Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015
Phạm Cao Dương - Biển Đông 2015: NHÂN SỰ KIỆN HOA KỲ, NHẬT BẢN, ÚC, ẤN ĐỘ, PHI LUẬT TÂN… NHẬP CUỘC VÀ BIỂN ĐÔNG ĐANG ĐƯỢC QUỐC TẾ HÓA, NHẮC LẠI GỢI Ý VỀ MỘT SỐ CÔNG TÁC CẦN PHẢI LÀM
Xin được thưa ngay là
vấn đề này đã từng được người viết nêu ra sau khi vụ Hội Địa Lý Quốc Gia (National
Geographic Society) của người Mỹ ghi chú không đúng về quần đảo Hoàng Sa đã tạm
thời được giải quyết với sự đồng ý sửa lại của tổ chức này. Đây là một thành công
quan trọng mà người Việt Nam nói chung đã đạt nhờ sự lên tiếng và tranh đấu của
các giáo sư, học giả, các cơ quan hay tổ chức nghiên cứu chuyên môn và của những
người Việt yêu nước bình thường cả trong lẫn ngoài nước. Có điều đây mới chỉ là
bước mở đầu vì National Geogaphic Society không phải là cơ quan hay nhà xuất bản
duy nhất sản xuất và phát hành bản đồ ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Còn rất nhiều
cơ quan và nhà xuất bản khác cũng làm những công việc tương tự. Việc làm sáng tỏ
và tranh đấu để có sự điều chỉnh cho đúng sự thực do đó cần phải được tiếp nối.
Trong bài này người viết xin được lập lại hai gợi ý cần phải làm vào lúc này:
Thứ
nhất là người Việt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như
Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức, Gia Nã Đại và các nước Bắc Âu… cần phải duyệt lại tất
cả những tài liệu đã được phổ biến liên hệ tới không riêng Quần Đảo Hoàng Sa mà
luôn cả Quần Đảo Trường Sa và nếu cần, phải vận động để điều chỉnh.
Thứ
hai là phải xét lại danh xưng South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer
de Chine (Biển Trung Hoa) hay Mer de Chine Méridionale và đổi thành Southeast
Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est (Biển Đông Nam Á).
Cả hai gợi ý này đều có những lý do
riêng và đều có thể thực hiện được nếu mọi người Việt Nam nhất là các nhà cầm
quyền ở trong nước đều muốn làm vì chúng
ta đang ở vào những vị thế và thời điểm vô cùng thuận lợi, có thể làm được. Tôi
xin được trình bày với những chi tiết như sau:
Thứ
nhất: Thường xuyên duyệt xét lại tất cả những bản đồ đã được quốc tế ấn hành hay
phổ biến trên mạng
Lý do của việc làm này
là bản đồ có thể được phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau: trên mạng, in rời
từng bản để treo tường hay in trong sách hay thành tập gọi là atlas dưới nhiều khổ lớn nhỏ, dầy mỏng
khác nhau, có tỷ lệ khác nhau, từ đó chi tiết được trình bày hay ghi chú khác
nhau, đồng thời cũng có thể là những cầu
đồ (globes). Gợi ý để mọi người cùng làm ở đây là người Việt ở khắp nơi trên
thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức và các nước
Bắc Âu… cần phải duyệt lại tất cả những tài liệu đã được phổ biến này và nếu cần,
có thể vận động để điều chỉnh. Hoa Kỳ là một trường hợp điển hình. Chúng ta thử
bắt đầu một bằng quốc gia có nhiều liên hệ với Việt Nam này. Điều nên nhớ là công
việc duyệt xét này, với một kiến thức không cần thật cao về các ngôn ngữ liên hệ,
ai cũng có thể làm được, nhất là các thanh thiếu niên thuộc thế hệ trẻ ở các học
đường, chưa nói tới các người làm ở các thư viện.
