Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2015

Thụy Khuê - Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long - Chương 7



Montyon và cuốn Thuyết trình thống kê về Bắc Hà

Phần I 

Trong chương 6, chúng tôi đã trình bầy Chân dung vua Gia Long qua bốn ngòi bút khác nhau của tác giả Sử Ký Đại Nam Việt, của linh mục Le Labousse phụ tá giám mục Bá Đa Lộc, của Shihõken Seishi, thủy thủ Nhật bị đắm tầu, đến Gia Định cuối năm 1794 và của John Barrow, nhà ngoại giao Anh. Các tác giả này đã khắc họa nên những nét chính của vua Gia Long, mà cho tới bây giờ chúng ta chưa được biết.

Trong chương này, chúng tôi xin giới thiệu cuốn sách Exposé statistique du Tunkin... của Montyon, học giả Pháp, xuất hiện gần như cùng thời với sách của Barrow và cũng bị Maybon hết sức chê bai, khi ông cho in cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de M. de la Bissachère (Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà của ông de La Bissachère) (sẽ dẫn là Ký sự Bissachère), là thủy tổ sự xuyên tạc lịch sử, mà sau này người ta thường dựa vào để viết lịch sử cận đại Pháp-Việt. Nhưng trước khi Maybon cho in thành sách, thì Ký sự Bissachère đã xuất hiện dưới hai hình thức, từ hơn 100 năm trước:
- Năm 1810, Sainte-Croix cho in Ký sự Bissachère nhưng không đề tên tác giả, trong cuốn sách của mình tựa đề Voyage commercial et politique aux Indes orientales... (Hành trình thương mại và chính trị ở Đông Ấn...).

- Năm 1811 ở Luân Đôn và 1812 ở Paris, nam tước de Montyon viết cuốn sách tựa đề Exposé statistique du Tunkin... sur la Relation de M. de la Bissachère, missionnaire dans le Tunkin (Thuyết trình thống kê về Bắc Hà... về Ký sự của ông de La Bissachère, thừa sai ở Bắc Hà), nhưng nội dung lại có rất ít điều do Bissachère viết ra.

Tóm lại, cái gọi là Ký sự Bissachère, đã xuất hiện 2 lần: lần đầu tiên trong cuốn sách của Sainte-Croix, in năm 1810 và lần thứ nhì trong cuốn Ký sự Bissacchère của Maybon, mà chúng tôi sẽ giới thiệu sau.

Tác phẩm của Montyon, tuy trên bìa có tên Bissachère, nhưng lại là một bộ sách hoàn toàn khác biệt với Ký sự Bissachère, xuất hiện sau tác phẩm của Barrow vài năm. Đây là một cuốn biên khảo, đào sâu vào xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, tinh thần vượt trên những toan tính tôn giáo của phái thừa sai và mưu toan chính trị của phe thực dân, chú ý đến những vấn đề liên quan đến Gia Long như tổ chức quân đội của Nguyễn Ánh, xã hội dân sự dưới thời chiến tranh Nguyễn Ánh-Tây Sơn... Đó là cuốn sách của một trí thức Pháp, đứng ngoài sự xuyên tạc lịch sử.

Nam tước Jean-Baptiste de Montyon (1733-1820) là một nhà hảo tâm và kinh tế gia Pháp; khi chết, ông để gia tài cho Institut de France (Pháp quốc học viện) quản lý, lập ba giải thưởng hàng năm về đạo đức, văn chương và khoa học, mang tên Montyon. Năm 1789, cách mạng bùng nổ, Montyon phải sang Anh tỵ nạn chính trị, ông trở về Pháp năm 1814, dưới thời Vương chính trùng hưng (Restauration).

Năm 1811 và 1812, Montyon cho in ở Luân Đôn một bộ sách tựa đề đầy đủ như sau: Exposé statistique du Tunkin, de la Cochinchine, du Camboge, du Tsiampa, du Laos, du Lac-Tho, par M. M-N sur la Relation de M. de la Bissachère, missionnaire dans le Tunkin (Thuyết trình thống kê về Bắc Hà, Nam Hà, Cao Mên, Chiêm Thành, Lào, Lạc Thổ, của ông M-N [M-N là chữ Montyon viết tắt] về Ký sự của ông de La Bissachère, thừa sai ở Bắc Hà. (Imprimeries de Vogel et Schulze, Luân Đôn, 1811). Năm 1812, ông tái bản sách này ở Paris, thay chữ Exposé statistique (Thuyết trình thống kê) bằng chữ Etat actuel (Tình trạng hiện thời) và bỏ chữ "của M-N" (Nxb Galignani, Paris, 1812). Tác phẩm in ở Luân Đôn năm 1811, gồm 2 tập: tập I, 364 trang và tập II, 162 trang, sẽ dẫn là Montyon I II.

