Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2015
Thanh Tâm Tuyền - Dọc Ðường
Ba người đàn ông ngồi quây xung
quanh cái bàn gỗ tròn trong quán và cùng hướng về phía quốc lộ chạy mất hút
trong rừng cao su ở hai bên. Quán bằng lá nằm cuối dãy phố mươi lăm chiếc, sát
cạnh con đường đất xe hơi có thể vào ngăn phố với rừng cao su. Đầu trên dãy phố
là đồn dân vệ rào ba lần thép gai trên treo lủng lẳng những ống lon rỉ. Người
đàn ông ngồi ngoài cùng kế cây cột chống, mặc áo lá quần xà lỏn, một chân co
lên mặt ghế, tay bưng ly cà phê uống từ hớp nhỏ. Người đàn ông liền bên vận
quần áo kaki sờn rách, đầu đội nón bẻ vành, chân đi giày không vớ, cầm chiếc
muỗng nhỏ xíu gõ nhịp lên bàn. Người ngồi tách riêng một phía già hơn hết, tóc
tiêu muối, vận quần lãnh đen bám bụi đỏ, áo túi trắng ngả mầu, trước một ly cà
phê sữa.
- Có lẽ tụi nó về hết rồi. Ông già
nói.
- Còn mà. Ít nhất còn cái 601 chưa
về.
- Vậy ai chơi nổi với mày nữa. Mầy
thuộc hết số xe còn gì? Thằng này điếm quá.
- Ờ... tôi nhớ nhưng biết cái nào
tới trước cái nào tới sau?
Người vận quần áo kaki đỏ mặt cãi với
ông già. Người vận áo lá quần xà lỏn nói:
- Ăn chung gì. Giờ mình chơi hết
các thứ xe đi.
- Đâu có được mầy. Mắt tao nhìn
không rõ. Xe be chạy cà rề cà rề tao còn ngó thấy. Chớ bọn xe đò, xe nhà giờ
này nó chạy trối chết làm sao tao trông kịp.
- Ai ăn lận tía mà tía sợ.
Ông già lắc đầu:
- Tao cũng không chơi nữa.
Bà chủ quán mập bự, ngồi phía
trong, nửa dòm vô trong nhà, nửa dòm ra trước, hỏi giọng khan như bị cúm:
- Nãy giờ cha nào ăn?
- Huề. Không ai ăn thua hết. Người
đàn ông đội nón phân trần. Ông già xỏ dép, đứng lên thọc hai tay vô túi áo, móc
tiền:
- Nè, trả tiền ly cà phê. Tao về
cho sớm. Tối nay thế nào cũng có hành quân.
Ông đặt mấy đồng bạc cắc lên bàn,
bỏ ra theo phía hông quán, bước ngay xuống con đường đất đi sang phía rừng cao
su, vòng vào một gốc cây ngoài bìa đứng tiểu. Tiếng nước chảy mạnh soi vào thân
cây, người đội nón nghiêng đầu ngó la to:
- Ông già gân dữ quá ta.
Người ngồi ngoài cùng chợt vểnh tai
nghe ngóng. Tiếng ầm ì ở tít xa.
- Còn tao với mầy hả?
- Đâu có ngán.
- Bài cào hay sóc dĩa?
- Thứ nào cũng được. Cho mày lựa.
Người vận áo lá vừa nhíu mày suy
nghĩ vừa lắng nghe tiếng động. Khuôn mặt dài ốm nhăn nhó. Người đội nón dở
chiếc nón xuống dò xét kín đáo hơn, cặp mắt mơ màng nhìn vào những lối cao su
thẳng tắp. Ông già từ sau cái gốc cây bước ra đường cũng ngửa cổ nghe.
- Đậu cái này rồi về tía. Người đội
nón gạ gẫm.
- Tụi bay tuột dù hết rồi. Máy trực
thăng đó.
Hai người đàn ông còn ngồi trong
quán ngó nhau. Người đàn bà cũng nói:
- Trực thăng thiệt.