Ở
Hoa Kỳ, ngoài National Geographic, còn có những nhà xuất bản khác không kém
quen thuộc đối với học giới nói chung, các nhà địa lý học hay các thày dạy sử địa
nói riêng, như Hammond, Rand McNally, DK, Oxford University Press, Merriam-Webster,
Random House, Smithsonian, Harper Collins… Các tài liệu này vì được ấn hành bằng
tiếng Anh nên cùng lúc được xuất bản và phổ biến ở các nước nói tiếng Anh như
Gia Nã Đại, Úc, Anh…Các bản đồ của các nhà xuất bản này phần lớn dùng các tên
Paracel hay Spratly, những tên quốc tế, rồi đã hoặc là để trống (Oxford Atlas of the World, 2005; Oxford New Concise World Atlas, 2009; Random House Compact World Atlas, 2006; Smithsonian Handy World Atlas, 2004) hoặc đề sovereignty disputed hay
disputed - chủ quyển tranh chấp hay tranh chấp (Hammond World Atlas,2009;
Hammond Concise World Atlas,(?); DK World Atlas, Digital Mapping for the 21th Century,2007, DK Concise Atlas of the World, 2007) hoặc đề là claimed by (đòi chủ quyền bởi)
rồi kể tên các quốc gia (Rand Mcnally,
Answer Atlas, the Geography Resource for Students, 2006). Riêng cuốn Merriam-Webster’s
Geographic Dictionary, 2007, vì là
từ điển nên ngoài tên quốc tế lại ghi thêm các tên Xi-shaQndao (Trung Hoa), Quần
Đảo Hoàng Sa (Việt Nam) và Hi-ra-ta
gun-tô (Nhật Bản) trước khi ghi các chi tiết khác. National Geographic có lẽ
là một trường hợp cá biệt. Các bản đồ in của hội này cũng đã ghi chú y như họđã
ghi chú trên mạng (National Geographic
Family Reference Atlas of the World, 2010; National GeographicVisual of the World Atlas,2009; National Geographic Collegiate Atlas of the World (?). Cần để
ý là trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ngay từ những ngày đầu, National
Geographic Society đã chú ý rất nhiều đến
cuộc chiến đấu chống Cộng của người Việt. Họ đã viết và đã phổ biến rất nhiều bài
về đề tài này một cách có cảm tình với phía ngưòi Việt Quốc Gia. Vậy tại sao với
tư cách là một hội khoa học họ lại thay đổi thái độ một cách vội vã, thiếu vô tư
và thiếu thận trọng so với những nhà xuất bản khác nặng về kinh doanh thương mại
hơn như vậy? Qua sự kiện này câu hỏi được đặt ra người ta có thể tin tưởng vào
tinh thần khoa học, vô vị lợi của người Mỹ đến mực nào? Một câu hỏi khác: Còn ở Việt Nam thì sao?
Việt
Nam (miền Bắc) cũng dùng các danh xưng Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha) của
Trung Quốc trên các bản đồ của mình
Trở
về với Việt Nam, việc dùng các danh xưng Tây Sa và Nam Sa, gốc của người Tàu,
thay vì Hoàng Sa và Trường Sa trong tiếng Việt, không phải là không có. Sự kiện
này sở dĩ đã xảy ra có thể là do sự dễ dãi, dẫn xuất từ tính thế nào xong thôi
của người Việt. Nó cũng có thể là do sự cẩu thả của người làm sách hay vẽ bản đồ
nhưng nó cũng có thể do chủ trương của người cầm quyền đương thời liên hệ tới quốc
tế chủ nghĩa và nhu cầu của tình thế và của chiến tranh thể hiện qua văn thư của
Thủ Tướng Chính Phủ Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gửi cho đồng chí