Đọc bộ sách 532 trang này, ta không hiểu tại sao Montyon lại lấy tên sách là Thuyết trình... về Ký sự của ông de La Bissachère, thừa sai ở Bắc Hà và trong bài Tựa (Introduction) lại đề cao đương sự một cách quá đáng: "Ông Bissachère đã ở Bắc Hà 18 năm, đã đi khắp nơi, biết nghe và nói tiếng Việt... đã quen biết những người cầm quyền quan trọng, thường bàn luận với các quan, chính ông cũng được làm quan... nhiều lần được vua tiếp" bởi vì trong sách có rất ít việc rút ra từ ý của Bissachère (và những chỗ ấy phần nhiều là sai). Văn phong và tư tưởng cao hơn Bissachère rất nhiều. Montyon cho biết: "Còn về những dữ kiện mà ông [Bissachère] đã đưa ra những khái niệm, chúng tôi, tự do tìm thêm qua những hồi ký, thư từ, của những người đã sống ở những nước ấy, đã dự kiến vào những biến cố xẩy ra, có đủ tư cách và xứng đáng tin cậy" (Introduction, Montyon I, t. 7-8).

Những điều chép của Bissachère: Trong phần hình luật dưới thời Gia Long, Montyon viết: "Những hình phạt cho những tội thông thường được xác định bằng điều luật mọi người đều biết, nhưng những tội nặng, nhất là tội về quốc phòng, thì hình phạt được áp dụng một cách bí mật, chỉ quan toà xử tội biết, đôi khi vua hay viện cơ mật còn làm nặng thêm. Vì thế mà hoàng đế đã cho voi xé xác phản loạn Tây Sơn, và cắt từng miếng thịt quân phản loạn cho lính ăn thịt" (Montyon I, t. 230) "Những người đàn bà bị tử hình còn ghê hơn. Họ bị voi tung lên trời, và khi rớt xuống sừng voi đâm thủng và bị chân voi dầy xéo" (t. 231). Chỗ này sai vì phỏng theo đoạn Bissachère viết về việc Gia Long xử tội voi xé xác anh em Tây Sơn và hai mẹ con tướng Bùi Thị Xuân rồi cho lính "ăn thịt" bà Bùi Thị Xuân! Chúng tôi sẽ nói rõ hơn trong phần viết về Bissachère.

Montyon cho những chi tiết về việc Quang Trung ra Bắc đánh quân Thanh: "trên đường đi, bắt tất cả những ai có thể cầm khí giới phải tòng quân, không theo thì giết, đốt nhà..." (Montyon, Tập II, t. 27). Đoạn này cũng chép của La Bissachère; chúng tôi sẽ trở lại sau.

Những điều phản bác Bissachère: Phần viết về tôn giáo chứng tỏ Montyon biết khá rõ về tôn giáo ở phương Đông; ông chống lại quan niệm của Bissachère, và chỉ trích người Âu -nhất là các thừa sai, cho rằng dân Việt theo đạo thờ cúng ma quỷ (Idolâtrie)- vì họ không hiểu niềm tin của người Việt, chỉ biết lấy đạo thiên chúa làm chuẩn mực cho các dân tộc khác. Ở Bắc Hà, sự "ngu dốt" của người Âu đã khiến họ coi tất cả những việc thờ cúng là hủ lậu, phải bác bỏ. Đạo giáo ở phương Đông, nhất là nước Nam bắt nguồn từ Trung Hoa và Trung Hoa bắt nguồn từ Ấn Độ... Người Bắc Hà có truyền thống đa thần, thờ nhiều vị thần linh siêu hình, và họ tin rằng từ rừng núi đến đồng bằng, mỗi nơi đều có một vị thần ngự trị, có ảnh hưởng đến đời sống con người (Montyon I, t. 266- 267).

Sách của Montyon có vài điểm giống sách của Barrow chứng tỏ hoặc Montyon đã đọc sách của Barrow, hoặc họ dùng chung tài liệu. Có lẽ khả năng thứ hai này đúng hơn.

