Thứ Tư, 25 tháng 3, 2015
Trần Vinh Dự - Làn sóng tư nhân hóa mới: những nỗi sợ
![]() |
Tony Blair - www.madstudio.biz |
Cựu Thủ tướng Anh quốc, ông Tony Blair, người đang giữ vai trò cố vấn cho Chính phủ Việt Nam từ năm 2013, gần đây đã có một phát biểu thú vị tại cuộc hội thảo do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức liên quan đến việc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Theo ông, “cải cách mà không có chống đối thì là kém, sự chống đối là đương nhiên và quá trình cải cách cần phải vượt qua”.
Phát biểu của ông thú vị ở
chỗ nó phủ nhận câu chuyện đồng thuận trong cải cách và đề cao tính quyết đoán
của những người lãnh đạo quá trình này. Nó cũng thú vị về mặt thời điểm. Trong
những ngày này, ở Việt Nam đang diễn ra một cuộc tranh luận sôi nổi về việc bán
các tài sản nhà nước trong lĩnh vực hạ tầng cũng như việc tư nhân hóa triệt để
(theo nghĩa nhà nước bán hết, hoặc gần hết sở hữu của mình) một số doanh nghiệp
nhà nước trong lĩnh vực hạ tầng.
Cuộc tranh luận này xuất
phát từ một số giao dịch tiềm năng lớn. Hồi đầu tháng 3 vừa qua là câu chuyện
tập đoàn Vingroup đề xuất mua 80% cổ phần tại Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng và
80% tại Công ty TNHH một thành viên cảng Sài Gòn. Trước đó, hồi đầu tháng 2 là
việc Bộ Giao thông Vận tải muốn thí điểm nhượng quyền khai thác sân bay Phú
Quốc và một phần nhà ga Nội Bài để lấy vốn đầu tư các dự án sân bay khác (và
ngay lập tức đã có Vietjet Air và Vietnam Airlines ngỏ ý muốn mua). Trước nữa,
trong tháng 1, tập đoàn T&T của ông Đỗ Quang Hiển (chủ tịch ngân hàng SHB)
đã có đề nghị mua lại toàn bộ 100% sở hữu nhà nước tại cảng Quảng Ninh và quỹ
đầu tư Vietnam - Oman (viết tắt là VOI) được chấp thuận về mặt chủ trương để
mua tối đa 29,68% Cảng Hải Phòng từ tay Vinalines.
Đó là chưa kể hồi cuối
tháng 2 và đầu tháng 3, Bộ Giao thông Vận tải còn quyết liệt muốn bán tới năm
dự án đường cao tốc gồm Nội Bài - Lào Cai, Cầu Giẽ - Ninh Bình, Bến Lức - Long
Thành, TPHCM - Long Thành - Dầu Giây, và Đà Nẵng - Quảng Ngãi. Nói như Bộ trưởng Đinh La
Thăng
thì “không có công trình nào là không thể xã hội hóa được” và dự án nào bán
được, giá hợp lý thì bán luôn, nếu bán cả dự án khó thì chia nhỏ ra để bán.
Nếu như câu chuyện cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực truyền thống gần như có
được sự đồng thuận trong xã hội, thì làn sóng mới lại vấp phải nhiều ý kiến
trái chiều, thậm chí đến từ những người trước nay vốn ủng hộ quá trình này. Tựu
trung lại, có 4 nỗi sợ chính khiến nhiều người hoài nghi hoặc phản đối.
Đầu tiên là câu chuyện bán
rẻ bán đắt.
Việc định giá để có “giá hợp lý” (fair price) đối với các doanh nghiệp đã niêm
yết vốn dĩ khó (vì nó tùy thuộc vào điều kiện thị trường và hàng loạt các biến
động ngắn hạn), việc định giá các tài sản hoặc các giá trị các doanh nghiệp nhà
nước đang sở hữu còn khó hơn nhiều lần. Lý do là thông thường các doanh nghiệp
nhà nước làm ăn kém hiệu quả, vì vậy đánh giá giá trị của chúng dựa vào số liệu
kinh doanh trong quá khứ sẽ không chính xác. Nếu định giá dựa vào các dự phóng
tương lai sau khi chuyển sang tay tư nhân thì lại càng khó chính xác. Vì thế,
việc bán tài sản hoặc tư nhân hóa thường được dựa vào việc đấu thầu công khai.