Vài phút sau, tiếng động cơ nổi rõ,
tới gần. Chiếc trực thăng bay sà thấp ngang qua quán, sang phía rừng cao su bên
kia lộ, quần vài vòng lớn rồi trở lại hướng cũ. Ông già nhìn theo, cười khoái
trá biểu: Tao biểu mà. Rồi ông bước đi. Con đường đất chạy men bìa rừng cao su
dẫn tới một xóm lá lơ thơ. Buổi chiều vàng rực ở phía đồn Dân vệ, nhưng phía
rừng cao su xanh sẫm. Xuyên qua những gốc cây thẳng tắp đến cả hai cây số ngàn
một chút trời sáng của quãng lộ quẹo như rớt xuống ngang tầm đất. Hai người dân
vệ từ trong lối xóm trở ra, chân mang giầy bó túm ống quần bám sình và bụi đất;
một người đeo súng hai tay bưng trên miệng nút vào chiếc lá tre non kêu chít
chít từng hồi như tiếng chim, một người quàng hai tay trên hai đầu súng đặt
ngang cần cổ ngó phía trước, cả hai đều mặc đồ đen đội những chiếc nón vải đen
có lưỡi. Họ rẽ vào quán, dựng súng vô vách, ngồi vào chiếc bàn gỗ còn dư trống.
Một người kêu người đàn ông vận áo lá:
- Còn nước đá không?
Người sau này vẫn ngồi nguyên thế
co chân, chỉ xoay nửa thân trên hỏi lại người đàn bà.
- Còn nước đá không mầy?
- Để coi... Chắc còn...
Người đàn bà vác tấm thân nặng, lê
bước vô sau bếp, lục cục tìm kiếm và hỏi ra ngoài:
- Mấy chú uống gì?
- La de.
Người dân vệ vẫn bưng tay lên miệng
hút kêu những tiếng chít chít, trong khi người bạn ngó lên tấm vách trong có
các giá bầy các chai nước hơi màu xanh, màu đỏ, màu vàng, màu trắng, màu nâu,
xếp dài theo vách ám khói đen. Chỉ còn hai chai la de trên giá. Người đàn ông
vận áo lá, chủ quán, nhăn mặt ngó chỗ khác vì tiếng nút kêu của người dân vệ.
Người đàn ông đội nón liệng chiếc muỗng xuống bàn kêu:
- Cha. Lâu thấy mẹ.
Người đàn bà mang hai cái ly đá
chặt cục bự nhô khỏi miệng ly đặt trước mặt hai người dân vệ, rồi lại ì ạch
quay trở vô giá lấy nước. Mụ dùng răng cắn mở nút chai xong cất tiếng hít hà, đưa
cánh tay áo quẹt ngang mồm. Ly của người dân vệ mải chơi với trò chơi bọt sùi
tràn xuống bàn. Anh ta buông tay, chiếc lá tre xanh nõn ép dính dọc theo ngón
tay bên phải. Anh thủng thẳng lột chiếc lá liệng vào vũng nước trên bàn. Người
bạn hỏi:
- Uống lẹ đi mầy. Bọn chúng đi qua
thấy về lại cằn nhằn.
Người đàn ông đội nón bỏ ghế ra
ngoài hè đứng ngó mông hai đầu đường vắng ngắt như tờ. Đằng chân trời trước
mặt, tiếng phi cơ ầm ỳ rồi tắt lặng không thấy dáng. Cách quán hai ba nhà, là
tiệm sửa xe máy. Một người thợ liu hiu làm việc với chiếc xe máy lật chổng bánh
lên trời. Người đội nón quay vô biểu:
- Tối nay về Biên-hòa ngủ. Còn cái
sáu lẻ một mà.
- Ờ, để coi.
Hai người dân vệ uống cạn ly đứng
lên sửa lại quần áo, đội mũ đeo súng, trả tiền sửa soạn bước ra khỏi quán.
Người đàn bà vừa nhét tiền vô túi vừa nói với chồng:
- Có đi Biên-hòa coi chừng giùm tôi
vụ đó.