của ông là Tổng Lý Quốc Vụ Viện Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Chu Ân Lai, ngày
14 tháng 9 năm 1958 và cách giải thích của những người có trách nhiệm ở miền Bắc
đương thời. Có điều giải thích ra sao cũng vậy. Bút sa là gà phải chết! Khi những tranh chấp xảy
ra, người Tàu đã dùng những tài liệu do chính người Việt tạo ra mà họ có được
trong tay này làm chứng cớ để biện minh cho chủ quyền của họ ở các quần đảo hai
bên đang tranh chấp. Bài viết nhan đề “Xisha and Nansha Islands belong to
China” (Tây Sa và Nam Sa thuộc Trung Quốc)
đăng trên tờ Beijing Review, cơ quan
ngôn luận chính thức của chính quyền Cộng Sản Bắc Kinh bằng Anh ngữ, số 21, ra ngày 25 tháng 5 năm 1979 cho
người ta thấy điều đó. Bài này không ghi tên tác giả mà chỉ ghi là một bài bình
luận của ký giả Tân Hoa Xã, có lẽ để tránh không bị coi là chính thức, nhưng ai
cũng biết Tân Hoa Xã là cơ quan thông tấn chính thức của nhà nước Trung Hoa Cộng
Sản. Trong bài bình luận này, ngoài những lập luận và chứng cớ bằng ngôn từ, tác
giả đã viện dẫn tới các bản đồ chính thức của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
(miền Bắc) ấn hành trước năm 1975. Các bản đồ này đã gọi các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa bằng tên Trung Hoa đọc theo tiếng Việt là Tây Sa và Nam Sa của chúng
kèm theo những ghi chú chứng tỏ các quần đảo này là thuộc Trung Hoa. Tác giả bài
báo đã nêu lên một số trường hợp làm thí dụ:
Thí dụ thứ nhất: Bản
đồ thế giới vẽ và ấn hành bởi Cục Địa Đồ (?) của Bộ Tổng
Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam năm 1960 đã ghi rõ bằng tiếng Việt “Quần Đảo
Tây Sa (Trung Hoa)” và “Quần
Đảo Nam Sa (Trung Hoa)”. Nguyên bản tiếng Anh để chữ China (Trung
Hoa) trong ngoặc đơn rồi tất cả trong ngoặc kép “the Xisha Islands (China)”,
“the Nansha Islands (China)” thành người viết bài này (PCD) không rõ chữ China
này là ghi đúng như trên bản đồ của Việt Nam hay do tác giả bài viết trên tờ Beijing Review thêm vô.
Thí dụ thứ hai: Những
bản đồ Việt Nam xuất bản bởi Cục Địa Đồ vào tháng 5 năm 1964 và những bản đồ thế
giới ấn hành tháng 5 năm 1972 cùng những bản đồ chính trị thế giới do Cục Đo Đạc
và Bản Đồ Quốc Gia (?) ấn hành tháng 3 năm 1974 ghi các quần đảo này bằng tên
Trung Hoa viết bằng tiếng Việt Nam. Không bao giờ các quần đảo này được ghi bằng
tên tiếng Việt là “Quần Đảo Hoàng Sa” và “Quần Đảo Trường Sa” như sau này, theo
tác giả bài báo.
Thí dụ thứ ba: Một bài học về Trung Quốc dành cho lớp 9
trong một cuốn sách giáo khoa về địa lý do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Hà Nội ấn hành
năm 1974 có câu “Vòng cung hợp bởi các quần đảo Nam Sa và Tây Sa, đảo Hải Nam, Đài
Loan, Quần Đảo Bành Hồ… tạo thành một bức “trường
thành” che chở cho Trung Hoa Lục Địa.” Có nhiều diễn tả tương tự đã được thấy
trong các sách giáo khoa của Việt Nam. Xin độc giả lưu ý tới hai chữ “trường thành” ngay từ năm 1974 này đã được dùng thay vì mãi đến năm
2015 mới được vị đô đốc tư lệnh Hạm Đội 7 của Mỹ nhắc tới.