Thế nhưng việc đấu thầu
công khai khi bán các doanh nghiệp nhà nước lớn, hoặc các tài sản giá trị lớn
của nhà nước cũng khó ở chỗ không có nhiều nhà đầu tư tư nhân có khả năng tài
chính để mua. Một cuộc đấu giá sẽ chẳng có mấy giá trị nếu như chỉ có vài đối
tượng tham gia, nhất là các đối tượng này lại … nghèo tiền mặt. Đây là một tình
huống rất thực tế ở Việt Nam. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam còn
nhỏ bé và không có nhiều tiền để mua các khối tài sản lớn. Và điều này làm cho
tính cạnh tranh của các cuộc đấu giá không cao. Đó là chưa kể trong một số
trường hợp thậm chí còn không qua đấu thầu.
Điểm thứ hai là mối lo tài
sản rơi vào tay các nước không thân thiện (chủ yếu là Trung Quốc). Sẽ không mấy người quan
tâm nếu nhà đầu tư nước ngoài muốn mua một doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực
phân bón đến từ đâu, vì phân bón không có liên quan gì đến an ninh quốc gia
(trừ khi họ kiểm soát cả thị trường phân bón). Thế nhưng các cơ sở hạ tầng quan
trọng như cảng biển, sân bay, đường cao tốc, các vùng mỏ hoặc lâm trường lớn,
hay thậm chí các cơ sở giáo dục đào tạo thường làm nhiều người lo ngại nếu rơi
vào tay các nhà đầu tư đến từ các quốc gia không thân thiện. Quan ngại này
không phải không có cơ sở, nhất là trong những giai đoạn nhạy cảm về mặt ngoại
giao.
Vì thế, dư luận nói chung
thường thích nguồn tiền đến từ trong nước hoặc đến từ các nước phát triển
phương Tây có quan hệ thân thiện với Việt Nam. Vấn đề khó ở chỗ các rủi ro
chính sách (regulation risk) ở Việt Nam là lớn, đặc biệt trong các lĩnh vực
chịu kiểm soát chặt của nhà nước như hạ tầng, vì thế khó thuyết phục phương Tây
đầu tư. Trong khi nguồn tiền trong nước không nhiều, và nguồn tiền từ các nước
không thân thiện lại dồi dào, đây thực sự là vấn đề không mấy dễ chịu và khó
tránh.
Điểm thứ ba là nỗi sợ tư
nhân lũng đoạn. Các tài sản liên quan đến hạ tầng thường có tính độc
quyền cao, tức là khách hàng ít có lựa chọn khác. Vì thế, không ít người lo
ngại khi rơi vào tay tư nhân giá cả sẽ tăng đột biến, gây bất lợi cho người
tiêu dùng. Đó là chưa kể không chắc khu vực tư nhân ở Việt Nam, vốn hết sức non
trẻ trong lĩnh vực hạ tầng, có thể khai thác một cách hiệu quả các tài sản này.
Bên cạnh đó thì viễn cảnh
một vài tập đoàn tư nhân vượt lên trở thành những doanh nghiệp kếch xù và đa
ngành theo kiểu Chaebol của Nam Triều Tiên cũng không phải là một viễn cảnh vui
vẻ gì với nhiều người Việt Nam, đặc biệt là việc các tập đoàn này vượt lên lại
thông qua các giao dịch mua lại tài sản nhà nước với giá hời. Ở đây có một thế
tiến thoái lưỡng nan, đó là nếu không phải tập đoàn lớn thì không thể có nguồn
lực tài chính để mua, mà nếu tập đoàn lớn mua thì họ sẽ còn trở nên lớn hơn
nữa.
Điểm thứ tư không kém quan
trọng là nỗi sợ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này được hiểu trên
cả hai nghĩa – sự kiểm soát của kinh tế nhà nước và khả năng đảm bảo phúc lợi
xã hội của nhà nước. Ở góc độ thứ nhất, nếu như việc tư nhân hóa các công ty
“vô hình” ít làm người ta lo ngại thì việc bán các tài sản mang tính biểu tượng
(thí dụ một phần nhà ga Nội Bài) rõ ràng khiến nhiều người vốn vẫn tin tưởng
vào vai trò dẫn dắt (hoặc chủ đạo) của kinh tế nhà nước phải giật mình.
Ở góc độ thứ hai, việc bán
các tài sản hạ tầng, hay việc xã hội hóa các mảng vốn trước giờ được bao cấp
như y tế hay giáo dục, cũng làm nhiều người lo sợ rằng dân chúng sẽ không còn
được hưởng các dịch vụ thiết yếu này với giá rẻ như trước. Và vì thế nhiều
người sẽ mất cơ hội thụ hưởng các dịch vụ thiết yếu này. Điều đó, nếu xảy ra,
sẽ trực tiếp làm xói mòn một trong những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội –
đó là bảo đảm sự bình đẳng.