Hai người dân vệ đi ra khỏi quán,
tiến về phía đồn, dáng đi nghiêm chỉnh hơn. Người nút lá tre đi trước cách bạn
chừng hai ba thước, cả hai đều quay dòm vô các mặt phố. Có tiếng gọi trong rào
kẽm gai ở đồn và họ cất bước chạy lúp xúp. Trong quán người đàn bà nói, trong
khi người chồng mở hộc tủ của cái bàn trên bày mấy ve bánh kẹo, chai tôm khô củ
kiệu chỉ còn thấy nước đục vàng, kê bên dưới giá xếp nước hơi, lấy tiền. Trên
đầu người đàn ông treo tòn ten vào móc sắt hai nải chuối già và chuối sứ:
- Mấy cha chỉ bầy chuyện đi chơi
không à?
Người đàn ông đi tới cái ghế bố đặt
bên vách, nơi người vợ ngồi để vừa ngó phía sau phía trước, lượm áo sơ mi khoác
lên thân, nói:
- Mầy không thấy trực thăng quần
nãy giờ sao mầy. Bộ mầy muốn tao chết...
- Còn tôi dễ tôi không chết hả. Cứ
đi hoài tiền đâu chịu cho thấu.
- Tao là đàn ông mầy nghe chưa? Ở
nhà để lỡ như lần trước chúng vô bắt kéo thây về rừng cho chúng. Một mình tao
phải kéo bốn cái thây mầy nhớ không, cả đêm, cả ngày tới chừng về phát đau còn
bị người ta kêu lên kêu xuống hỏi hoài... Đ.m... thứ đồ đàn bà ngu!
Người vợ kéo quần lên tới bắp vế
gãi, mặt mụ đờ đẫn không còn phản ứng. Người đội nón trở vô quán nói tiếp:
- Máy bay quần là có chuyện mà...
Người đàn ông chủ quán tỏ vẻ khinh
bỉ vợ, bỏ vô sau rửa mặt, rửa chân, rồi thủng thẳng trở ra xỏ quần. Hai người
đàn ông ra đứng trước quán. Trong rừng cao su nghe tiếng còi xe nhận inh ỏi,
hai ba chiếc xe đò đua nhau chạy tới. Dẫn đầu là một chiếc “bờ dô” mũi khoằm
theo sau là hai xe cá. Chiếc “bờ dô” thắng ngay trước quán, hai chiếc xe cá
vượt đi luôn. Người đàn ông chủ quán quay vô biểu vợ:
- Tao đi nghe mầy.
Người vợ nặng nề bước ra, dặn dò:
- Mai sáng về ghé chợ mua đồ về
nghe.
Người đàn ông mới dớm đặt chân lên
thang phía sau xe, đợi bạn chui vô khoang nói:
- Đ.m. Nhớ mà.
Người lơ chạy vô quán nói: Xin
miếng nước chị Hai. Không đợi trả lời, thót vô nhà sau. Người tài xế nhấn còi
thúc hối, ló đầu ra ngoài:
- Tính ngủ trong đó sao mầy?
Người lơ chạy ra mặt còn nhẫy nước,
nhảy bám vào đuôi xe la lên:
- Rồi, chạy đi.
Chiếc xe từ từ ngừng trước đồn dân
vệ. Người lính gác trong chòi canh bắc loa tay kêu đuổi: Tới trong kia đậu. Chiếc xe chuyển bánh đi qua hết đoạn đường rào kẽm gai đậu trước quán hớt tóc.
Người lơ nhảy xuống đất kêu vô trong:
- Xuống lẹ lên cha nội.
Một người đàn ông tay ôm bọc giấy
dầu, lom khom bước xuống. Tới đất, người đàn ông muốn trở lên, nói:
- Không phải đây.
Người lơ đã bước lên bục gỗ đưa tay
cản ngang:
- Vậy tía quên hay tía lầm đường
rồi. Tía ráng đợi đây đón xe mà về. Chớ tôi cứ ngừng hoài đợi tía kiếm nhà tới
đêm tụi tôi mới về nhà. Cô bác kêu quá trời.
