Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2015
Thụy Khuê - Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long (Chương 6)
Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 - (Phần 1) - tt
Chân dung vua Gia Long
Để có một bức chân dung đáng tin cậy về vị vua sáng lập lại nhà Nguyễn,
chúng ta cần nhiều ống kính khác nhau, từ những nguồn khác nhau, những điểm đồng
quy của các nguồn tư liệu này, sẽ cho ta bức chân dung đích thực của vua Gia
Long.
Liệt Truyện phác họa một chân dung đậm nét về "ngụy" Quang
Trung, kẻ thù không đội trời chung của Gia Long: "Tiếng nói như tiếng
chuông lớn, mắt sáng nhoang nhoáng như chớp, giảo hoạt khôn ngoan, hay đánh
nhau, người đều sợ cả (...) Ra trận tất thân đi trước tướng sĩ, hiệu lệnh
nghiêm ngặt, rõ ràng, bộ khúc đều có lòng mến phục cả." (LT, 2, t.
534-535)
Về Gia Long, Thực Lục đưa ra đoạn văn mô tả sự trung thành tuyệt đối của
Nguyễn Ánh đối với Định Vương: luôn luôn kề cận, kiên trì bảo vệ vị chúa cuối
cùng (TL, I, t. 204); nhưng chúng tôi tin rằng, những điều này cũng vẫn nằm
trong chính sách tuyên truyền, có thể do chính vị đại thần trong tứ trụ triều đình
là Thái bảo Tống Phúc Khuông đưa ra, cho thấy Nguyễn Ánh phò Định Vương tới
phút chót, đến Long Xuyên (TL, I, t. 205), để chứng tỏ Nguyễn Ánh vừa có đạo
đức trung quân, vừa có chân mạng đế vương (cá sấu cản thuyền) xứng đáng trở
thành người lãnh đạo chính thức của nhà Nguyễn.
Còn về chân dung đích thực của vua Gia Long, Thực Lục chỉ viết gọn một
câu: "Vua chăm làm mọi việc, suốt ngày không lúc nào rỗi. Sai Thị thư
viện sung chức khởi cư chú (chức quan ghi chép những lời nói việc làm của vua),
phàm vua làm công việc gì đều chép hết" (TL, I, t. 257). Câu này sẽ
được những nhân chứng khác nhau chứng nhận là đúng.
Nguyễn Ánh, Gioang và trận Long Hồ, theo Sử Ký Đại Nam Việt
Chứng nhân đầu tiên mà chúng tôi tìm được, nói về tuổi trẻ của Nguyễn
Ánh, là tác giả Sử Ký Đại Nam Việt, cũng là người đã cho ta biết việc đứa
tiểu đồng và linh mục Hồ Văn Nghị cứu Nguyễn Ánh thoát chết khỏi bàn tay Nguyễn
Huệ (xem chương 5).
Ở đây, Sử Ký Đại Nam Việt kể một câu chuyện, nêu rõ tính tình thiếu
niên Nguyễn Ánh, trong chiến thắng đầu tiên đối với Tây Sơn, đó là trận Long Hồ.
Xin nhắc lại: trong hai tháng 9-10/1777, Nguyễn Huệ truy lùng Tân Chính
Vương và Định Vương, với ý muốn tiêu diệt nhà Nguyễn. Theo Thực Lục, lúc đó Nguyễn
Ánh đang phò Định Vương. Còn Sử Ký Đại Nam Việt cho rằng Nguyễn Ánh theo Tân
Chính Vương.
Thuyết thứ nhất, như trên đã nói, có lẽ được tung ra với mục đích tuyên
truyền. Vì vậy các sử gia triều Nguyễn, khi viết về giai đoạn này khá lúng
túng, sự việc trình bày không rõ ràng (TL, I, t. 204-205).
Thuyết thứ nhì của Sử Ký Đại Nam Việt, có vẻ phù hợp với thực tế hơn: Lúc
đó Tân Chính Vương là người có khả năng chiến đấu, Nguyễn Ánh còn rất trẻ, nhưng
đã có tài đảm lược, đi theo Tân Chính Vương để chống "giặc", thì có
lý hơn là phò Định Vương, vì ông này chẳng thạo việc quân binh.
Vì đi theo Tân Chính Vương, nên Nguyễn Ánh đã trốn thoát trước ngày 19/9/1777,
khi Tân Chính Vương bị hại. Còn Định Vương thì bị bắt và bị hại một tháng sau,
tức là ngày 18/10/1777.
Vẫn theo chính sử thì chỉ một tháng sau nữa, tức là tháng 11/1777, Nguyễn
Ánh đã xuất hiện ở Long Xuyên, và cũng trong tháng này, quân Nguyễn đánh được
Long Hồ.
Về trận Long Hồ, Thực Lục chỉ ghi vắn tắt một dòng: "Tháng 11 [ÂL,
tháng 12/1777] đánh úp Điều khiển giặc là Hoà ở dinh Long Hồ, (tức tỉnh Vĩnh
Long ngày nay) cả phá được." (TL, I, t. 205). Không nói ai đánh úp.
Sử Ký Đại Nam Việt viết rõ và khác. Sau khi kể chuyện Hồ Văn Nghị giấu
và nuôi Nguyễn Ánh trong hai tháng, tác giả viết tiếp:
"Cũng một khi ấy Đức Thầy Vêrô [Bá
Đa Lộc] ở Cao Mên mà về, tìm được ông Nguyễn Ánh; người lại đem theo một ông
Langsa, tên là Gioang [Jean], có nghề võ cũng bạo dạn gan [can] đảm
và có tài đánh giặc lắm" (SKĐNV, t. 13).
Theo Sử Ký Đại Nam Việt, thì Bá Đa Lộc tìm gặp Nguyễn Ánh, khi ở Cao Mên
về, và có đem theo Jean về giúp Nguyễn Ánh, vậy chỉ có thể vào khoảng tháng
11/1777. Trong khi Liệt Truyện ghi như sau: "Năm Canh tý (1780), Thế tổ
Cao hoàng đế lên ngôi vương ở Gia Định, Đa Lộc đến yết kiến xin cố sức giúp
việc, vua nhận lời " (LT, 2, t.505).
Sử Ký Đại Nam Việt viết tiếp:
"Khi ông Nguyễn Ánh đã tu binh đặng ít nhiều, thì ông Gioang đã
giúp người nhiều việc.
Vậy trước hết, khi thấy quan Nhất Trịnh [Điều
khiển Hoà?] đã lấy đặng đồn kia, thì ông Gioang cứ phép tây mà làm nhiều
trái phá, đoạn xuống thuyền lớn. Bấy giờ Nhất Trịnh chưa ngờ điều gì, thì
vào Long Hồ, là nơi quân Tây Sơn đóng nhiều tầu lắm. Vậy ông Nguyễn
Ánh làm tướng cai quân, và ban đêm, thình lình, thì xông vào đánh quân Tây Sơn.
