Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2015
Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
Chương 3: Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802 - (Phần 1) - tt
Chương 4: Tác phẩm của John Barrow (1764-1848) - (Phần 1)Chương ba
Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802
Phần 2 (tiếp theo)
Trận Thị Nại, 1801,
Võ Di Nguy tử trận
Tháng
1-2/1801 (tháng 12/Canh Thân) Nguyễn Ánh vẫn chưa giải vây được Bình Định mà cửa
biển Thị Nại thuỷ quân Võ Văn Dũng vẫn đóng giữ chặt.
Trần Quang Diệu vẫn vây chặt
thành Bình Định mấy vòng.
Ban đêm Võ Tánh mở cửa thành
ra đánh đốt trại địch, quân Tây Sơn bỏ chạy, nhưng sáng sớm lại trở lại vây đông
hơn.
Đặng Đức Siêu đã dâng chiến
thuật đánh hoả công, nay dụng cụ cho chiến thuật đã làm xong.
Vương mật
định hôm 28/2/1801 (16/1/Tân Dậu), cất quân đánh úp. Để Phạm Văn Nhân giữ Cù Mông.
Vương thân chinh đem thuỷ quân tiến phát.
Nửa đêm
hôm ấy, qua Tiêu Cơ, Nguyễn Văn Trương tiên phong, bắt được lính tuần của Tây Sơn,
biết khẩu hiệu, Trương cho thuyền nhỏ lẻn vào Tiêu Ki, chèo qua thuyền lớn của địch,
đến miếu Tam Toà, chém được đô đốc Trà, đốt rất nhiều thuyền địch. (Liệt truyện,
II, trang 147)
Võ Di
Nguy, Lê Văn Duyệt đem đại binh vừa đến, đánh nhau kịch liệt với quân Võ Văn Dũng
từ giờ Dần (6 giờ sáng) đến giờ Ngọ (12 giờ trưa).
Võ Di
Nguy bị bắn chết.
Lê Văn
Duyệt mặc kệ, cứ xông lên, cuối cùng, đến giờ Thân (4 giờ chiều) lọt vào được vào
cửa biển, dùng đuốc hoả chiến, hợp chiều gió, phóng hoả đốt thuyền đại hiệu. Võ
Văn Dũng thua chạy, thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết.
Trận Thị
Nại 1801 là võ công lớn nhất của Nguyễn Ánh.
Làm xoay
đổi hẳn cục diện chiến tranh.
Trong
trận này có ba người Pháp tham dự là cai đội Nguyễn Văn Chấn (Vannier) quản tầu
thuyền hiệu Phượng Phi; Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau) quản thuyền Long Phi, và
Lê Văn Đăng (de Forcanz), quản tầu Bằng Phi, đi theo Trung quân do Tống Phước
Lương điều khiển. (Thực Lục, trang 407). Họ sẽ còn tiếp tục các chiến dịch Quảng
Nam và Phú Xuân. Công trạng họ như thế nào? Chúng ta sẽ tìm hiểu sau.
Sau khi
thua trận Thị Nại, Võ Văn Dũng thu thập tàn quân hợp lại với Trần Quang Diệu,
sai Tư khấu Định giữ Thạch Tân [biên giới Bình Định-Quảng Ngãi], đô đốc Nguyễn
Văn Ngữ giữ Đạm Thuỷ [Nước Ngọt, Bình Định], đô đốc Võ Văn Sự giữ Tân Quan
[Quảng Ngãi].
Thắng trận
Thị Nại, nhưng Nguyễn Vương vẫn không giải vây được Quy Nhơn.
Ngày
20/3/1801 (ngày Quý Sửu 6/2/Tân Dậu) hoàng tử Cảnh mất vì bệnh đậu mùa tại Gia
Định, ở tuổi 22. Vương sai Nguyễn Văn Nhân và Nguyễn Tử Châu giữ Gia Định.
Ở mặt trận
Phú Yên, Phạm Văn Điềm chiếm bảo Hội An. Nguyễn Đức Thiện, Trần Văn Trạc, Phạm
Tiến Tuấn lui giữ Xuân Đài. Vương sai Nguyễn Đức Xuyên và Tống Viết Phước ra đánh,
Tây Sơn rút quân về.