- Cho tôi đi khúc nữa.
- Tía hết tiền rồi. Rồi, chạy đi.
Chiếc xe rồ ga vọt thẳng vào phía
rừng cao su sẫm lạnh. Người đàn ông đứng lại bên đường ngơ ngác. Hắn vận bộ bà ba
đen, chân đi săng đan, tóc cắt ngắn, mặt mũi gồ ghề xanh xao. Hắn ngửa mặt nhìn
lên trời trông chiếc trực thăng từ phía rừng cao su bay tới, đứng im rồi hạ
thấp trên bãi đất trống bên kia đường. Tiếng nổ ù tai, cánh quạt quay cuốn bụi
đất mù một khoảng; cỏ cây ngả rạp. Người lớn, con nít túa ra khỏi nhà ngắm coi,
tiếng người kêu gọi bị gió và tiếng động cơ quạt bay tung mất hút. Chiếc trực
thăng đáp xuống nhưng không tắt máy, nó đậu vài phút rồi lại từ từ cất lên và
bay về hướng đồn dân vệ tránh xa quốc lộ. Trẻ con và người lớn còn đứng lại
ngắm và bàn tán. Một vài người nhìn thấy người đàn ông vận bà ba đen ôm bọc
giấy dầu đứng trước quán hớt tóc. Quán hớt tóc là một bức vách gỗ thùng sữa và
hai cây cột ngoài, ba mặt bỏ trống. Trong quán không có người, thợ đã nghỉ,
nhưng vẫn còn một chiếc ghế ngồi trước một tấm gương đóng chặt lên vách, dưới
tấm gương là một cái hộc gỗ buộc treo bằng dây kẽm, không có một vật dụng nào để
trên. Người đàn ông ngó thấy mặt mình trong gương, con lộ bãi cỏ, mô đất cao xa
mờ; hắn ngoảnh mặt bước tới quay lưng lại đồn dân vệ hướng về phía rừng cao su.
Kế bên quán hớt tóc là tiệm chạp phô của người tàu tới một căn nhà đóng cửa,
trên các cửa đóng dán những bích chương và khẩu hiệu tuyên truyền tới một tiệm
trữ Âu dược, một tấm bảng gỗ treo ngang đong đưa với dấu thập đỏ. Qua khỏi tiệm
trữ Âu dược là một nền nhà đổ rồi một khoảng đất vuông cao hơn mặt đồng trồng
rau muống, làm chỗ họp chợ. Trên nền đất có vết cháy đen loang, cỏ vàng úa
không mọc được. Sát chợ là nhà việc, mái thủng, tường lổ chỗ vết đạn, các cửa
sổ bể gãy, tấm bảng treo rớt chỉ còn một đầu dính trên tường, nhìn vào trong
gạch ngói bừa bãi chưa thu dọn. Nhà kế bên nhà việc cũng bị sập mái trước. Khỏi
gian nhà đổ, dãy phố nguyên vẹn. Người đàn ông đi qua một tiệm một người con
gái Tàu lai ngồi đọc báo sau quầy hàng; một tiệm bán sách vở và tạp hóa; một
lớp học với mươi bộ bàn ghế và tấm bảng đen; tiệm sửa xe máy với người thợ đang
lui hui sửa ngoài hè. Người đàn ông ôm gói đứng lại nhìn người thợ làm việc.
Anh này chợt ngửng lên toe miệng cười với người đàn ông nhưng nụ cười tắt ngay
tức thời. Anh thợ ngừng hẳn tay ngắm nghía người lạ. Người đàn ông cố gắng
cười, gượng gạo hỏi:
- Giờ này xe còn trở xuống không
anh Hai?
- Có lẽ hết.
Nói xong, người thợ tiếp tục làm
việc, bỏ mặc người lạ đứng ngẩn nhìn xuống. Một hồi im lặng người đàn ông nói:
- Cám ơn anh Hai.