Khi ấy ông Gioang chỉ đốt và bắn trái phá, nên quân Tây Sơn bất thình
lình nghe tiếng trái phá, và thấy nhiều người chết, thì sợ hãi lắm, vì chưa
từng biết sự làm vậy, cùng chưa thấy trái phá bao giờ; nên bỏ tầu mà nhẩy xuống
sông. Những kẻ phải chết chém hay là bị trái phá thì chẳng bao nhiêu; song kẻ
chết đuối vì sợ mà vội nhẩy xuống sông đè lộn nhau, thì không biết là ngần nào.
Trong trận nầy, ông Nguyễn Ánh đã làm tướng rất khôn ngoan và gan đảm lắm,
vì cũng đánh như lính; dầu xung quanh người chết gần hết, song ông ấy chẳng
phải nao. Khi đã tàn trận, mà thấy ông ấy những máu dầm dề cả mình, mà chẳng bị
vết tích gì, thì ai ai đều kể là phép lạ. Những tầu quân Tây Sơn ở trong Long
Hồ thì ông Nguyễn Ánh lấy được hết. " (t. 12-14).
Như vậy, theo Sử Ký Đại Nam Việt, thì chiến thắng đầu tiên của Nguyễn
Ánh nhờ vào Jean, ngưòi Pháp, kẻ biết làm trái phá. Trái phá ở đây có thể chỉ là
thứ mà sau này người ta gọi là cocktail Molotov, chứ chưa chắc đã là lựu đạn.
Bởi lựu đạn thì phải mua, không thể làm lấy được.
Công của Jean không được ghi trong chính sử, trái với Manuel (Mạn Hoè)
và cũng không được các nhà nghiên cứu Pháp tìm kiếm hoặc nhắc tới.
Duy có một người, H. Cosserat, đại lý thương mại, trong bài Notes
bioghaphiques sur les français au service de Gia Long, BAVH, 1917, III
(165- 206), đã viết những dòng sau đây:
"Joang (Jean) (?-?) Có lẽ ở Nam Hà vào khoảng 1782. Trong tất cả
những tư liệu mà tôi khảo duyệt, tôi chỉ tìm thấy một chỗ nói đến ông trong tác
phẩm "L'Annam et le Cambodge" của giáo sĩ C.E, Houillevaux.
Trong chú thích số (1), tác giả kể rằng có hai kẻ phiêu lưu người Pháp
có vẻ đã đắc lực giúp Nguyễn Ánh (Gia Long) trong những bước đầu tiến quân: một
người được các nhà biên niên sử hay nhà báo (chroniqueurs) gọi là Joang (Jean),
người kia là Mannoe (Manuel), thủy thủ ở miền Bretagne, đầu tiên làm việc cho
giám mục Adran... Joang dường như đã dùng lựu đạn để đánh Tây Sơn, và có lẽ nhờ
khí giới này mà chúa Nguyễn (Gia Long) lần đầu tiên đã chiếm lại được miền nam đất
Nam Hà. Trước hết, ngụy quân chẳng biết cái thứ quỷ quái này là gì, vội vã trốn
biệt. Việc này có thể đã xẩy ra năm 1782 (?). Cuốn Gia Định Thông chí của G. Aubaret,
im lặng không nói gì đến tên Joang này. Cũng giống như Manuel, hy vọng rằng văn
khố An Nam ngày nào đó sẽ mang lại chút ánh sáng về vấn đề này" (Cosserat, BAVH, 1917, III, t.169).
Cosserat là nhà nghiên cứu thực lòng, ông đã soạn loạt bài tiểu sử những
người Pháp giúp Gia Long, tuy sơ lược nhưng ngay thẳng, chỉ ghi lại những điều
khả tín. Ông cũng là người duy nhất nhắc đến tên Joang. Cosserat không
đọc được Thực Lục và Liệt truyện, nên không biết là hai sách này có nói đến Mạn
Hoè. Còn cuốn Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức thì khi Aubaret dịch
sang tiếng Pháp đã "quên" không đề tên tác giả, và khi người Pháp
trích dẫn sách này, kể cả Maybon, cũng đề là của Aubaret!
Chúng ta không thể biết tại sao chính sử chỉ nhắc đến Mạn Hoè mà không
nhắc đến Gioang. Có thể Gioang ở vào thời kỳ huyền thoại "cá sấu" cho
nên không ai dám hỏi kỹ Nguyễn Ánh, hay chính Nguyễn Ánh cũng không muốn kể gì
về giai đoạn này. Mặc nhiên Gioang đã có mặt qua hai văn bản khác nhau, một Pháp,
một Việt, cả hai đều nói đến "lựu đạn", "trái phá", thì
chúng ta phải tin là thực. Nhất là phải công nhận sự đóng góp của Gioang trong
chiến công đầu của Nguyễn Ánh. Nhờ chiến công này, Nguyễn Ánh mới có nhiều
thuyền tầu cướp được của Tây Sơn mà tiếp tục hành trình với Đỗ Thanh Nhơn và
quân Đông Sơn.
Tác giả Sử Ký Đại Nam Việt, ở đây, còn cho ta những nét sơ khởi về
Nguyễn Ánh: "Gioang chỉ đốt và bắn trái phá" còn "Nguyễn
Ánh làm tướng cai quân, và ban đêm, thình lình, thì xông vào đánh quân Tây
Sơn", "cũng đánh như lính", "những máu dầm dề cả
mình"...
Một thiếu niên 15 tuổi như thế, quả là can đảm và xứng đáng làm đại
nguyên soái ở tuổi 16. Nhưng Sử Ký Đại Nam Việt không dừng lại ở hình ảnh người
thiếu niên 15 tuổi, mà còn mô tả hình ảnh một vị vua trưởng thành, khá riêng
tư, không có trong chính sử.
Chân dung vua Gia Long, theo Sử Ký Đại Nam Việt
Dưới đề tựa "Vua tốt trí khôn và gan đảm" tác
giả SKĐNV viết về Gia Long:
"Các quan thấy vua mau mắn dọn dẹp mọi sự, lại mau hiểu các việc
thể ấy, thì lấy làm lạ lắm. Vì chưng đều [điều]
gì vua chưa thấy cùng chưa biết mặc lòng, song như các quan nói một lần, thì
hiểu tức thì cùng bắt chước đặng. Cho nên ai ai cũng khen vua là người tốt trí
và khôn ngoan lắm. Vả lại, vua chẳng nghỉ yên bao giờ: khi thì đốc suất các
thợ, khi thì đi biên các kho, hoặc coi tập binh hay là đắp lũy. Người cũng
khéo bầy đặt nhiều đều khôn ngoan, lại thượng trí sáng dạ cùng chăm học hành;
nên dầu người phải khốn khó từ thủa bé, những chạy đàng nọ nẻo kia, chẳng mấy
khi được ngồi một nơi cho yên, chẳng kịp học hành là bao nhiêu, song cũng
hay chữ nho lắm.
Khi nào thấy sự gì lạ, liền chăm học cho hiểu. Vốn vua chẳng biết chữ
bên Tây, nên phải cậy các quan cắt nghiã mọi đều. Nhứt là các tờ đã vẽ
hình tượng các khí giái [giới] và những cách đắp
lũy xây thành, đóng tầu hay là các đều khác thể ấy,
thì vua chỉ xem những sự ấy lắm. Vả lại nhiều sách và địa đồ đã mua bên Tây,
thì người chăm học mà hiểu hầu hết.