Nguyễn
Văn Trương chiếm Quảng Ngãi, Quảng Nam, 1801
Tháng
3-4/1801 (tháng 2 ta) Vương sai Nguyễn Văn Trương đem thuỷ binh ra đánh Quảng
Ngãi, Quảng Nam cùng các vệ quân Thần Sách của Phan Văn Đức, vệ Phấn Dực Trung
quân Tống Phước Lương, vệ Thuận Võ Vương Văn Học và các chúa tầu hiệu Phượng
Phi, Long Phi, Bằng Phi là bọn Nguyễn Văn Chấn (Vannier), Nguyễn Văn Thắng
(Chaigneau) và Lê Văn Lăng (De Forcanz) đều thuộc quyền (Thực Lục, trang 432).
Tháng
4-5/1801 (tháng 3 ta), Nguyễn Văn Trương tiến đến cửa biển Cổ Lũy [Quảng Ngãi] đánh
phá kho Trà Khúc, đô đốc Tuấn bỏ chạy.
Phá được
Trà Khúc, Nguyễn Văn Trương tiến vào cửa biển Đại Chiêm, chiếm Hội An và Phú
Triêm. Hoàng Văn Tự đem binh bản bộ tiếp ứng, bắt được 24 thớt voi Tây Sơn. Đại
đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Xuân và trấn thủ Văn Tiến Thể giữ ải La Qua, bị Nguyễn Văn Trương đánh úp, thua chạy, thu được 80
khẩu đại bác.
Nguyễn Văn
Trương chiếm lại dinh Quảng Nam.
Nguyễn
Vương sai Phạm Văn Nhân quản ba chiếc thuyền đại hiệu tiến vào Đà Nẵng, kiêm
quản cả tướng sĩ các thuyền hiệu Long Phi, Phượng Phi, Bằng Phi để cùng sách
ứng.
Cho tham
quân tượng dinh Lê Nguyên, quê Quảng Nam theo Nguyễn Văn Trương điều khiển, dặn
Trương chọn nơi hiểm yếu đặt ba bảo theo hình tam giác, sau bảo có Trường Giang
(sông lớn nối cửa Đại Chiêm với Tam Kỳ) để thuỷ bộ tiếp ứng được nhau (Thực Lục,
trang 434).
Trần
Quang Diệu và Võ Văn Dũng sai đặt đồn bảo liên tiếp ở Phú Hoà, cầu Đông Giang,
cầu Tân Hội, chống lại.
Nguyễn Vương
sai Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Khiêm tiến đánh, thắng, bắt được đô đốc Nguyễn Bá
Phong, nhưng Vệ uý vệ ban trực tả là Võ Văn Tài trúng đạn chết.
Nguyễn Vương
vào đến cầu Tân Hội [Quảng Ngãi].
Tây Sơn
nhiều lần đánh bảo Vân Sơn, Nguyễn Văn Thành sai Lê Chất chống đỡ.
Phạm Văn
Điềm tấn công Phú Yên: Nguyễn Long giữ đồn La Thai, Lưu Tiến Hòa giữ bảo Hội
An, cả hai thua trận, Hòa bị giết. Long chống không nỗi để mất quân lương, bị tội.
Hoàng tử
thứ hai là Hy mất, nguyên giữ chức cai đội, đi theo quân, ở tuổi 20. Sai đưa về
Gia Định chôn cất.
Trong
hai tháng ở mặt trận, Nguyễn Vương chết hai con trai.
Nguyễn
Vương quyết định bỏ Quy Nhơn đánh Phú Xuân
Nguyễn Vương xuất quân từ tháng 5-6/1800 (tháng 4 ta),
trong gần một năm, vẫn chưa giải vây được Bình Định.
Võ Tánh và Ngô Tòng Châu bị vây từ tháng 1/1800, trong
một năm rưỡi.
Thành Bình Định gần hết lương, Trần Quang Diệu và Võ
Văn Dũng bao vây càng chặt.
Vương sai người mật báo cho Võ Tánh nên phá vòng vây
ra hội với đại binh. Tánh trả lời: Liều chết giữ tới cùng. Tất cả quân chủ lực
của Tây Sơn hiện ở đây, hoàng thượng nên lợi dụng đánh Phú Xuân (Liệt truyện
II, trang 108). Đặng Đức Siêu và Trần Văn Trạc [tham thi bộ Hình, Liệt truyện
chép Chạc] cũng khuyên vua nên đánh Phú Xuân hiện đang bỏ trống. Đặng Đức Siêu
biết rõ địa hình Phú Xuân, dâng chiến thuật: "Chia quân thuyền làm hai
đạo: một đạo đánh cửa Tư Hiền, một đạo đánh cửa Noãn Hải (cửa Thuận An)"
(Liệt truyện II, trang 188). Vương mới quyết.