Những điều chép của Barrow: Việc Nguyễn Ánh chạy trốn năm 1777, Montyon viết: "Người thiếu niên Nguy-en-Chung [Nguyễn Chủng, Chủng là tên Nguyễn Ánh hồi nhỏ, chỉ những người không biết rõ như Montyon hoặc những ai muốn hạ thấp Nguyễn Ánh, mới dùng tên này] được mẹ dẫn dắt, trốn vào rừng, trong nhiều tháng dưới một lùm cây rậm rạp..." (Montyon II, t. 22), đoạn này chép Barrow, mà chúng tôi đã trích dịch và nói những điều sai, trong phần viết về Barrow.
Về Tây Sơn, Montyon viết: "Người em thứ nhì, Nguyễn Lữ là một thiền sư, không thiết việc công, không có khả năng điều khiển, nhưng được giới tăng lữ ủng hộ, và giới này ảnh hưởng đến quần chúng, tạo ra một bề ngoài công lý, một giá trị cao cả cho đảng [Tây Sơn]" (Montyon I, t.19). Chỗ này cho thấy Montyon dùng chung tài liệu với Barrow nhưng viết rõ hơn.

Sách của Barrow và Montyon, đều nên dịch sang tiếng Việt, bởi đó là những điều mà người ngoại quốc đầu thế kỷ XIX nhìn và viết về nước ta, với những thông tin, phê phán đời sống dân tộc, từ tập tục đến cách ăn ở, tôn giáo, lối xây nhà, đóng thuyền, kiến trúc cung điện Huế... một loại "toàn thư" nhỏ, theo quan điểm ngoại quốc, khá khách quan, không có chủ ý bênh vực chính sách thuộc địa. Dĩ nhiên có những cái sai không thể tránh được, nhưng chúng ta có thể đính chính dễ dàng.

Điều đáng chú ý trong bộ sách của Montyon, ngoài những gì có tính cách nghiên cứu dân tộc học, địa lý chính trị xã hội, tổ chức hành chính... nói chung mà chúng ta có thể kiểm chứng lại qua bộ sách đồ sộ Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ [thường gọi là Hội Điển, của Nội Các triều Nguyễn]; tác phẩm còn đáng chú ý ở những điểm mà quốc sử không viết, hoặc viết thiếu, hoặc viết với cái nhìn khác, cần đọ với tài liệu của người nước ngoài. Tóm lại, Montyon đưa ra nhiều nhận định mới về Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, không thấy trong các sách khác. 

1- Về kiến trúc

Montyon nhận xét:
"Ở đây không thiếu gì chất liệu để xây dựng, nhiều đá đẹp, cứng và bóng như cẩm thạch, có đất tốt để nung gạch, nhiều gỗ quý, đẹp. Dân tộc này khéo léo, tinh xảo lạ lùng; tuy vậy kiến trúc lại khiếm khuyết; vì không biết nguyên tắc; ngoài ra, thiên nhiên và luật hành chính cản trở việc xây dựng những toà nhà cân đối, đẹp đẽ, hoành tráng. Ở nhiều nơi, sự ẩm ướt bắt buộc phải để giữa tầng trệt và mặt đất một khoảng trống. Dân chúng không có quyền xây nhà bằng đá và nhiều từng; những cơ sở lớn như chùa chiền và đền đài cũng làm bằng gỗ, để khi bão, dễ chống đỡ, đỡ bị tàn phá. Rất nhiều dinh thự lớn chỉ có tường chính làm bằng đá hay gạch, chỗ còn lại là gỗ cả. Nhà cửa không cân đối, tuy cũng có chút đối xứng, trông như một khối nhiều nhà rộng, không ra hình dạng gì, tuy nhiên, cái vô trật tự đó cũng có vẻ uy nghiêm riêng, nó phản ánh địa vị quan trọng của người chủ nhà" (Montyon I, t. 148-149).

Nhận xét khá tinh tế, Montyon phê bình khắt khe kiến trúc Việt, vì ông nhìn kiến trúc và trang trí theo quan niệm Âu châu, coi những gì Á Châu làm là "không có nguyên tắc". Điểm đáng chú ý ở đây: tuy chê, nhưng ông không viết như những ngòi bút thuộc địa, thường cho rằng kiến trúc thành trì của người Việt, toàn là Vauban do Puymanel xây dựng, trước khi người Pháp đến Việt Nam không có gì cả!