Vua cũng là người gan đảm lắm, khéo bầy mưu kế mà bắt quân giặc. Người
chẳng những là sai các quan đi đánh giặc, mà lại người đi cầm quân mà đánh nữa.
Cho nên ai ai cũng nói rằng: "Ví bằng các quan có gan đảm và hay mưu kế
như vua, thì âu là "quân giặc chẳng đặng trận nào".
Một ít đều trách nhà vua: Song cũng có kẻ chê vua rằng: chẳng được
vững lòng, vì khi nào đặng thạnh sự thì vui mừng quá; bằng khi phải khốn khó ít
nhiều, hay là khi bị trận, thì ra như ngã lòng và sợ hãi quá. Vậy khi nào đã
được trận thì vui mừng quá lẽ, chẳng biết thừa dịp thắng trận mà theo bắt quân
giặc và ép nó chịu phép cho xong. Có kẻ lại trách rằng: chẳng hay cầm giữ quân
mình cho đủ, nên bắt người ta nặng việc quan quá" (SKĐNV, t. 57-58).
Đoạn văn trên toát ra giọng kể chân chất của một người thành thực không
xu nịnh; chỉ cần ít dòng vắn tắt mà cho ta những thông tin đầy đủ và đáng tin
cậy về vua Gia Long:
Như : chẳng kịp học hành là bao nhiêu, song cũng hay chữ nho lắm. Nhất
là đoạn này:
"Vốn vua chẳng biết chữ bên
Tây, nên phải cậy các quan cắt nghiã mọi đều. Nhứt là các tờ đã vẽ hình tượng
các khí giái [giới] và những cách đắp lũy xây
thành, đóng tầu hay là các đều khác thể ấy, thì vua chỉ xem những sự ấy lắm. Vả
lại nhiều sách và địa đồ đã mua bên Tây, thì người chăm học mà hiểu hầu
hết" là một chứng từ xác định việc vua tự học để đắp lũy xây
thành và đóng tầu như thế nào. Ở đây, không có dấu vết của việc Bá
Đa Lộc dịch sách tiếng Tây cho vua (vì nếu có, thì con người chân chất này, rất
tôn sùng Bá Đa Lộc, đã kể lại rồi) mà chỉ nói là vua không biết tiếng Pháp nên cậy
các quan cắt nghiã mọi đều. Trong số "các quan" ở đây,
chắc chắn là có Trần Văn Học, chuyên gia xây dựng và linh mục Hồ Văn Nghị, đều
là những người biết tiếng Pháp.
Những điều ghi trong Sử Ký Đại Nam Việt trên đây lại đồng quy với một
nguồn thông tin khác, một chân dung khác, do linh mục Le Labousse viết về Gia
Long dưới đây.
Chân dung vua Gia Long, theo linh mục Le Labousse
Pierre-Marie Le Labousse, sinh ngày 22/1/1759 ở Pluneret (Morbihan, Pháp),
đi truyền giáo ngày 20/9/1787, có thể đã mất ở Chợ Mới, tỉnh Khánh Hoà, ngày
25/4/1801 (Launay III, t. 214). Ông là một trong những người phụ tá, thân cận nhất
của giám mục Bá Đa Lộc, chính ông đã đưa thi thể vị giám mục từ Quy Nhơn về Gia
Định và chính ông đã ghi lại lá chúc thư của vị giám mục. Ngoài sự tôn sùng đức
giám mục bề trên của ông, như tất cả những người dưới quyền khi viết về "đức
thánh cha", ông cũng là người gần cận vua Gia Long và đưa ra nhiều thông
tin đáng tin cậy, trong giai đoạn ông phục vụ hội truyền giáo ở Việt Nam.
Trong những thư từ ông viết được lưu trữ lại, có lá thư ngày 14/4/1800,
không thấy đề tên người nhận, nội dung ghi lại chân dung vua Gia Long, như sau:
..." Ông hoàng này có lẽ là người sắc sảo nhất và sôi động nhất
trong triều, nhưng... lời can gián của Đức Giám Mục Bá Đa Lộc cũng làm giảm bớt
bầu máu nóng này. Ông không còn là ông vua chỉ cai trị bằng roi, kiếm và nói
chuyện chết chóc nữa. Bây giờ là một vị đế vương, biết mình là cha của thần
dân, chứ không phải là nhà độc tài...
Ông cứng rắn nhưng không tàn ác; ông nghiêm trị nhưng theo đúng nguyên
tắc pháp luật.
Ông có đủ tất cả các đức tính của lương tâm lẫn trí tuệ. Ông có lòng tri
ân, hào hiệp, tinh tế về điểm danh dự; anh hùng trong nghịch cảnh, chịu đựng
thất bại với lòng can đảm xứng đáng với vị hiền nhân [chỉ Bá Đa Lộc] đã rèn luyện ông.
Thời trẻ, ông có say mê rượu chè, nhưng từ khi ông thấy mình phải cầm
đầu sự nghiệp, ông đã hoàn toàn sửa mình không nhấp một hớp rượu... Cũng như
ông đã ra những huấn lệnh rất nghiêm khắc cấm say rượu và ông quyết đoán như
vậy...
... Những đức trí tuệ không làm giảm đức của lòng thương yêu. Linh lợi,
sâu sắc, thẳng thắn, nhìn thoáng qua là nắm bắt được trọng tâm của những sự
thể phức tạp nhất. Có trí nhớ hơn người khiến ông ghi nhớ tất cả, cũng như dễ
dàng thiên bẩm bắt chước được tất cả.
Những công binh xưởng, và những bến tầu chiến của ông làm cho người
ngoại quốc thán phục và con mắt cả châu Âu sẽ khen ngợi nếu châu Âu đến đây
chứng kiến.
Một bên, người ta thấy súng ống, đại bác đủ kiểu, pièces de campagnie
(?), giá súng đại bác (affuts), đạn đại bác, vv... mà phần lớn chỉ thua kiểu
mẫu đẹp nhất.
Một bên là thuyền tầu không đếm xuể, những chiến hạm lớn lao, đủ loại hình
thái, kiên cố đến độ làm cho ta kính nể.
Tất cả đều là sản phẩm của ông hoàng này, vừa hoạt động vừa khéo léo,
luôn có các sĩ quan Pháp giúp, bởi vì kỹ thuật và nghề nghiệp ở đây còn kém
tinh xảo rất xa Âu châu...
... Ông có kiến thức về tất cả và có năng khiếu làm tất cả...