Trận Phú Xuân, 1801
Ngày 5/6/1801
(ngày Canh Ngọ 24/4 Tân Dậu), Vương thân chinh đốc thuỷ quân ra cửa Thị Nại.
Ngày 7/6/1801
(ngày Nhâm Thân 26/4 Tân Dậu) thuyền vua tới Cù Lao Chàm. Gọi Nguyễn Văn Trương
tới Đà Nẵng chờ lệnh.
Tống Viết Phước, Trần Văn Trạc giữ Quảng Nam .
Ngày 8/6/1801
(ngày Quý Dậu 27/4/Tân Dậu) Vương tới Đà
Nẵng họp với các tướng.
Vương quyết định đánh Phú Xuân theo chiến lược của
Đặng Đức Siêu: Thuỷ quân tiến làm hai đạo; một vào cửa Eo (cửa Thận An); một
vào cửa Tư Dung (tức Tư Hiền).
Ngày 9/6/1801 (ngày Giáp Tuất 28/4/Tân Dậu) chia cắt
nhiệm vụ: Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhân tiến ra cửa Eo. Hoàng Văn Tự và
Bạch Văn Đoài đem binh voi theo đường bộ Cu Đê. Thuyền vua tiến đóng ở vụng Chu
Mãi.
Ngày 11/6/1801 (ngày Bính Tý 1/5/Tân Dậu), đại binh
tiến vào cửa Tư Hiền.
Vua Cảnh Thịnh đã sai phò mã Nguyễn Văn Trị và đại đô
đốc Trần Văn Tạ giữ núi Quy Sơn (Linh Thái), cho đóng cọc gỗ dưới lạch sông để
ngăn quân Nguyễn.
Lê Văn Duyệt và Lê Chất đi tiên phong. Quân Tây Sơn ở
trên cao bắn đại bác xuống, quân Nguyễn đánh suốt ngày không tiến được. Đến
đêm, mới sai quân ngầm đội mấy chục thuyền chiến, vượt bãi cát vào phá Hà
Trung, phía sau lưng địch, chia quân theo đường lạch, nhổ cọc mà tiến.
Ngày 12/6/1801 (ngày Đinh Sửu 2/5/Tân Dậu) Vương thân
đốc quân đến bến đò Trừng Hà, Lê Văn Duyệt bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô
đốc Phan Văn Sách. Quân Nguyễn tiến đến cửa Thuận An.
Vua Cảnh Thịnh đem đại quân ra cửa Thuận An chống với
quân Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhân, nhưng chưa giao chiến, đã bỏ chạy.
Ngày 13/6/1801 (ngày Mậu Dần, 3/5/Tân Dậu) Nguyễn
Vương vào Phú Xuân.
Cảnh Thịnh chạy ra Bắc. Vương sai Lê Chất đem bộ binh
đuổi theo, Lê Chất (nguyên hàng tướng Tây Sơn) khua trống đi thong thả, để
Quang Toản thoát, bị gọi về. Nhưng Nguyễn Ánh lờ đi, không bắt tội.
Được tin Phú Xuân bị tấn công, Trần Quang Diệu sai đại
đô đốc Trương Phúc Phượng và các tướng đem đại binh đi đường núi về cứu Phú
Xuân; nhưng bị người Man [người Thượng] đánh lừa, dẫn đi quanh co, hết lương
thực, Trương Phúc Phượng đầu hàng ở Tả Trạch nguyên. Quân Tư khấu Định đến Cao
Đôi gặp quân của Lê Văn Duyệt và Lê Chất, giao chiến, thua trận, Định chết ở
đất Man. Các đạo quân khác bị bắt cả.
Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương đem thuỷ binh tiến
đánh Linh Giang (sông Gianh), chặn đường lui của Tây Sơn. Phạm Văn Nhân giữ cửa
Thuận An, Phan Văn Triệu và Tống Phước Châu giữ Tả Trạch nguyên và Tam ải.
Ra lệnh ai bắt được Tây Sơn thì trọng thưởng, che giấu
thì xử tử.
