem xét bà cụ một lần nữa trước khi đi nghỉ giải lao thì giật
mình thấy bà đột ngột mở bừng mắt, lập bập nói:
-
Con gái tôi có đến. Tôi gặp rồi.
Chị
Nhàn mừng rỡ:
-
Ủa , đến hồi nào vậy bác?
-
Hồi nãy.
-
Rồi chị ấy đâu rồi?
-
Tôi không biết. Chắc nó đi đâu ra
ngoài….Nó nói lát nó trở lại….
Chị
Nhàn hơi lấy làm lạ. Hồi nãy có người đến
thăm bà cụ à? Hồi nãy là mấy giờ? Nếu có người đến thì chị phải biết vì ai vào
thăm bệnh ở khu chăm sóc đặc biệt cũng phải trình với y tá. Cô gái nọ đến lúc nào? Sao chị chẳng hay chẳng biết gì cả. Hay là cô
ấy đến lúc chị có việc phải xuống kho lấy dụng cụ? Chị
lay bà cụ định hỏi thêm nhưng bà chẳng trả lời, mắt nhắm lại, im lìm bất động,
chìm vào cái cõi riêng của bà. Chị cúi xuống, thấy bịch nước tiểu đã đầy, chị mở
nắp xả vào một cái bình nhựa rồi đem vào nhà tắm định đổ vào bồn cầu.
Cánh
cửa nhà tắm vừa mở ra thì chị lập tức khựng lại. Trong phòng tắm có người. Rõ ràng là có một người trong ấy. Một người phụ nữ mặc váy dài, chân đi ủng da,
choàng cái khăn len ngang cổ. Người ấy đứng sát vào cái bồn rửa tay, mặt
nhìn vào tấm gương nên chị chỉ thấy được phía sau lưng với mái tóc xõa ngang ôm
ấp bờ vai mảnh mai thanh tú. Chị lùi ra
thật nhanh như cái phản xạ tự nhiên, khép cửa lại rồi lật đật chạy ra ngoài hỏi
người thư ký:
-
Có người đến thăm bà cụ. Sao không cho
tôi hay?
Người
ấy ngạc nhiên:
-
Ai đâu?
-
Tôi không biết nhưng chắc là con gái bà cụ.
Tôi thấy cô ấy trong phòng tắm.
-
Đâu?
Hai
người chạy vào phòng bà cụ, gõ cửa nhà tắm nhưng không nghe động tịnh gì. Mở cửa ra thì không có ai trong đó cả. Hai người lại chạy ra hành lang. Có một người đứng hút thuốc ở đó nhưng là một
người đàn ông. Chị Nhàn hỏi:
-
Anh có thấy người đàn bà nào vừa bước ra khỏi đây không?
Người
kia đáp:
-
Không. Tôi không thấy ai cả.
Người
thư ký cười nhạo:
-
Bà ơi bà. Bà mơ ngủ rồi bà ơi. Thôi làm chút cà phê đi. Còn năm tiếng nữa mới tới giờ về.
Chị
Nhàn tức nhưng không cãi. Chị định một
lát nếu rảnh sẽ xuống hỏi nhân viên gác cổng xem có ai ghi tên vào thăm bệnh
không nhưng thấy đúng là mình vô lý. Đồng hồ chỉ hai giờ bảy phút khuya. Giờ này thì ma nào vào thăm bệnh.
Khi
người con trai lớn của bà cụ vào đến bệnh viện thì bà đã mất. Anh làm thủ tục nhận xác mẹ, không khóc,
không cười, lầm lũi ký tên vào một cọc giấy tờ và hỏi thăm một số nhà quàn gần
đây để tiến hành đám tang. Anh bảo: “Chắc
tôi thiêu sớm cho rồi. Chờ mấy đứa kia về
biết chừng nào tụi nó mới về.” Chị Nhàn
nhìn người đàn ông xa lạ đó và tự hỏi anh ta có biết gì về nỗi khổ của mẹ anh
trong những phút cuối của cuộc đời không.
Tự dưng chị thấy uất ức. Dường
như anh ta chẳng có máu thịt ruột rà gì với người đàn bà vừa qua đời. Dường như anh ta là một người dưng. Chỉ có người dưng với người dưng mới lạnh
lòng đến như thế. Không chịu nổi, chị hỏi:
-
Anh có cho người em gái út hay tin chưa?
Anh
ta có vẻ ngạc nhiên:
-
Em gái út tôi hả? Ờ, tôi có đứa em gái
út bên Pháp nhưng nó chết lâu rồi.
Chị
Nhàn sửng sốt:
-
Chết hồi nào mà lâu?
-
Chết ba bốn năm rồi.
-
Vậy sao mẹ anh không biết?
-
Biết chớ nhưng bà ấy không tin. Bà cứ bảo
là tôi nói láo và đòi đi gặp nó cho bằng được.
Mỗi lần tôi về thăm là bà cứ khóc lóc hoài về cái chuyện đó. Tôi nói thôi được rồi, để con mời thầy cúng đến
rước vong nó về cho mẹ gặp chớ con không biết làm cách nào nữa.
Chị
Nhàn gần bật ngửa. Chị suýt buộc miệng bảo,
thôi, giờ đây thì anh không cần phải làm gì nữa vì bà cụ đã gặp rồi và chính
tôi cũng gặp được cô ấy rồi nhưng chị thắng lại kịp để không nói gì cả. Chị biết
rằng nếu nói ra thì chắc chắn người đàn ông ấy sẽ khoát tay, cười khẩy, và câu
chuyện của chị sẽ trở thành cái cho người ta chế giễu. Người ấy đi rồi chị mới thong thả quay trở lại
gian phòng mà bà cụ đã nằm, nhìn người ta lau chùi, dọn dẹp, trải giường, chờ
đón một ai khác. Chị nhìn lại cái không
gian cũ với tấm gương, bồn rửa mặt, cố gợi lại trong trí hình ảnh của người phụ
nữ mà chị đã thấy thoáng qua trong cái giây phút âm dương trùng phùng, tại nơi
này, trên lầu bảy bệnh viện. Con ma ấy
đã về sớm hơn hết thảy những người còn sống.
Thôi, như vậy cũng được, coi như chút an ủi sau cùng để một linh hồn mãn
nguyện mà ra đi.
Cao Thanh Phương Nghi
5/2015