Ông cực kỳ siêng năng. Ban đêm ông ngủ ít, đọc nhiều. Ông có tính hiếu
kỳ và thích học hỏi. Trong cung của ông có nhiều sách về kiến trúc, thành
đài. Ông thường giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi
cần đọc những giải thích bằng chữ Pháp vì ông không đọc được. Mỗi ngày, ông
có một bước tiến mới. Ông là vị vua lớn nhất tới nay chưa bao giờ có ở nước
Nam. Đức Giám Mục Bá Đa Lộc và ông hoàng này là hai người xuất chúng, mà sử
sách của triều đình sẽ lưu danh thiên cổ..." (Arch. Miss. Étrang.
vol.746, p. 869. Recueil de l'Evêché de Saigon, t. 131-135, in lại trong Taboulet
I, t. 268)
Bức chân dung Gia long của
Le Labousse có những điểm đồng quy với Sử Ký Đại Nam Việt về tính tình vua Gia
Long: sự sáng dạ, dễ bắt chước, ham học mà chúng tôi đã in đậm ở trên. Ngoài
ra, về những tài liệu học hỏi, vị linh mục này cũng ghi gần giống như SKĐNV: "Trong
cung của ông có nhiều sách về kiến trúc, thành đài. Ông thường giở từng trang
để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi cần đọc những giải thích bằng
chữ Pháp vì ông không đọc được". Như vậy, Le Labousse và tác giả SKĐNV,
đều không nói gì đến việc Bá Đa Lộc dịch sách chiến lược và xây dựng thành đài
cho Nguyễn Ánh bởi nếu có thì nhà vua đã không phải giở từng trang để xem
những đồ thị và cố gắng bắt chước và chắc chắn Le Labousse là người đầu tiên
phải biết và ông đã viết ra rồi.
Về sự mô tả các công binh xưởng
của Nguyễn Vương, Le Labousse cho một cái nhìn tổng quát và sơ sài, nếu muốn biết
rõ hơn, chúng ta có thể đọc Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức. Nói
chung không khí phồn vinh và hiện đại của thành Gia Định lúc bấy giờ với nhiều
thuyền bè ngoại quốc ra vào đều được những người ngoại quốc ghi lại, sau đây là
cái nhìn của Shihõken Seishi, người Nhật.
Nguyễn Vương và thành
Gia Định, dưới mắt Shihõken Seishi
Trong sự tìm kiếm các bài viết
về Gia Long thời ấy, chúng tôi may mắn thấy một tác giả nữa, cũng đáng tin cậy,
đó là Shihõken Seishi, người Nhật. Ông đã đến Gia Định trong khoảng 1794-1795,
tức là sau khi Barrow đến Đà Nẵng vài năm. Tầu của ông bị bão, đắm, thuỷ thủ phiêu
bạt đến Gia Định, được vua Gia Long, lúc đó còn là Nguyễn Vương giúp, cho phương
tiện trở về Nhật. Cuốn tiểu thuyết của ông nói về chuyến đi này nhưng có một đoạn
tả phong cảnh xung quanh Sài Gòn, tả thành Gia Định, và buổi ra mắt Nguyễn Vương
ở kinh thành.
Tác phẩm Nampyõki
[Đắm tầu ở Nam Hải] của Shihõken Seishi, do bà Muramatsu Gaspardone dịch sang
tiếng Pháp, giới thiệu và chú giải, in trong Bulletin de l'Ecole Française
d'Extrême-Orient (BEFEO), 1933, t. 35-120.
Shihõken Seishi đi tầu Hinoshita,
bị đắm trong tháng 9/1794, phiêu bạt đến tháng giêng năm 1796 mới trở về Nhật. Cuốn
sách xuất hiện lần đầu ngày 16/2-16/3/1798 tại Kyoto, do nhà Zeniya Chõbẽ in.
Sau bị cấm, vì thời điểm đó, Nhật vẫn còn bế quan tỏa cảng, cấm dân Nhật ra ngoại
quốc, mà cuốn sách tả chuyện viễn du.
Chúng tôi dịch hai trích đoạn
liên quan đến thành Gia Định và Nguyễn Vương. Theo lời tác giả, ta có thể đoán sự
việc xẩy ra vào khoảng sau tháng 9-10/1794, lúc hoàng tử Cảnh không còn trấn Diên
Khánh mà đã về Gia Định và Nguyễn Vương cũng rút quân về Gia Định để Võ Tánh trấn
thủ Diên Khánh. Đến tháng 11-12/1794, Trần Quang Diệu lại tấn công Diên Khánh, và
tháng 3-5/1975 Nguyễn Vương hành quân cứu Diên Khánh. Vậy thời điểm kể trong tiểu
thuyết này là từ khoảng tháng 10/1794 đến tháng 3/ 1795.
Phong cảnh xung
quanh Sài Gòn
"Có núi cao đến
tận chân mây, nhiều cây và một con sông nước trong. Biển bao bọc ba phiá. Những
tầu buôn Hoà Lan, Quảng Đông, Macao, và những nơi khác, đỗ đầy trong cảng sông.
Đó là nơi buôn bán sầm uất. Nhờ những làng chài lưới ven biển, thợ săn trên
núi nên chợ búa đầy cá và muông thú, đầy dẫy cá đồng; trong số cá biển, loại
akaei nhiều nhất. Quanh năm đủ thứ rau rợ, lại còn hoa quả lớn nhỏ, thêm vào
thức ăn. Có thứ tre, khoảng cách giữa hai đốt dài lạ lùng. Có cả vàng, bạc.
Đồng thì đến từ Quảng Đông. Một năm ba mùa gặt luá, đậu và đậu ván cũng thế.
Người nghèo không biết đói là gì. Con người tử tế và nhân từ. Vua trị vì với
lòng tốt và dân chúng không khổ. Nhưng nước này ở cuối Nam Hải, nơi có nhiều
đảo quốc, lúc nào cũng phải đề phòng xâm lược. Không ngừng vận dụng khí giới. Tháng
thứ tư năm Cảnh Hưng thứ 54 [thực ra là năm Cảnh Hưng thứ 34, 1773, Tây Sơn nổi
lên], xứ Tây Sơn nổi lên chống kinh đô [Gia Định], vua đã gửi quân
chinh phạt, nhưng chưa biết thắng bại thế nào. Người ta náo động sửa soạn chiến
thuyền, phần đông đã khởi hành rồi..." (BEFEO,
1933, t. 57-58).
Kinh thành Gia Định và vua Gia Long, khoảng 1794- 1795
"... Chẳng bao lâu đã đến cửa chính của hoàng cung, chúng tôi xuống
kiệu đi bộ, tới vòng thành thứ nhì, có hai lớp toà thành kiên cố cho đám cận
thần ở. Trên mỗi cửa, có một loại bảng hiệu hình bán nguyệt (cái đó gọi là
dahaimot. Người ta dùng để chỉ định ngôi thứ của mỗi nhà). Từ cửa chính, chúng
tôi đã đi và ghẹo khoảng gần 3 chõ [330m]
trong khi đất cao lên độ 1 chõ [109m10]. Ở cửa vào vòng thành thứ nhì,
có một đài thám thính cao 40 ken [72m80] Một viên quan võ thường lên
quan sát về phiá biển, đó là bộ phận phòng vệ. Các quan thay phiên nhau trực
mỗi người nửa ngày. Phía tay phải có ba cái nhà vuông. Đó là phòng bào chế y
dược, trong có nhiều người đang cắt, giã thuốc nam. Cái cối thì cũng y như cối
của ta [Nhật]. Xa hơn chút nữa có cửa hàng bán thuốc và sân rộng để phơi
thuốc. Tất cả các loại dược phòng đều được cắt miếng to tròn hoặc chữ nhật.