Về cung điện Phú Xuân, ông viết:
"Những thành phố có nhiều nhà đẹp nhất là Bac-Kin, thủ đô Bắc Hà và Phú Xuân, thủ đô Nam Hà, nơi hoàng đế ngự trị cùng gia đình và quân cấm vệ, đây là một thành đài chiến đấu (forteresse). Quần thần và dân chúng ở ngoại thành. Từ khi kinh đô Bắc bỏ trống, một phần vì bị chiến tranh tàn phá nhưng vẫn để lại những di tích huy hoàng, thì Hoàng cung (le palais de l'Empereur) là dinh thự đẹp nhất nước, có nhiều dinh cơ, vườn rộng mênh mông, có thành luỹ bao quanh, chu vi hai, ba dặm [4 đến 8 cây số], có bốn cửa, theo đúng bốn phương chính. Vào trong cung điện phải xuyên qua nhiều sân, có sân dành riêng cho trại cấm vệ, sân dành cho chuồng ngựa và voi; cung vua hình vuông, hình thức đặc biệt của bậc đế vương; bước lên mấy bậc cẩm thạch mới tới tiền đình. Cung điện có hai tầng, nhiều sảnh đường lớn với rất nhiều cột, cơ man là vàng, trang hoàng kỳ quái và nặng nề, trạm trổ không đẹp, những hình ảnh u ám, vàng dát không đạt hiệu quả. Sự trang hoàng duy nhất đáng khen ngợi là những cột gỗ lim, rất cứng, đặc, chắc, nâu sậm, thứ gỗ nổi tiếng đẹp, nhất là khi nó ngả sang mầu gụ, có vân giống như cẩm thạch, chà bằng lá chuối thì gân nổi lên, nhẵn, bóng, đẹp như véc-ni hảo hạng ngang ánh thủy tinh; những cột này phản chiếu ánh sáng, khiến ta liên tưởng đến những lâu đài pha lê, kim cương, trong truyện thần thoại; nhưng chúng vĩ đại mà không cân đối; những cột ở cửa cung điện có khi cao tới 40 pieds [12,96 m], chu vi chân cột là 5 pieds [1,62m] lên trên thon dần, không có bệ, không có đầu. Cột đặt thẳng trên một hòn đá vuông, chôn sâu dưới đất, trồi lên độ một hai tấc.

Nhất cung điện nhà vua, nhì đền chùa ngoài Bắc, lớn rộng và tráng lệ hơn trong Nam. Vài du khách đầu óc nhỏ nhen, hiểu lầm, gọi chỗ chứa đồ tế nhuyễn là đền" (Montyon I, t.149-151).

Có lẽ đây là sự mô tả sớm nhất của người ngoại quốc về cung điện Huế khi Gia Long mới xây xong phần cốt lõi năm 1805, đó là Cung thành (sau Minh Mạng gọi là Tử cấm thành) và điện Thái Hoà. Khi ấy, Kinh thành còn đắp đất, đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836) mới bắt đầu xây gạch (Đại Nam Nhất Thống Chí, tập I, nxb Thuận Hoá, 1992, t.18).

Montyon không thoát khỏi đầu óc cố hữu của người Tây phương, vẫn đem những mẫu mực về cái đẹp của người Âu để đọ và chê cách bài trí cung điện của Gia Long.
Võ Liêm, trong bài La Capitale de Thuận Hoá (Huế) (Kinh đô của Thuận Hoá (Huế), BAVH, 1916, III, (t. 277-288), đã chứng minh sự xây dựng Kinh thành Huế do chính vua Gia Long thực hiện. H. Cosserat trong bài La citadelle de Huế, Cartographie, sau khi trích dẫn Võ Liêm, lại khẳng định một lần nữa: "Hai trích đoạn mà tôi vừa dẫn ở trên, như ta thấy, tuyệt đối chính xác, không cho phép bằng bất cứ cách nào, có thể nghĩ rằng người Âu đã xa gần nhúng vào việc xây thành đài Huế" (BAVH, 1933, tập I và II, t. 3-4).

Theo Hội ĐiểnĐại Nam Nhất Thống Chí, công trình xây cất cung điện Huế trải dài suốt đời Gia Long sang đời Minh Mạng.

Phần Montyon mô tả chính là Hoàng thành và điện Thái Hoà, xây năm 1805, Đại Nam Nhất Thống Chí ghi: "Chu vi 4 dặm linh, cao 1 trượng 5 thước, dày 2 thước 6 tấc, xây gạch, nam và bắc đều dài 151 trượng 5 thước, đông và tây đều dài 155 trượng 5 thước, mở bốn cửa: phiá trước là Ngọ Môn, phiá tả là cửa Hiển Nhân, phía hữu là cửa Chương Đức, phiá sau là cửa Hoà Bình. Phiá trong Ngọ Môn là điện Thái Hoà, là chính điện đại triều..." (ĐNNTC, tập I, t. 20).

Những thông tin này xác định kinh đô Huế là sản phẩm hoàn toàn Việt Nam, không hề có bàn tay Pháp, cũng không theo kiểu Vauban, như Cadière lập lờ xác nhận, sẽ nói đến sau. 