Thí dụ thứ tư, Kinh độ phía đông của Việt Nam: Ngày 15
tháng 5 năm 1975, non một tháng sau ngày quân đội Việt Nam (Cộng Sản) tiến chiếm
sáu đảo của Quần Đảo Trường Sa, tờ Quân Đội
Nhân Dân cho đăng một bản đồ Việt Nam bao gồm cả Quần Đảo Trường Sa và khẳng
định là địa điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 29 phút Đông. Điều
này (theo bài báo) chứng tỏ Việt Nam đã chiếm đóng lãnh thổ của Trung Quốc. Mặt
khác, một tài liệu nhan đề Địa Lý Thiên
Nhiên Việt Nam và Các Vùng Thiên Nhiên của Lãnh Thổ Việt Nam (?) do Nhà Xuất
Bản Giáo Dục Việt Nam và Nhà Xuất Bản Khoa Học và Kỹ Thuật Việt Nam ấn hành năm
1970 lại xác định điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 21 phút Đông
thay vì 109 độ 29 phút Đông, chênh nhau 8 phút. Tác giả bài báo cho rằng dù có
tăng thêm 8 phút cho lãnh thổ Việt Nam, Nam Sa vẫn không thuộc Việt Nam vì Nam
Sa nằm ở 109 độ 30 phút đông của lãnh thổ Việt Nam (cũng theo bài báo).
Qua
những thí dụ kể trên, người ta thấy lập luận của phía Trung Hoa có những điều bất
ổn. Ba thí dụ đầu căn cứ vào những tài liệu được ấn hành từ trước năm 1975, khi
Việt Nam còn bị chia đôi và có xuất xứ từ miền Bắc Việt Nam trong khi các Quần Đảo
Hoàng Sa và Trường Sa theo Hiệp Định Genève mà Trung Quốc có tham dự và đóng
vai trò tích cực, là do miền Nam quản trị. Lập luận của Trung Quốc trong trường
hợp này không có giá trị vì nó cũng giống như lập luận của họ đối với văn thư
Phạm Văn Đồng gửi cho Châu Ân Lai. Nói cách
khác, những gì miền Bắc làm đối với Hoàng Sa và Trường Sa là không có giá trị
pháp lý căn cứ vào Hiệp Định Genève. Có điều khi đặt vấn đề này người ta lại phải
đặt lại toàn bộ vấn đề Việt Nam từ biến cố 30 tháng Tư năm 1975 vì Miền Bắc là
phía thắng trận nên những gì Miền Bắc làm là hợp pháp. Một câu hỏi khác liên hệ trực tiếp với bài này
cần được nêu lên là tại sao các nhà làm sách và làm bản đồ ở miền Bắc thời trước
năm 1975 lại dùng những danh xưng của người Tàu thay vì các danh xưng của người
Việt để gọi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? Câu trả lời có thể là vì thời
gian đó là thời gian Việt Nam và Trung Hoa là hai nước Cộng Sản “anh em”, em không
giữ được thì đưa cho anh thay vì để người ngoài chiếm mất, đồng thời đó cũng là
thời gian chiến tranh, Cộng Sản Việt Nam cần sự giúp đỡ của Cộng Sản Trung Quốc
và vai trò của Trung Quốc nói chung và của các cố vấn Trung Quốc nói riêng rất
mạnh, không ai có thể chống lại. Do đó, việc dùng ngôn từ của Trung Quốc hay việc
chép nguyên văn từ các tài liệu do các cố vấn Trung Quốc đưa cho ở đây cũng chỉ
là một điều bình thường giống hệt như trong các cuộc chỉnh huấn trong quân đội
hay cải cách ruộng đất và việc dùng danh xưng Quân Đội Nhân Dân thay thế cho
danh xưng Vệ Quốc Đoàn mang nặng tinh thần quốc gia chủ nghĩa. Khó ai có thể ngờ
Trung Quốc trước sau như một khiến cho những gì các nhà làm bản đồ hay sách giáo
khoa về địa lý ở miền Bắc đã làm ở thời đó sau này đã gây ra bất lợi cho cả đất
nước Việt Nam. Tưởng ta cũng nên để ý là về vấn đề kinh độ, 109 độ 21 hay 29 phút
chỉ là của Việt Nam lục địa tức phần chính của Việt Nam mà thôi. Các Quần Đảo
Hoàng Sa và Trường Sa không được trình bày trong tài liệu được viện dẫn. Ngoài
ra người ta cũng phải để ý hơn nữa là tháng 5 năm 1975 miền Bắc mới chiếm được
miền Nam và tự coi là có trách nhiệm trên toàn thể lãnh thổ của miền Nam trong đó
có Hoàng Sa và Trường Sa. Thời gian quá ngắn nên những tài liệu tờ Quân Đội Nhân
Dân dùng cho bài viết của họ vẫn là tài liệu cũ của miền Bắc. Họ chưa có đủ thì
giờ để cập nhật hóa những gì phải làm.