Đi khỏi nơi này, chúng tôi thấy cung điện chính hiện ra ở đằng xa. Nền
lát đá đẽo và trần rất cao. Có hai hàng ghế, nằm dọc theo chiều dài gần một chõ
[109 m10]. Trần và tường sơn đỏ, có chỗ nạm vàng
hoặc bạc. Kỳ quan nầy đập vào mắt chúng tôi. Các ghế ngồi đều tay bành và tạc
tượng với những hình khắc mầu, cũng khảm vàng, bạc. Người ta bảo đây là ghế của
các quan trấn thủ ở các miền. Ở miền Nam, từ quan lớn đến dân đen, tất cả mọi
người đều ngồi ghế nói chuyện, hoặc ăn cơm. Theo đúng nghi lễ, người ta đứng,
hoặc đi đi lại lại từ người này đến người khác, chào thì nghiêng mình ba lần,
không cúi rạp thõng tay [như người Nhật]. Hành lang này dài độ 50 ken [91m].
Đất lại cao lên nữa. Ba ken [5m46] trước cửa cung, có 14 ông quan.
Một lúc sau, thấy vua hiện ra
trên ghế bành đỏ toàn bộ khảm vàng bạc và giát ngọc ở giữa chính điện. Hai
hoàng tử ngồi hai bên [một người là Đông cung Cảnh,
người kia chắc là Hy]. Vua trạc 40 tuổi (...), mặc áo gấm đen thêu rua với
quần gấm đen và mang đai lưng. Một người hầu cận cầm kiếm của vua đứng sau
lưng. Hoàng Thượng đội khăn lụa quấn năm vòng, đầu chỉ để hở búi tóc cài lược
vàng. Hai hoàng tử cũng mặc áo đen và cài lược vàng. Các quan ngồi gần vua, đều
mặc áo lụa xanh, vàng, đỏ hay trắng, mang lược đồi mồi, sừng trâu hay tê giác.
Y phục long trọng, không ai mặc đồ đen, trừ vua và hoàng tử. Thái tử độ trạc
hai mươi tuổi, rất đẹp và sang trọng không ai sánh nổi. Trong tất cả các nước
mà tôi ghé qua trên đường trở về [Nhật], chúng tôi chưa thấy ai đẹp như
ông. Sau cùng, người thông ngôn -xứ này người ta học thuyết Khổng Tử, nhưng lại
không hiểu tiếng Tàu; thông ngôn là người Nam Kinh, đã làm việc lâu năm tại... (bỏ
trống), rồi từ đó sang An Nam- đến tâu vua, cúi chào ba lần, và nói với vua
về chiếc tầu Hinoshita của chúng tôi bị đắm. Nhà vua bảo sẽ giúp. Chúng tôi
khẩn cầu ngài cho về xứ. Hoàng thượng trả lời qua người thông ngôn, bảo được,
nhưng phải đợi vài ngày, và ngay hôm nay, ngài sẽ cho thầy thuốc đến thăm những
người bị bệnh. Chúng tôi cảm ơn ngài và được các quan võ tháp tùng trở ra,
chúng tôi lên kiệu trở về chỗ ở vào giờ ngọ [12 giờ trưa] (BEFEO, 1933, t.
60-62).
Những điều Shihõken Seishi viết về thành Gia Định năm 1794-1795
rất đáng quý, bởi có thể ông là người ngoại quốc đầu tiên đã mô tả kinh thành
này, sau khi xây xong vài năm. Những điều ông viết rất hữu ích cho sự khảo cứu
thành Gia Định, mà trong hầu hết các văn bản của Pháp đều cho rằng Puymanel và
Lebrun là "tác giả", rồi một số người Việt phụ hoạ. Chúng tôi sẽ trở
về vấn đề này.
Chân dung sau cùng về Gia Long đề cập đến ở đây là của Barrow.
Chân dung vua Gia Long, theo Barrow
Barrow tuy chưa gặp, nhưng tả Nguyễn Vương rất kỹ, ông đã dựa vào
Barisy, và hai người Anh đã sống ở Sài Gòn để viết. Có lẽ chưa có chân dung nào
rõ ràng như thế. Barrow viết:
"Từ năm 1790, năm Gia Long về lại Nam kỳ, tới 1800, chỉ có hai
năm không đánh nhau là 1797 và 1798, cũng chính là hai năm quan trọng nhất dưới
triều đại của ông, cho tới nay đầy bão tố. Dưới sự trợ lực của giám mục
Adran, mà ông tham vấn như một người thông bác, ông đã làm hết sức để đất nước
tiến triển: lập xưởng làm thuốc súng ở Fen-tan [Hội An?] (thuộc đất Chàm
trên bản đồ), mở mang đường xá, trồng cây, trồng mía, trồng trầu cau đã bị
chiến tranh tàn phá, khuyến khích việc nuôi tằm, dệt lụa, lập xưởng điều chế
nhựa thông, hắc ín; chế tạo hàng nghìn súng hoả mai, khai mỏ sắt và xây lò
nung. Lập quân đội chính quy và lập trường võ bị, với các huấn luyện viên người
Âu luyện tập cho các sĩ quan cách bắn và phóng pháo. Adran còn dịch sang chữ
Hán một bản nghiên cứu chiến lược để dùng trong quân đội.
Trong hai năm này, nhà vua đã cho đóng ít nhất 300 chiến thuyền có đại
bác hoặc ghe chèo, 5 thuyền 3 cột buồm, một chiến hạm theo lối Tây phương. Ông
sáng chế ra một chiến thuật mới cho thủy binh và dạy sĩ quan hải quân biết dùng
dấu hiệu. Một trong những người Anh mà tôi đã nói ở trên, cho biết đã nhìn thấy
ở Sài Gòn, năm 1800, một hạm đội 1200 thuyền buồm do chính ông điều khiển, nhổ
neo và tiến trên sông với một trật tự thật đẹp, chia làm ba đoàn, thẳng hàng
tiếp chiến, mở, đóng hàng ngũ và thi hành tất cả những thao tác theo đúng hiệu
lệnh.
Trong khoảng thời bình này ông còn sửa đổi cả luật pháp nữa, và chắc là
có bàn tay giám mục giúp sức. Ông bỏ những hình phạt tàn ác vẫn được áp dụng
cho tới đó... ông lập trường công, bắt trẻ con từ 4 tuổi trở lên phải đi học.
Ông xác định hệ thống lãi xuất hợp pháp cho ngành thương mại, xây cầu trên
sông, làm cầu phao, đặt phao nổi trên biển báo hiệu những nơi nguy hiểm có đá
ngầm, thanh tra các hải cảng và những vịnh chính, gửi nhiều phái viên về các
rừng núi miền Tây nơi có người Mèo và người Lào sinh sống trong tình trạng bán
khai để dẫn họ về với đời sống văn minh hơn, những người miền núi này mà người
Tầu vẫn gọi một cách hạ thấp là "người có đuôi", mặc dầu, có thể, tiền
nhân của họ ngày trước đã xây dựng nên nền văn minh của đế quốc hiện thời.
Vị vua này, hết sức chuyên tâm về mỹ thuật và công nghệ, ông sánh ngang
hàng với Đại đế Pierre của nước Nga, nhưng không tàn bạo kích động như thế, bởi
cái gương đặc thù của ông, bởi nghị lực của dân tộc ông, và giống như Alfred
bất tử của chúng ta [Alfred đại đế của Anh (871-899)] ông
không ngần ngại làm bất cứ việc gì để hồi sinh đất nước.