2- Về chúa Trịnh và vua Gia Long

Montyon chỉ trích chúa Trịnh ở Bắc tàn ác độc tài và tỏ ý kính phục đức độ của chúa Nguyễn trong Nam, ông viết:
"Trong thời gian ấy, Đàng Trong do các chúa cai trị, hầu hết đều có tài, đức, một số là những vĩ nhân, tự luyện, tự học, đạt được sự kiên quyết lớn lao, trở thành địch thủ của thế lực mà họ còn phụ thuộc vào [chỉ chúa Trịnh].(...) Người nổi tiếng nhất là Hien- Nquien-Vuong [Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần], nhờ ông mà Đàng Trong chiếm thêm một phần đất Chiêm Thành, thêm những tỉnh ven biển của Chân Lạp, và kiện toàn nền văn minh Đàng Trong" (Montyon II, t. 14-15). Montyon kê khai tên các chúa trong Nam khá đầy đủ, chỉ thiếu Quốc Chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725). Sự nhận xét về các chúa cũng đúng, đặc biệt ông biết chúa Hiền Nguyễn Phước Tần là bậc anh hùng, trong khi ở các tài liệu của nhà dòng thời ấy, chúa Hiền bị các thừa sai gọi là "bạo chuá".

Về vua Gia Long, Montyon viết:
"Vua Nam Hà, bị đánh đuổi, lẩn trốn, rồi trở lại đất mình. Lại bị đuổi đánh, lại trở về. Bao lần thắng, bại, cuối cùng khôi phục được ngai vàng, nhờ quyền thừa kế, nhờ sức chinh phục, ông thu hồi cả miền Bắc, quan trọng hơn; và như thế trong vùng bán đảo Ấn Độ, ngoài cõi sông Hằng, một cường quốc chưa bao giờ lớn như thế xuất hiện. Qua bao thăng trầm trôi nổi, ta đã thấy một bên là những ý đồ thâm sâu phối hợp như thế, những bất trung bất nghiã quỷ quyệt như thế, những mưu lược cả gan, kỳ lạ như thế, những cảnh tượng bi đát và tàn nhẫn như thế; một bên là sự can đảm chống lại những bất hạnh như thế, một thiên tài trác tuyệt như thế, và cuối cùng đưa đến một kết quả [bất ngờ] không liên lạc với những gì đã xẩy ra trước đó như thế [chỉ sự thống nhất đất nước]; từ những biến cố này, nổi bật lên một dấu ấn phi thường, không giống bất cứ lịch sử của một xứ nào, của một thế kỷ nào, cổ xưa hay hiện đại" (Montyon II, t. 3-4).

Chân dung Gia Long, do Montyon phác thảo, cũng khá gần gụi với những mô tả của Le Labousse, Barrow, mà chúng tôi đã trình bầy trong chương trước. Và ông cũng xác định Gia Long khôi phục được ngai vàng, nhờ quyền thừa kế, nhờ sức chinh phục, chứ không phải nhờ sự giúp đỡ của những người lính Pháp, như sau này người ta tìm cách thêu dệt nên. 

3- Anh em Tây Sơn bất hoà

Về việc anh em Tây Sơn đánh nhau, Montyon viết: "Quá mạnh để chấp nhận ông anh là bề trên, Huệ sai người đến trình bầy với anh là mình muốn đứng riêng một cõi. Người anh nổi giận, sai chặt đầu các sứ giả của Huệ, và lên cơn tàn bạo quá đáng. Quang Trung trả thù, cầm quân đến đánh anh. Nhưng kết quả của sự phân liệt này là họ hội đàm với nhau về tình hình nổi dậy ở miền Nam, và bắt buộc họ phải bỏ qua thù hận" (Montyon II, t. 28).

Sự "Nhạc chặt đầu các sứ giả của Huệ", không thấy ghi ở đâu. Có thể Montyon đã đọc thông tin của một vị thừa sai sống trong triều đình Thái Đức. Nếu đúng, đây là một nguyên nhân gần, cần tìm hiểu thêm, nó giải thích lý do tại sao Nguyễn Huệ đem binh vây Qui Nhơn, mà các nhà nghiên cứu thường chỉ đưa ra giả thuyết vì "Huệ không chia cho anh của cải cướp được ở Bắc Hà". 

5- Về việc lính Pháp giúp Nguyễn Vương

Montyon có lẽ là người Pháp hiếm hoi viết một câu như sau: "Vài sĩ quan Pháp theo giúp Nguyễn Chủng, tập cho quân sĩ kỷ cương và vài nhà buôn Pháp bán tầu cho ông.