Tên
South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale cần phải được
thay thế bằng Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Mer du
Sud-Est Asiatique hay Biển Đông Nam Á
Đây là một vấn đề lẽ
ra phải được nêu lên từ lâu nhưng hầu như ít ai để ý đến hoặc chưa có dịp. Người
viết đã thử làm hồi cuối thập niên 1980 của thế kỷ trước bằng cách gửi thư cho các bộ Ngoại giao của các
nước Đông Nam Á, nhưng như mọi người có thể đoán được, với tư cách cá nhân vô
danh, nhỏ bé, thư chắc chắn đã được nằm trong sọt rác. Sau này một tổ chức lớn hơn, Nguyễn Thái Học
Foundation cũng đã làm nhưng cũng chưa đạt được ý muốn. Một thời điểm đầu tiên
rất tốt đã xảy ra trong năm 2010, một thời điểm có thể coi là ngàn năm một thuở
vì Việt Nam vào năm 2010 là chủ tịch luân phiên của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông
Nam Á (ASEAN), đồng thời trong tháng 4 năm đó cuộc họp thượng đỉnh của Hiệp Hội
đã diễn ra ở Hà Nội. Với tư cách chủ nhà và ở cương vị chủ tịch, nhà nước Cộng
Sản Việt Nam có thể đưa ra đề nghị để hội nghị cứu xét và thông qua. Rất tiếc là
nhà nước này Cộng Sản Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội này. Tuy nhiên thời điểm hiện tại
cũng không đến nỗi là đã quá muộn. Lý do
là vì hiện tại Quốc Tế nói chung, trong đó có Nhật Bản, có Úc, có Ấn Độ…,không
phải chỉ riêng Hoa Kỳ, đã chú ý nhiều hơn tới nguy cơ Biển Đông và đã có những
hành động cụ thể. Một vận động mới cần
phải được khởi động.
Có nhiều lý do phải đổi tên:
Thứ
nhất: Tên South China Sea (Biển Nam
Trung Hoa) trong tiếng Anh và tên Mer
de Chine (Biển Trung Hoa) hay Mer de Chine Méridionale trong tiếng Pháp
không thích hợp với thực tại địa lý nói chung của biển này. Chúng đã được đặt
ra và được chấp nhận từ nhiều thế kỷ trước, khi người Âu Châu mới tới vùng này.
Lúc đó họ đã biết hay đã quen với Trung Quốc nhiều hơn là với các xứ Đông Nam Á
đương thời, trong khi trên thực tế biển này ba mặt phía nam, phía tây, phía đông
được vây quanh bởi các nước Đông Nam Á, chỉ một phần phía bắc là tiếp giáp với
Trung Quốc. Khi một danh xưng do người ngoài đặt cho và không hợp lý với thực tại
địa phương, người ta cần phải đổi đi cho hợp lý hơn thay vì để nguyên một cách
thụ động và cứ thế mà dùng từ đó gây ra những hiểu lầm lẽ ra có thể tránh được.
Nên để ý là Indonesia xưa kia bị gọi là Nam Dương quần đảo. Sau khi độc lập nước
này đã được đổi tên là Indonesia hay In-đô-nê-xia.
Thứ hai: Biển
này nằm ở giữa các quốc gia Đông Nam Á, trong tương lai, với đà phát triển trên
nhiều mặt của Hiệp Hội ASEAN, sẽ là một cái hồ, một thứ Địa Trung Hải của toàn
vùng. Nó sẽ giúp cho mọi sự tiếp xúc, trao đổi và hợp tác, nói chung, từ kinh tế,
tài chánh, thương mại đến văn hóa, giáo dục… được dễ dàng vì giao thông bằng đường
thủy luôn luôn dễ dàng với những số lượng lớn hơn gấp bội so với đường bộ hayđường
hàng không nếu người ta biết tổ chức và khai thác. Tên South China Sea hay Mer
de Chine hay Mer de Chine Méridionale không nói lên được tầm quan trọng này, chưa
kể tới những ý nghĩa tiềm ẩn có thể bị khai thác của hai chữ China hay Chine trong
hai danh xưng này.