Để có một ý niệm về hoạt động và thiên tài của ông, chỉ cần xem những
tình huống mà ông đã trải qua: mới đầu chỉ có một chiến hạm, mà trong vòng
không đến 10 năm, đã có một hạm đội 1200 chiến thuyền, trong đó có 3 tầu kiến
trúc Tây phương, khoảng 20 thuyền buồm lớn theo kiểu Trung quốc hoàn toàn trang
bị võ khí, chỗ còn lại là tầu chuyên chở, trang bị đại bác.
Gia Long được miêu tả như một người lính hoàn hảo, trong nghiã mạnh mẽ
nhất. Người ta kể ông thích là tướng quân hơn đế vương. Người ta tả ông can
đảm, không thô bạo, lắm mưu. Những nhận thức của ông thường đúng; khó khăn
không chán nản, cản trở không lùi bước; thận trọng trong mỗi quyết định, mau lẹ
và rắn rỏi khi thực hành điều đã định, luôn luôn ở vị trí chủ chốt trong trận,
đi tiên phong trước ba quân. Tính tình vui vẻ dễ chịu, nhã nhặn, lắng nghe quan
quân dưới quyền, tránh ban ân huệ riêng tư; có trí nhớ đặc biệt, ông nhớ hầu
hết tên của lính trong quân: ông thích thú nói chuyện với họ, nhắc họ hành động
và chiến công của họ, hỏi thăm vợ con họ, hỏi đã cho con nhỏ đi học đều chưa,
hỏi chúng muốn làm gì khi lớn, ông biết hết những chi tiết nhỏ nhất về gia đình
họ.
Đối với người ngoại quốc, ông rất tử tế và ân cần. Ông quý mến những sĩ
quan Pháp giúp ông: đối xử với họ lịch sự, thân tình và rất tốt. Không bao giờ
ông đi săn hay dự cuộc vui nào mà không mời một người trong bọn họ tham dự. Ông
tuyên bố công khai lòng kính trọng của ông đối với các tôn chỉ của đạo thiên
chúa, ông dung đạo chúa như các đạo khác trong nước: ông cực kỳ tôn kính đạo
nghiã gia đình như Khổng Tử dạy trong kinh sách; đứng trước mẹ, bà hãy còn
sống, ông tôn kính như đứa bé đứng trước mặt thầy. Ông thông thuộc những tác
giả lớn của Trung Hoa. Nhờ giám mục Adran dịch một số mục từ trong Bách Khoa
toàn thư sang chữ Hán, ông biết được khoa học và nghệ thuật Tây phương, đặc
biệt ông chú trọng đến thuật hàng hải và thuật đóng tầu. Người ta đồn, điều này
không được phép nói ra, rằng để kết nối lý thuyết kiến trúc tầu với thực hành,
ông đã mua một chiến hạm Bồ, rồi tháo ra từng mảnh, từng tấm ván một, bắt chước
đúng kích thước đó mà làm lại, cho đến khi ông thay thế tất cả các bộ phận bằng
những mảnh mới làm, để hoàn thành một chiếc tầu mới.
Nghị lực trí thức của ông ngang bằng với khí phách và hoạt động thể xác.
Chính ông chủ động sự bùng lên mọi mặt của đất nước, chính ông quản đốc các
hải cảng và các công binh xưởng, chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng
đóng tầu, chính ông chỉ huy các kỹ sư trong tất cả mọi công việc, không có gì
thực hiện không có gì chấp hành mà không hỏi ý kiến và nhận lệnh của ông. Không
ai chế tạo một bộ phận nào mà không hỏi ông; không ai lắp một khẩu đại bác nào
mà không có lệnh của ông. Không những ông trông coi từng chi tiết nhỏ, mà còn
phải làm trước mặt ông.
Để điều khiển tất cả công việc của mình một cách vững vàng, ông đặt ra
một thời biểu sống cố định và kỷ luật. Sáng dậy 6 giờ, tắm nước lạnh; 7 giờ,
các quan vào chầu, mở tất cả công văn đến từ hôm qua, ông truyền lệnh cho các
thư ký ghi chép, sau đó ông ra xưởng tầu thủy, duyệt lại tất cả những gì đã làm
xong lúc ông vắng mặt, rồi ông tự chèo thuyền đi khắp bến cảng, kiểm soát các
chiến hạm, đặc biệt chú ý đến súng đại bác; ông đi thăm lò đúc súng, đúc đủ
loại đại bác ngay tại công binh xưởng.
Đến 12 hay một giờ trưa, ông ăn cơm ở xưởng đóng tầu. Cơm với cá muối.
Hai giờ ông về cung ngủ tới 5 giờ; sau đó ông tiếp các quan võ thuỷ bộ, các
quan toà, hay quan cai trị, ông đồng ý, hoặc bãi bỏ hoặc sửa chữa những kiến
nghị của mọi người. Thường thì công việc triều chính kéo dài đến nửa đêm, ông
mới trở về phòng làm việc, ghi nốt và chú thích thêm cho những việc ngày hôm
nay; rồi ông ăn một bữa cơm nhẹ, gặp gia đình độ một giờ, đến 2, 3 giờ sáng ông
mới đi ngủ. Ông chỉ ngủ 6 giờ một ngày.
Ông không uống rượu, ăn ít thịt, cá, cơm, rau, hoa quả, chút bánh trái
và uống trà, đó là tất cả đồ ăn của ông. Như một vị dòng dõi vua Minh bên Tầu,
mà ông công nhận, ông ăn cơm một mình, không cho phép vợ con ngồi cùng mâm. Vẫn
nguyên tắc kiêu kỳ này, ông không tiếp những người Anh đến chào năm 1799, lấy
cớ lúc này tình hình lộn xộn không cho phép sửa soạn tiếp đón theo đúng nghi
lễ. Ta sẽ lầm nếu phê bình sự từ chối này như [thái
độ của] một ông vua nước Tầu; nhưng với ông, chẳng vì hiềm tị mà ông không
làm thoả mãn lòng hiếu kỳ của người ngoại quốc. Trái lại, họ có thể tự do đến
thăm xưởng đóng tầu, thăm những tháp canh, những thành đồn. Ông tiếp họ dễ dàng
trong tư thế tướng quân. Nhưng với tư thế đế vương, ông không tiếp.
Người ta bảo ông dáng tầm thước, nét mặt đều đặn dễ coi. Da hung hung
nâu đỏ vì giãi dầu nắng gió và hiện nay (1806) ông độ khoảng 50 tuổi.
Ông chỉ biết đến người Anh qua tên gọi; nhưng nghe nói rằng, trong mọi
trường hợp, ông luôn luôn tỏ dấu rất kính trọng dân tộc này; và nhất là nếu đó
lại là những điều do người Pháp mách lại [ý
nói do Barisy], thì càng đáng tin. Điều chắc chắn rằng ông luôn luôn tỏ những
ý định tốt đối với nước Anh. Ông đã tuyên bố qua một đạo dụ, rằng tất cả những
hạm đội của chúng ta [Anh] đều được miễn thuế vào các hải cảng lớn, nhỏ.