Dân chúng mỏi mệt vì chiến tranh, và cũng vì kiệt sức hai bên tạm dừng trong một thời gian: nhưng Nguyễn Chủng lợi dụng cơ hội này để xây dựng đồn luỹ theo lối Tây phương, làm tầu chiến theo mẫu những tầu Pháp mà ông mua được" (Montyon II, t. 34).

Điều Montyon xác nhận "vài sĩ quan Pháp theo giúp Nguyễn Vương" sẽ được chứng minh dần dần qua các tư liệu. Những ngòi bút thuộc địa thổi phồng con số lên thành vài trăm. 

6- Về kỹ nghệ đóng thuyền và thuyền chiến bọc đồng của Việt Nam

Về kỹ nghệ đóng thuyền ở Việt Nam, Montyon, trong phần trích dẫn dưới đây, so với những gì Barrow viết về việc này (đã trích dẫn trong chương 4) cho thấy hai người có những điểm đồng quy, nhưng Montyon có thêm những thông tin khác:
"Về việc đóng thuyền, nước này [nước Nam] có một kỹ thuật đặc biệt: những tấm ván làm thuyền được buộc chặt với nhau bằng dây mây, thay đinh, lối ráp này khiến thuyền uyển chuyển hơn, đặc biệt chống lại sóng biển.

Những thuyền lớn, ngoài tay lái thường, còn một tay lái phòng hờ có hình thể đặc biệt. Tay lái thường, ngắn, được gắn gần như thẳng góc; tay lái khác thường dài hơn, được gắn gần như nằm ngang: khi gió to, người ta dùng tay lái khác thường, khiến tàu đi nhanh hơn. Khi biển động, dùng cả hai tay lái.

Tầu đi gần biển nhỏ hơn tầu của người Hoa, có hình dạng cổ xưa, thuỷ bàn (vành đỡ nước) còn khiếm khuyết nên tầu đi chậm.

Ít lâu nay, người Bắc Hà làm tầu đi bể theo lối Tầu, nghiã là phân chia hàng hoá ra từng ngăn riêng dành cho mỗi chủ, bằng ván gắn vào tầu và trét các kẽ hở cho kín để nước không thấm được; vì vậy, khi tầu nhận một cú sốc mạnh, không bị rối loạn ngay tức khắc, và khi tầu bị thủng một lỗ hổng nước chảy vào, cũng dễ biết lỗ ấy ở đâu.

Tầu chiến chia làm 2 loại: thuyền buồm nhiều tay chèo (galère) hoặc chiến hạm (vaisseau). Thuyền chiến buồm, dài từ 50 đến 80 pieds [16,20m đến 25,92m] làm bằng ván dài như chiều dài thuyền. Mỗi bên có một hàng người chèo, trang bị từ 15 đến 20 đại bác, từ 6 đến 12 đơn vị đạn.

Chiến hạm, lớn hơn, thân tầu vững hơn và kiến trúc tốt hơn tầu Trung Hoa. Từ vài năm nay, còn có biến chuyển thuận lợi: chấp nhận phương pháp Âu châu để làm tầu, nhưng phần cột buồm và cánh buồm chưa hoàn hảo, nhiều cột buồm còn làm bằng một thân cây độc nhất, không vững như khi được giữ bằng các ngăn trong tầu, lại không có đài (hune) trên cột buồm nên lái khó; trục buồm buộc vào cột buồm, chỉ ở hai đầu chứ không ở giữa, cánh buồm được bố trí khá nghệ thuật, để cắt gió, nhưng vì làm bằng lá hay những chất khác không bền như gai, nên không vững chống gió; khi bị thấm mưa, phải tưới nước bể lên, và dù bị thấm nước gì, nếu không khô ngay trong vòng 24 tiếng đồng hồ thì sẽ bị mục.

Việc bọc đồng và những kỹ thuật tân tiến khác cũng đã được biết đến, nhờ sự kiểm tra các tầu Tây phương, nhưng chưa thấy thực hiện." (Montyon I, t. 128-130).

Montyon và Barrow, dường như dùng hai tài liệu khác nhau, nhưng gặp nhau ở điểm: kỹ thuật đóng tầu của Việt Nam khác với kỹ thuật Tây phương.

Montyon đặc biệt chú ý đến tay lái khác thường của tầu chiến Việt Nam:
Những thuyền lớn, ngoài tay lái thường, còn một tay lái phòng hờ có hình thể đặc biệt. Tay lái thường, ngắn, được gắn gần như thẳng góc; tay lái khác thường dài hơn, được gắn gần như nằm ngang: khi gió to, người ta dùng tay lái khác thường, khiến tàu đi nhanh hơn. Khi biển động, dùng cả hai tay lái.