Người thợ không đáp, cũng không ngó
lên. Và người đàn ông lại bước đi. Kế tiệm sửa xe là tiệm chạp phô của người di
cư. Người đàn bà quần áo nâu răng đen, vấn khăn, mắt hấp háy đứng bên mấy bó
củi và tĩn nước mắm ngó người lạ mặt chằm chằm. Người đàn ông ngó mông sang
rừng cao su bên kia lộ. Hắn đi qua hai căn nhà nữa. Trước một căn nhà đóng cửa,
đặt một cái lu nhỏ đậy nắp gỗ và một cái ca nhôm máng trên tường. Người đàn ông
tiến lại bên cái lu, đặt gói giấy xuống hè, mở nắp lu lấy cái ca múc nước trong
lu uống ừng ực. Uống xong hắn lại múc thêm một ca đầy đứng xích ra gần lộ đổ vào
tay rửa mặt và cổ. Nước trà màu nâu đen. Lấy khăn trong túi áo lau khô mặt, hắn
đậy lu, máng ca trở lại chỗ cũ, ôm gói đồ đi tới chỗ tận cùng dãy phố là con
đường đất đỏ vắng hoe ngăn cái quán và rừng cao su. Hắn đứng ở đầu đường đất
ngó mông vào xóm, nhìn con lộ chạy ẩn giữa hai hàng cao su tối. Hắn bước vào
quán ngồi bàn phía ngoài, đặt gói đồ lên một cái ghế. Người đàn bà mập từ sau
bếp bước ra nói:
- Hết trơn nước đá rồi. Cà phê cũng
hết...
- Thím cho ngồi nghỉ đỡ đón xe.
Người đàn bà ngó khách từ đầu tới
chân. Trong rừng cao su tiếng ve bỗng kêu từ xa tới gần. Người đàn ông ngó
quanh khắp quán hỏi:
- Thím có bán cơm không?
- Không, không có cơm.
Người đàn bà bỏ vô nhà sau. Người
đàn ông ngồi thẳng lưng, mó máy bật cái dây thun buộc gói giấy dầu. Hắn móc
trong túi áo lấy ra một xấp giấy gói kỹ kiểm lại và đếm những tờ giấy bạc. Mấy
tờ giấy năm đồng, mười đồng. Người đàn bà trở ra hỏi:
- Không có xe hả?
- Không có. Sợ hết.
Người đàn bà bỗng lắng nghe bảo:
- Có xe be tới đó.
Người đàn ông vội ôm gói đồ chạy ra
lề đường. Hai chiếc xe be kềnh càng rần rần từ trong rừng cao su, xe chạy chậm.
Người đàn ông đưa tay lên cao vẫy kêu: Cho quá giang... Hai người tài xế đưa
tay vẫy chào và xe vẫn chạy.
Người đàn ông thất vọng lầm lũi trở
vô quán. Từ một trại binh xa lắc vọng lại tiếng kèn chào cờ buổi chiều. Ve kêu
rộn hơn. Người đàn bà hỏi:
- Chú ở đâu tới?
- Tôi kiếm thằng em của tôi làm đồn
điền cao su. Có lẽ tôi đi lộn xe, mấy năm trước tôi có lên đây một lần nhưng
không nhớ rõ. Tôi nhớ khu nó ở gần lộ.
- Ôi, đồn điền cao su biết mấy mà
kiếm? Đồn điền tên gì ở đâu mới được chớ?
- Tôi không nhớ, tới đúng nơi thì
tôi biết.
- Chú nói chuyện trời đất không à.
Người đàn ông đặt gói đồ lên bàn,
hai tay ngồi ôm lấy nó. Người đàn bà đột ngột sẵng giọng hỏi:
- Giờ chú tính sao?
- Tôi không biết tính sao hết. Tôi
đón xe.
Người đàn bà cao giọng:
- Chú nói cà rỡn hoài. Giờ này kiếm
xe... Chú tính mà mất toi. Bộ khi không chú ngồi đó không cho tôi đóng cửa tiệm
đi ăn cơm hả. Chú tính chuyện gì? Tôi kêu lính trên đồn tới bây giờ...