Một lần, sự rộng lượng của vua đã rõ thực ngời sáng: Người thuyền trưởng
và viên đệ nhất sĩ quan một tầu buôn Anh, cả hai đều bị chết, khi tầu đi từ
Quảng Đông tới Sài Gòn. Để đề phòng cướp bóc, gian lận, có thể gây thiệt hại
cho chủ tầu, vì hai người chỉ huy đều chết cả; vua bèn gửi thuyền trưởng Barisy
với một đội quân cấm vệ, đi hộ vệ chiếc tầu Anh yên lành trở lại Quảng Đông hay
Macao, để trả cho chủ hay viên đại lý đang còn ở đó (...).
Người ta nói vợ ông là một bà hoàng đạo đức gương mẫu, có một tâm hồn
cương quyết đã nâng đỡ và an ủi ông trong những thất bại chua cay nhất. Họ có 7
người con. Hai con trai đầu giao cho Adran dạy dỗ. Đông cung, ông hoàng trẻ, mà
giám mục đưa sang Paris, chết sau thầy ít lâu. Tính tình hiền lành, sốt sắng và
bặt thiệp, thiên tư đạo đức; những đức tính hợp với một đời sống yên lành của
một tư nhân, hơn là với địa vị cao cả đã dành cho từ lúc sinh ra. Người em,
thừa hưởng sự kế vị, là một quân nhân ưu tú. Ba năm đi lính, năm năm làm hạ sĩ
(caporal) rồi lên trung sĩ (thầy đội, sergent), và đã phụng sự đắc lực trong
những năm chiến tranh. Năm 1787, được lên cấp cai đội (lieutenant-colonel); và
năm sau, được thăng trấn thủ một vùng ven biển. Năm 1800, được thăng tướng
(géneral) cai quản một dinh quân 35.000 người. Chính trong năm này, ông đạt
chiến thắng quan trọng nhất đối với quân Bắc Hà, họ để lại trận 9.000 người
chết và bắt được tất cả voi và đại bác.
Đây là sức mạnh quân sự của vua Nam Hà, năm 1800, theo đại uý Barisy:
Bộ binh
24 đội kỵ binh (cưỡi trâu)... 6.000 người
16 đội voi (200 con)... 8.000
30 đội pháo binh... 15.000
25 chi đoàn 1.200 người trang bị vũ khí Âu châu... 30.000
Bộ binh trang bị kiếm và súng cổ trong nước... 42.000
Vệ binh tập luyện theo lối Âu châu.......12.000
Tổng cộng bộ binh..... 113.000 người
Thuỷ binh
Lính thợ trong xưởng đóng tầu..... 8.000
Lính thuỷ, mộ hay nối dõi (cha, anh), trên những chiến hạm đậu ở cảng...
8.000
Lính biệt phái sang những tầu chiến kiểu Tây phương...1.200
Lính biệt phái thuyền buồm (jonque)... 1.600
Lính biệt phái 100 thuyền chiến chèo (galère)... 8.000
Tổng cộng thủy binh....26.800
Tổng cộng toàn bộ: 139.800 quân
(Barrow II, t. 224-238).
Sau đây là một số nhận xét về chân dung vua Gia Long do Barrow khắc họa:
1- Về bản kê khai sức mạnh quân sự của Gia Long do Barisy cung cấp, chúng
tôi sẽ trở lại trong chương sau, viết về tác phẩm của Montyon, vì Montyon ghi
chép cặn kẽ về quân đội Gia Long hơn Barrow nhiều. Về đội kỵ binh cưỡi trâu,
bản của Montyon ghi thêm: "Trâu thay ngựa trong chiến trận xưa, nay
đã bỏ". Taboulet ghi lời giải thích của tướng Lemonnier: Đội kỵ
binh cưỡi trâu có lẽ là một thứ kỵ binh có nhiệm vụ an ninh gần. Không thấy
nói đến các hành động sốc của đội quân này. Cũng không có chiến tích gì, nên đã
bị bãi bỏ ngay (Taboulet, I, t. 257, note 1).
2- Về bà Chính hậu, tức Thừa thiên Cao hoàng hậu, là con gái thái bảo Tống
Phước Khuông, mẹ họ Lê, lấy Nguyễn Ánh năm 1778, hơn Ánh 2 tuổi. Liệt truyện
ghi: "Sinh được 2 con trai, con cả là Chiêu, chết sớm, con thứ là
Cảnh", "mỗi khi vua đi đánh giặc, Hậu thường đi theo" "tự
dệt vải mỏng, dầy cho quân lính", "phần nhiều khuyên chăm
chính sự" "giúp vua trong lúc gian nan" (...) Trước kia
trong lúc xiêu giạt, phụng dưỡng Hoàng Thái hậu, nếm trải mọi mùi gian nan hiểm
trở, thường thân hành dệt cửi, chính tay may lấy áo trận, để cấp cho quân sĩ.
Một hôm thuyền đi gặp giặc, vua đốc quân cố sức đánh, hậu cũng cầm dùi đánh
trống, quân lính tranh nhau phấn khởi thành ra đánh được." Bà mất ngày
22/2/1814 (3/2/Ất Mùi) (LT, 2, t. 25-27-32) .
Những điều Barrow ghi về bà đúng cả, chỉ có 7 người con là nhầm với con
của các bà phi khác, có lẽ do bà trông nom. Minh Mạng cũng là bà nuôi. Hoàng tử
Hy, con thứ nhì của Nguyễn Vương, không biết tên mẹ. Hoàng tử Tuấn, mất sớm, mẹ
là Chiêu Dương. Đến Minh Mạng, thứ tư, là con Thuận Thiên Cao hoàng hậu, con gái
Thọ Quốc Công Trần Hưng Đạt...
3- Về hai hoàng tử Cảnh và Hy, Barrow ghi tính tình khá đúng, trừ ông không
biết việc hoàng tử Hy mất sau anh 2 tháng.
4- Việc Barrow tưởng vua Gia Long miễn thuế cho các tầu Anh, chắc không đúng,
Thực Lục ghi 2 lần người Anh đến, tháng 4/1798: "Người Hồng Mao đến
hiến phương vật" (TL, I, t. 366), không nói thêm gì. Và tháng 5/1801: "Nước
Hồng Mao sai người đem thư đến dâng phương vật mà xin miễn thuế cảng cho thuyền
buôn. Vua hạ lênh cho lưu trấn Gia Định viết thư trả lời, đánh thuế theo như
thể lệ thuyền buôn Quảng Đông" (TL, I, t. 438)].
5- Việc Adran dịch sang chữ Hán một bản nghiên cứu chiến lược để dùng
trong quân đội, không biết Barrow lấy ở đâu, vì không thấy nơi nào nói
đến. Sau đó, Maybon dùng thông tin này của ông, và những người khác chép theo.
Còn câu "giám mục Adran dịch
một số mục từ trong Bách Khoa toàn thư sang chữ Hán" có thể đã rút ra trong
chúc thư của Bá Đa Lộc do Le Labousse viết: "Đức Cha tặng vua một hộp
đựng thuốc bằng vàng nạm kim cương, điểm một viên kim cương trạm công phu, kính
thiên văn và kính viễn vọng của người, bốn quyển Bách Khoa Toàn Thư..."