Sự "khác thường" này, chúng tôi lại thấy Trịnh Hoài Đức có viết. Trong đoạn nói về việc chặt cây, lấy gỗ, làm lạt, đóng tầu thuyền; ông ghi sự sáng tạo của Đỗ Thanh Nhơn, đặc biệt trong việc đóng tầu chiến, có câu:
"Tháng 7 năm Canh Tý (1780)... Thanh Nhơn mới sáng chế đóng thuyền chiến, làm bánh lái dài để đi đường biển yên ổn, nhưng vẫn để bánh lái tròn khi trước để dùng khi đi đường sông, gọi là thuyền hai bánh lái, phiá trên gác sàn chiến đấu, hai bên treo phên tre để che cho thuỷ binh ở dưới chuyên lo chèo chống, trên thì bố trí bộ binh để xung kích, nhờ vậy mà kỷ xảo của thuỷ sư càng tinh nhuệ, đến nay [khoảng 1820] cũng vẫn theo" (Trịnh Hoài Đức, Vật sản chí, Gia Định Thành Thông Chí).

Theo Montyon, khi ông viết những dòng này (vào khoảng sau 1800) thì Nguyễn Vương đã biết các kỹ thuật mới như tầu bọc đồng, nhưng chưa áp dụng. Nhưng có lẽ ông lầm, Nguyễn Vương có tầu bọc đồng từ rất sớm, bằng cách nào thì ta sẽ phải điều tra thêm. Chỉ biết:
"Ngày 9/4/1785 (ngày 1/3Ất Tỵ), Nguyễn Ánh sang Xiêm với 30 quần thần, 200 quân và 5 chiến thuyền: Phượng Phi, Bằng Phi, Hùng Trì, Chính Nghi, Thuyền Ô" (TL, I, t. 223).

Điều này chứng tỏ Nguyễn Ánh đã mua hoặc đã đóng được thuyền bọc đồng (vì Phượng Phi và Bằng Phi là tầu bọc đồng) từ năm 1785. Tầu Phượng Phi năm 1790 giao cho Trần Văn Học và Nguyễn Văn Chấn (Vannier) cai quản (Liệt truyện II, t. 282). Tháng 3/1801, Long phi, Phượng phi và Bằng phi giao cho Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau), Nguyễn Văn Chấn (Vannier), và Lê Văn Lăng (de Forcanz) điều khiển (TL, I, t. 432).

Liệt truyện về Võ Di Nguy, ghi: "Năm Mậu Thân [1788], mùa thu, lấy lại được thành Gia Định, vua gọi Di Nguy về, sai coi thuyền Nội thủy, Trung thủy, bổ làm Khâm sai thuộc nội cai cơ, đốc làm thuyền Đại Chiến, thuyền Hải Đạo."

Và: "Năm Ất Mão [1795] quân giặc vào Đà Diễn, Di Nguy đem thuyền quân tiến sát đến đảo Sầm, hợp với Trương Phúc Luật đánh giữ, giặc phải lui. Di Nguy cùng ngay với Phạm Văn Nhân đem Tả quân đi thuyền lớn bọc đồng chạy đến thành Diên Khánh." (LT, tập 2, t. 121).

Như vậy, ngay từ năm 1785, Nguyễn Ánh đã có thuyền chiến bọc đồng, năm 1788, sai Võ Di Nguy đốc làm thuyền Đại Chiến, thuyền Hải Đạo.

Vậy, Montyon cũng như Le Labousse đều chép lầm khi tưởng rằng đến năm 1800, Nguyễn Ánh mới đóng được tầu bọc đồng, như trong thư ngày 24/4/1800 của Le Labousse được nhiều người trích dẫn.

Thêm một chứng nữa, là trong Hịch của Quang Trung tháng 8/1792 (sẽ đăng trong một kỳ tới) cũng nói đến tầu bọc đồng, vậy có thể xác định chắc chắn là Nguyễn Vương đã có tầu chiến bọc đồng từ trước 1792, có thể vào năm 1788, khi sai Võ Di Nguy đóng thuyền Đại chiến và thuyền Hải đạo.