Thứ
ba: Đổi tên từ South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer de Chine (Biển Trung Hoa) hay Mer de Chine Méridionale
(Biển Nam Trung Hoa) thành Biển Đông Nam Á không có nghĩa là ta từ bỏ danh xưng
Biển Đông hay Đông Hải của Việt Nam vì Biển Đông hay Đông Hải là những tên
riêng của người Việt để dùng trong nội bộ mình. Các nước khác chắc chắn cũng có
những tên riêng của để gọi biển này của họ, điển hình là Phi Luật Tân. Vì là của
riêng người ta vẫn có thể tiếp tục dùng những danh xưng này như những danh xưng
truyền thống với những ý nghĩa vừa đúng với vị trí của biển này đối với người
dân địa phương, vừa tình cảm của chúng. Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du
Sud-Est sẽ chỉ là những danh xưng quốc tế thích hợp hơn để dùng trên các văn kiện
hay trong các buổi họp quốc tế, trên các địa đồ thế giới và cho các nước không
nằm trong vùng.
Thứ
tư: Dùng danh xưng Biển Đông Nam Á hay Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie
du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique sẽ giúp cho các học giả, các nhà ngoại
giao, các chính khách Việt Nam, mỗi khi phải tiếp xúc với thế giới bên ngoài,
tránh được sự khó chịu khi phải dùng những tên vừa không do mình đặt ra vừa
không đúng với thực tại địa lý mà còn hàm chứa ảnh hưỏng và sức mạnh quá lớn của
Trung Quốc. Không những thế chúng còn mang các quốc gia Đông Nam Á lại gần với
nhau hơn, đồng thời có thể tạo ra cho người dân của các quốc gia này một ý thức
mới, ý thức thuộc về một khối người có nhiều điểm tương đồng, có những quyền lợi
chung cần được khai thác với nhau trong hòa bình và cùng nhau bảo vệ nhất là
trong phạm vi môi trường thiên nhiên vào lúc Trung Quốc đang nỗ lực kỹ nghệ hóa
các tỉnh đông nam của họ hay xa hơn nữa trước tham vọng bành trướng nhằm làm bá
chủ thế giới của nước này.
Kết
luận: Với
những lý do trên đây, và còn nhiều lý do khác nữa mà người viết, trong một bài
báo ngắn gọn hay vì nhất thời tế nhị, không thể kể ra hết, việc thay thế các
danh xưng South China Sea trong tiếng Anh và Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale
trong tiếng Pháp bằng danh xưng Southeast Asia Sea hay Mer de l‘Asie du Sud-Est
hay Mer du Sud-Est Asiatique là một việc làm cần thiết và thích hợp cho sự phát
triển nhanh chóng và mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông
Nam Á (ASEAN) như người ta đã và đang thấy. Nó nói lên sự bình đẳng và ý chí kết
hợp của các nước trong vùng. Ngưòi ta có thể không thích ý kiến quốc tế hóa các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì nó liên hệ tới chủ quyền về lãnh thổ và lãnh
hải của riêng từng nước, nhưng người ta có thể chấp nhận, nếu không nói là hoan
nghênh việc làm này như một cái tên thuần túy và đơn giản. Các quốc gia Đông
Nam Á đã có một tổ chức chung; đã đến lúc các quốc gia này phải có một cái gì cụ
thể chung. Một vùng biển chung mang danh Biển Đông Nam Á ít ra qua danh xưng của
nó là biểu tượng cho cái gì chung đó vậy.
Trở về với Việt Nam. Như
đã nói ở trên, năm 2010 Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội có thể nói ngàn năm một
thuở. Tuy nhiên lỡ không phải là quá trễ.