(Launay, III, t. 384), đây là nơi duy nhất nói đến Bách Khoa Toàn Thư, chính
Le Labousse cũng không nói gì đến việc dịch sách, mà Sử Ký Đại Nam Việt cũng không.
Nhưng câu này của Barrow cũng sẽ được Faure, Maybon và những người tôn vinh Bá Đa
Lộc chép lại và phóng đại lên sau này.
Xin nói thêm: hộp thuốc lá bằng vàng nạm kim cương, theo Faure, là vua
Louis XVI thưởng cho vị giám mục, sau khi ký hiệp ước 28/11/1787 với Montmorin.
Nguyễn Vương không nhận các món quà của Bá Đa Lộc. Chúng tôi sẽ trở lại việc này.
6- Việc một người Anh nhìn thấy năm 1800, Nguyễn Vương có hạm đội 1200
chiến thuyền, trong đó có 3 tầu kiến trúc Tây phương, chắc không sai, chúng
ta chỉ cần lướt qua con số thuyền và tầu chiến các kiểu, ghi trong Thực Lục mà
Nguyễn Ánh cho đóng từ tháng 4/1778 đến năm 1800, thì đủ biết, dù những thuyền,
tầu này bị đắm, bị đốt, bị hư hại, số còn lại vẫn rất cao.
Qua những nhân chứng trên đây, chúng ta đã có một hình ảnh khá đậm nét về
vua Gia Long, qua sự đúc kết những lời của các tác giả hợp lại:
15 tuổi, Nguyễn Ánh đã làm tướng, xông vào đánh nhau cùng với
lính. Khôn ngoan và can đảm. Thông minh, nhìn qua mọi sự là biết ngay, chăm
việc: "khi thì đốc suất các thợ, khi thì đi biên các kho, hoặc coi tập
binh hay đắp lũy". Tự học, biết chữ nho, không biết tiếng Pháp. Xem
các họa đồ về việc đắp lũy, xây thành, qua những sách mua ở bên Tây, rồi bắt
chước làm theo. Nhược điểm: được trận thì mừng thái quá, mà thua thì dễ
nản. (SKĐNV)
Linh lợi, sâu sắc, thẳng thắn, nhìn thoáng qua là nắm bắt được trọng tâm
của những sự thể phức tạp nhất. Có trí nhớ hơn người, ghi nhớ tất cả, dễ dàng
thiên bẩm bắt chước được tất cả. Những công binh xưởng, và những bến tầu chiến của
Nguyễn Vương làm cho người ngoại quốc thán phục. Thuyền tầu đếm không xuể. Những
chiến hạm lớn lao, đủ loại hình thái, kiên cố. Tất cả đều là sản phẩm của ông
hoàng này (...) Ông cực kỳ siêng năng. Ban đêm ngủ ít, đọc nhiều. Có tính hiếu
kỳ và thích học hỏi. Trong cung có nhiều sách về kiến trúc, thành đài. Ông
thường giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi cần đọc
những giải thích bằng chữ Pháp vì ông không đọc được. (Le Labousse)
Gia Định có những tầu buôn Hoà Lan, Quảng Đông, Macao, và những nơi
khác, đỗ đầy trong cảng sông. Đó là nơi buôn bán sầm uất. (Shihõken Seishi)
Chính Nguyễn Vương quản đốc các hải cảng và các công binh xưởng,
chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng đóng tầu, chính ông chỉ huy các kỹ
sư trong tất cả mọi công việc, không có gì thực hiện không có gì chấp hành mà
không hỏi ý kiến và nhận lệnh của ông. Không ai chế tạo một bộ phận nào mà
không hỏi ông; không ai lắp một khẩu đại bác nào mà không có lệnh của ông. (Barrow)
Kết
luận
Barrow là người không gặp Gia Long, nhưng bức chân dung Gia Long do ông
khắc hoạ rất đầy đủ và có nhiều điểm giống với những điều do Le Labousse và Sử
Ký Đại Nam Việt viết. Barrow cho biết ông dựa vào bản thảo Hồi ký Barisy.
Mà Barisy, qua vài lá thư để lại, là người tính tình hơi ba hoa nhưng thực lòng,
chính ông đã làm bản thống kê lực lượng quân đội Nguyễn Ánh trên đây và những điều
về cuộc sống hàng ngày của nhà vua chỉ có thể do Barisy cung cấp, bởi vì Barisy
là người có dịp gần gụi vua và đông cung.
Tuy nhiên có một điểm đáng chú ý sau đây:
Barisy, là người cùng thời và là bạn đồng hành của Puymanel, Dayot,
Vannier, Chaigneau... nhưng ông không hề nói đến việc Puymanel "xây"
các thành Gia Định và Diên Khánh, hay việc Dayot làm "tổng tư lệnh hải quân"
mặc dù Barisy có mặt trong những thời điểm đó.
Các học giả Pháp không nhắc đến Hồi ký Barisy. Cadière cho công
bố hai bức thư dài của Barisy viết về trận Thị Nại và trận Phú Xuân, vì trong
đó nói đến những người Pháp tham dự.
Taboulet cho biết Hồi ký Barisy đã thất lạc (Taboulet, I, t. 256).
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Hồi ký Barisy thật sự thất lạc hay
chính giới nghiên cứu Pháp thấy nó không phù hợp với những điều mà họ muốn, nên
đã không dùng hoặc coi như thất lạc.
Khi trích dẫn Barrow để đăng trong sách của ông, Taboulet đã bỏ đoạn
Barrow viết về kỹ nghệ đóng tầu thuyền ở Việt Nam và khi ông trích đoạn viết về
chân dung Gia Long, ông khôn ngoan cắt làm hai bài, để loại trừ những dòng Barrow
xác định chính Nguyễn Vương quản đốc các hải cảng và các công binh
xưởng, chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng đóng tầu, chính ông chỉ huy
trong tất cả mọi công việc...
Phần Maybon, để đả kích Barrow, trong cuốn Histoire moderne du pays
d'Annam và trong bài Introduction in trong La Relation de La
Bissachère (chúng tôi sẽ giới thiệu sau), Maybon đưa ra một vài chi tiết mà
ông cho là sai của Barrow về sự xung đột giữa Bá Đa Lộc và de Conway tại
Pondichéry; và việc văn bản hiệp ước cầu viện 28/11/1787, do Barrow in trong
sách, khác với văn bản "chính thức", để ông kết luận rằng cuốn sách của
Barrow đưa toàn những thông tin sai lầm vô căn cứ mà lại được nhiều người chép
lại.
Ngoài việc Barrow vẽ một chân dung Gia Long và sự xây dựng Nam Hà, không
phù hợp với những điều mà họ mong muốn,
có lẽ còn một lý do nữa khiến Maybon loại bỏ Barrow, bởi trong sự tranh giành
thuộc địa mà nước Anh là kẻ thù không đội trời chung của nước Pháp, Barrow đã
vạch rõ những ý đồ của Bá Đa Lộc và của nước Pháp thực dân.
Thụy Khuê
(Còn tiếp)