Người đàn ông sửng sốt, giật hai
tay ôm gói đồ vào bụng ngó trân người đàn bà:
- Tôi nói thiệt mà thím. Tôi đón xe
mà.
- Mà tôi biểu chú không còn xe nữa.
Chú tính cách sao?
Người đàn ông ngó ra lộ, ra ngoài
rừng, nói một mình:
- Ờ. Không còn xe.
Tiếng ve kêu chỉ còn lẻ tẻ, rời rạc
xa xa. Trời bắt đầu tím trên nền bóng núi xa. Người đàn bà tìm quẹt đốt cây đèn
dầu hôi mắt vẫn dòm chừng khách lạ. Một chiếc xe díp vụt ngang ngoài lộ như một
cơn gió. Người đàn ông dợm đứng dậy như tính rượt theo kêu, lại ngồi xuống ghế.
Đèn thắp lên. Cửa bên hông mở ra phía con đường đất bên kia bìa rừng đã đóng.
Người đàn bà đặt cây đèn lên bàn trong, tiến đến gần người đàn ông hỏi:
- Giờ chú tính sao?
Người đàn ông ngập ngừng:
- Thím cho tôi ngủ đậu. Thím làm
phước. Mơi tôi đón xe về sớm.
Người đàn bà kêu lên:
- Đâu có được chú. Nhà tôi đâu phải
nhà cho mướn. Biết chú là người thế nào mà cho chú ngủ đậu. Lỡ đêm chú cắt cổ
tôi sao? Chồng tôi đi khỏi, tôi không chứa đàn ông...
- Thiệt tình mà thím..., tôi đi
kiếm thằng em tôi. Thím làm ơn làm phước... Chớ giờ này tôi biết tính sao?
Người đàn bà suy nghĩ vài giây:
- Bộ chú lỡ đường thiệt à...
- Thiệt mà thím. Chớ khi không tôi
tới đây làm gì.
Người đàn bà lại cao giọng:
- Không được. Chú ở đâu tới, tôi
không biết. Chú xin ngủ đậu, không được. Lỡ đêm có chuyện gì người ta xét nhà,
tôi nói sao. Không được. Tôi thương chú, ai thương tôi. Thôi chú đi đi, cho tôi
đi ăn cơm. Tôi đói bụng rồi.
- Tôi đi đâu?
- Đi đâu thây kệ chú chớ. Mắc mớ gì
tới tôi.
Người đàn ông chậm chạp đứng lên nhưng
chưa bước đi. Người đàn bà tự động lùi lại một bước thủ thế. Người đàn ông nài
nỉ:
- Tôi đi đâu? Thím nghĩ coi...
- Tôi không biết! Mấy người rắc rối
lắm. Tôi không kêu lính trên đồn là may phước lắm.
Người đàn ông ngập ngừng bước ra
khỏi quán. Dãy phố và con lộ im lặng như tờ, chỉ nghe tiếng ve rộn xa và tiếng
côn trùng khởi trỗi lẻ tẻ ở bãi cỏ. Người đàn bà khép cửa quán lại nhưng vẫn
còn ló đầu dòm theo người lạ. Người đàn ông đi trở ngược dãy phố. Trong tiệm
chạp phô, gia đình đang ăn cơm trên bộ ngựa ở ngoài. Người đàn bà vấn khăn đang
bới cơm không ngó thấy bên ngoài.
Người lạ mặt đứng lại trước tiệm
sửa xe. Người thợ đã tắm rửa, thay đồ, ngồi trên ghế ngay trong cửa ôm cây đàn
ghi ta đang khẩy. Người đàn ông đứng lại, rồi tiến tới bên cửa:
- Chào anh.
Người thợ ngừng tay khẩy, ngó lên
hỏi:
- Gì anh?
Người đàn ông đứng trân một hồi mới
nói:
- Anh hai làm ơn chỉ giùm tôi có
chỗ nào ngủ đậu một tối, tôi lỡ đường hết xe rồi.
Người thợ cười riễu, gác cẳng lên
thềm cửa:
- Chỗ ngủ đậu. Anh tới đầu quán kia
hỏi coi...