Với sự nhập cuộc mỗi ngày một mạnh hơn, mỗi ngày một sâu hơn của Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Phi Luật Tân, Úc và luôn cả Ấn Độ… trong một thế giới đang đổi mới, một
cuộc vận động mạnh hơn cần được khởi động
trở lại. Nên nhớ là chúng ta đang ở Thế Kỷ 21 chứ không còn ở Thế Kỷ 20 nữa.
Vì chủ đề của bài này là Trường
Sa và Hoàng Sa nên người viết thấy cần phải nêu lên một gợi ý khác để các nhà cầm
quyền Cộng Sản ở trong nước hiện tại chứng tỏ sự ghi nhận công ơn của các chiến
sĩ, bất kể là từ miền Nam hay miền Bắc trước kia, đã hy sinh bảo vệ lãnh thổ nước
nhà. Gợi ý đó là : Hãy dùng tên của họ để đặt cho những chiếm hạm mới mà Việt
Nam mới đặt mua hay mới tự đóng để bảo vệ vùng biển của đất nước. Sự đặt tên
này cũng gống như sự dựng tượng đài kỷ niệm chắc chắn sẽ được mọi người hoan
nghênh kể cả các chiến sĩ hải quân của nước Việt Nam hiện tại vì trong khi chiến
đấu chống hải quân Trung Cộng ở Trận Chiến Hoàng Sa hay Trường Sa họ chỉ hướng
tới một mục tiêu duy nhất là bảo vệ lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam hay đồng bào
của họ trước sự xâm lăng của ngoại bang.
Trong hoàn cảnh đó họ không còn là người của miền Nam hay của miền Bắc nữa
mà là của chung của cả dân tộc hay hơn thế nữa họ là những anh hùng chung của cả
dân tộc của thế kỷ hai mươi. Riêng Hạm
Trưởng Ngụy Văn Thà, ông người hạm trưởng đầu tiên của Hải Quân Việt Nam đã quyết
dịnh ở lại, chết theo tàu trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải phía đông
của tổ quốc mình trước một kẻ thù truyền kiếp, đông và mạnh hơn gấp bội. Lê Văn
Tám là một nhân vật hoàn toàn ngụy tạo trong Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất
là điều bây giờ ai cũng biết, nhưng tên của nhân vật ngụy tạo này vẫn được giữ
làm tên các trường học, tên đường, tên công viên. Tại sao ngưòi ta vẫn lờ đi không
nói tới Ngụy Văn Thà và các chiến hữu bất kể Nam, Bắc của ông, những nhân vật lịch
sử có thật, đặc biệt là vào lúc mà Hoàng Sa và Trường Sa là đề tài nóng bỏng của
thời cuộc? Nhưng dù công nhận hay không, những ai còn tin vào sự linh thiêng của
các anh hùng liệt sĩ của dân tộc, vẫn thường dành một phút trong các buổi lễ để
tưởng niệm và tri ân, hẳn phải nghĩ rằng từ trên nền trời cao bao la, xanh thẳm
của Biển Đông, Ngụy Văn Thà và các chiến hữu của ông vẫn luôn luôn theo dõi và
phù trợ cho các hậu duệ của ông trong sứ mạng thiêng liêng bảo vệ lãnh thổ và lãnh
hải phía đông của chung của cả dân tộc và che chở cho những đồng bào của ông vẫn
ngày ngày kiếm sống trong những vùng biển từ
xưa vẫn là của dân tộc mình. Tất nhiên là khi làm công việc này, nhà nước Cộng
Sản Việt Nam hãy làm cho 64 liệt sĩ đã
hy sinh trong Trận Chiến Trường Sa ngày 14 tháng 3 năm 1988 của mình trước. Điều mà cho đến tận năm 2015 này họ vẫn chưa
làm được hay chỉ cho làm một cách rụt rè.
Có điều vinh danh hay không vinh
danh đối với các chiến sĩ này chắc chắn chẳng có gì là quan trọng so với sứ mạng
vô cùng lớn lao và cao cả là bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào của họ.
Phạm
Cao Dương
Nhân
dịp Hội Nghị Quốc Tế về Biển Đông họp
tại
Manila cuối tháng 3 năm 2015