Theo bản thống kê của Hội điển về các tầu thuyền ở Huế, không ghi rõ năm, nhưng ta hiểu đó là đầu đời Gia Long, vì thời Minh Mạng đã làm được nhiều tầu chạy bằng hơi nước hay máy:
"Ở Kinh sư có 265 chiếc. (Các hạng thuyền bọc đồng 29 chiếc, thuyền vận chuyển đường biển 10 chiếc, thuyền vận chuyển đường sông 3 chiếc, thuyền vượt biển lớn 25 chiếc, thuyền vượt biển vừa 15 chiếc, thuyền vượt biển nhỏ 10 chiếc, thuyền tầu Ô 9 chiếc, thuyền sơn đỏ 6 chiếc, thuyền sơn đen 14 chiếc, thuyền đầu nhỏ 2 chiếc, thuyền con 19 chiếc, thuyền xuồng 11 chiếc, thuyền xuồng kiểu mới 6 chiếc. Các hạng thuyền con 34 chiếc, thuyền lồng 2 chiếc, thuyền nhẹ 11 chiếc). (Hội Điển, Bản nxb Thuận Hoá, 1993, Tập 13, quyển 205, t. 16-17).

Sau chiến tranh, mà Huế còn 29 tầu bọc đồng, vậy trong thời chiến, Nguyễn Vương có bao nhiêu tầu bọc đồng? Hẳn không chỉ có ba tầu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, do Chaigneau, Vannier và de Forcanz điều khiển, được các sử gia thuộc địa hết sức đề cao, coi như chỉ có "người Tây" mới điều khiển được "tầu Tây bọc đồng". 

7- Gia Long trực tiếp điều khiển việc đóng tầu

Như trong chương 6, Chân dung vua Gia Long, tất cả các tác giả đều nói Nguyễn Ánh trực tiếp điều khiển mọi việc, ở đây, Montyon lại xác định thêm một lần nữa:
"Ông [Gia Long] là người giỏi nhất về chiến thuật, là kỹ sư giỏi nhất, là người kiến trúc tầu giỏi nhất, ở xứ ông". Và ông chú thích: "Để thu thập kiến thức đóng tầu, ông không làm như César Pierre đệ nhất, là cầm búa, cũng không trở thành thợ mộc, mà ông mua một chiến hạm kiến trúc Tây phương, rồi tháo ra từng mảnh và lắp lại, để biết rõ đối tượng: về tính chất kiên cố, về chủ lực của nó và về sự chắp nối tất cả những thành phần khác nhau." (Montyon II, t. 52).

Việc Gia Long mua tầu chiến của Tây phương làm mẫu, Barrow có ghi lại và Le Labousse cũng viết trong thư ngày 28/4/1800. Theo Hội điển, phương pháp làm tầu thời Minh Mạng đã tiến dần đến "kỹ nghệ hoá": chế mẫu sẵn từng mảnh của mỗi loại thuyền, tầu, thợ cứ theo thế mà ráp, lắp.

Trở lại việc lấy một tầu Tây phương làm mẫu, việc này đã có từ thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), chúa đã lấy những tầu Tây phương bị bão dạt vào bờ làm mẫu, để hiện đại hoá tầu thuyền của mình. Vì thế, chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687), khi còn là Thế tử Dũng Lễ Hầu đã thắng hạm đội của Hoà Lan ở Cửa Eo (cửa Thuận An) năm 1644.

Người đọc hôm nay sẽ hỏi: làm sao có thể đóng tầu bằng cách tháo ra ghép lại như Nguyễn Ánh làm? Nhưng ở cuối thế kỷ XVIII, sự tiến bộ về khoa học của Tây phương chưa thực xa, tầu Tây và tầu Ta, chưa khác nhau nhiều. Trong phim The Bounty của Roger Donaldson (I984) với Mel Gibson và A. Hopkins, đạo diễn đã thiết kế rất rõ chiếc tầu chiến buồm của quân đội hoàng gia Anh năm 1787, và mô tả cuộc sống, trình độ lính thủy và các sĩ quan. Chúng ta có thể xem phim này để hiểu điều kiện sống tên tầu, tại sao lính thuỷ đào ngũ, khi tới châu Úc, châu Á, những vùng đất hứa; và lại có người bỏ tầu đi đánh thuê cho Nguyễn Ánh hoặc đi buôn, tìm của, tìm vàng... Chuyện những thủy thủ nổi loạn trên tầu The Bounty, cho chúng ta những bức hình nổi của các chuyến tầu Tây phương sang Á Châu thời ấy.

Barrow và Montyon đều cho biết Gia Long không làm tầu giống hệt Tây phương, mà chỉ lấy những cái hay của tầu Tây và giữ lại cái hay của tầu Việt.

Thụy Khuê
(Còn tiếp)

Kỳ tới: Tổ chức quân đội Nguyễn Ánh