- Tôi hỏi rồi. Họ không chịu.
- Vậy tôi cũng chịu.
Người thợ lại tiếp tục khẩy đàn và
cười một mình. Người đàn ông vẫn đứng yên tại chỗ:
- Anh Hai cho tôi ngủ đậu. Dưới đất
cũng được. Mơi tôi đón xe về sớm.
- Cha nầy giỡn hoài ta. Tôi đâu quen
biết anh.
- Anh cho tôi ngủ đậu một tối thôi.
- Bộ anh cho là tôi khùng hả. Cha
này kỳ quá...
Người đàn ông quay mặt về phía rừng
cao su trong ấy bóng tối đã dầy – Ngoài rừng trời chạng vạng nhá nhem. Người
đàn ông đi tới bên lề đường. Một vài tiếng đại bác nổ ầm ở xa. Hắn đi vài bước
về hướng nhà việc rồi bỗng quay bước. Trong tiệm xe máy tiếng đàn dạo đến khúc
mùi mẫn. Hắn đến trước căn nhà có đặt lu nước ở ngoài và đứng đợi. Nhà cửa đóng
kín không thấy ánh sáng. Hắn gõ nhẹ lên cánh cửa rồi nghe ngóng. Có cả mấy phút
không tiếng trả lời. Trong nhà tiếng niệm Phật rất nhỏ. Hắn đứng đợi nghe tiếng
mõ đều đều thỉnh thoảng đệm tiếng chuông. Trời cứ tối dần. Một hồi hắn lại gõ
cửa và sau tiếng ho là tiếng hỏi nhỏ:
- Ai đó?
Người đàn ông không đáp. Hắn lại gõ
cửa. Trong nhà lại nghe tiếng hỏi: Ai đó? Tiếng động trên cửa và một lỗ hổng
tròn được kéo ra ngang tầm ngực người đàn ông:
- Ai ở ngoài đó?
Người đàn ông cúi nghiêng xuống
ngang mặt với lỗ hổng:
- Tôi lỡ độ đường.
- Chú kiếm ai?
- Dạ không, thưa bác, con kiếm chỗ
ngủ tối nay. Bác cho con ngủ nhờ.
Bên trong im lặng khá lâu, tiếng
thì thào rồi nghe giọng già cả run rẩy:
- Thôi chú ơi, tôi tu hành chú đừng
phá tôi.
- Thưa bác thiệt tình con lỡ đường.
Con đi kiếm thằng em mần trong đồn điền cao su lại lên lộn xe. Giờ không có xe
về. Bác cho con ngủ đậu một tối. Mai con đón xe về sớm.
- Thôi mà chú, chú kiếm nơi khác.
Tôi tu hành mà.
- Không đâu họ chịu cả. Bác làm
phước thương con.
- Tôi biết chú nói thật. Nhưng chú
thương chúng tôi. Chúng tôi không làm hại ai cả. Chú cảm phiền. Trong nhà chỉ
có mấy bà cháu không có đàn ông. Lỡ ra tội nghiệp, chú ơi...
- Thưa bác con thật tình. Con không
gạt. Con đi kiếm người em.
Bỗng trong nhà có giọng thiếu nữ
ngắt ngang:
- Bà tôi nói thiệt mà. Khi không
tới ngủ đậu. Ai mà tin được. Tụi tôi la bây giờ là lính trên đồn nghe thấy
xuống tới.
- Tôi thiệt tình mà cô hai.
- Thiệt hay không thiệt cũng không
ai chứa người lạ trong nhà.
Một tiếng nổ ầm rung chuyển đất. Lỗ
hổng đóng sập lại và tiếng chân chạy trong các nhà. Mọi cửa đều đóng vội. Những
tiếng nổ tiếp theo còn cách xa. Người đàn ông dáo dác ngó ra đường. Trên trời
phía rừng cao su trái hỏa pháo bắn vọt lên lơ lửng vài phút rồi tắt. Tiếp theo
một trái hỏa pháo khác. Người đàn ông đứng ôm bọc giấy bên lu nước.