Lê Văn Duyệt, Lê Chất chiếm lại Quảng Ngãi
Tống Viết Phước tử trận
Tháng 6/1801, mặc dù Tây Sơn đã mất cả Quảng Nam lẫn Phú
Xuân, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng vẫn vây siết Bình Định.
Không những thế, Trần Quang Diệu còn muốn chiếm lại
Quảng Nam, bèn sai đô ngu Nguyễn Văn Giáp, đại
đô đốc Lê Danh Phong, đô đốc Nguyễn Văn Khôn, tham đốc Hồ Văn Tú, đem hơn 7000
quân và 40 thớt voi, ra đóng ở Lương Châu và Phố Hoa, tiến đến Điện Bàn, chiếm
lại Quảng Nam.
Tống Viết Phước xin cứu viện. Nguyễn Vương hạ lệnh
phải giữ thành, không ra đánh đợi viện binh. Rồi sai Lê Văn Duyệt thống lính bộ
binh cùng Lê Chất quay về Quảng Nam và sai Tống Viết Phước đem thuỷ binh về cứu
Bình Định. Lê Chất và Lê Văn Duyệt tới Quảng Nam, Nguyễn Văn Giáp bỏ chạy.
Sau khi chiếm lại được Quảng Nam, Nguyễn Ánh sai Lê
Văn Duyệt, Lê Chất và Tống Viết Phước, đem quân đánh xuống Quảng Ngãi.
Đại binh của Tống Viết Phước, Lê Văn Duyệt, Lê Chất
đến Quảng Ngãi, bắt được Nguyễn Văn Khôn, Hồ Văn Tự, ở bảo Trà Khúc, giải về
Kinh.
Trần Quang Diệu nghe tin Trà Khúc mất, thân hành cùng
với Lê Danh Phong, Từ Văn Chiêu, đem quân, voi ra Tân Quan [Quảng Ngãi] đặt đồn trại dọc núi chống giữ.
Lê Văn Duyệt tiến đóng đồn ở Thanh Hảo [Quảng Ngãi]
đắp lũy dài phòng bị.
Tống Viết Phước đem thuỷ binh vào cửa Sa Huỳnh [Quảng
Ngãi] thắng các trận My Sơn và Cung Quăng,
tiến tới Bức Cốc [tức Hang Dơi ở Bến Đá Bình Định] thì
bị phục binh Tây Sơn giết chết.
Đại đô đốc Lê Danh Phong, thuộc tướng của Trần Quang
Diệu, giữ Tân Quan đầu hàng. Quân Nguyễn chiếm xong Quảng Ngãi.
Trong dịp thăng thưởng tướng sĩ tháng 7/1801, có ba
người Pháp Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau), Nguyễn Văn Chấn (Vannier), Lê Văn Lăng
(de Forcanz) vẫn quản các thuyền hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, được
thăng từ cai đội lên cai cơ (TL, trang 451).
Thăng Nguyễn Văn Trương làm Khâm sai Chưởng Trung quân
Bình Tây đại tướng quân quận công. (TL, trang 452).
Đồng thời, Nguyễn Vương bắt đầu chuẩn bị đánh ra Bắc. Sai
giám thành cai đội Nguyễn Văn Yên đến Động Hải ngắm đo luỹ Trấn Ninh (tức
trường luỹ Động Hải), xem khắp tình thế từ núi Đầu Mâu đến cửa Nhật Lệ, vẽ bàn
đồ (lũy dài 5.120 trượng) (TL, trang 453).
Sai khâm sai thuộc nội cai đội Ba La Di (Barisy) đi Hạ
Châu (Singapore )
tìm mua súng đạn. (TL, I, trang 456)
Sai đắp đường quan từ Phú Xuân đến Động Hải (Trấn
Ninh).
Ngày 30/8/1801 (22/7 Tân Dậu) Vương đi Quảng Bình, xem
hình thế lũy Trấn Ninh, chia đồn đặt súng chống giữ.
Tháng 8-9/1801 (tháng 7 ta) Quân Nguyễn giữ từ Thạch
Tân [Quảng Ngãi] đến sông Gianh có khoảng 4
vạn người, ở Quy Nhơn có hơn 3 vạn (TL, trang 453).
Trần Quang Diệu chiếm lại Quy Nhơn
Võ Tánh, Ngô Tòng Châu tử tiết
Trong khi đại quân của Lê Văn Duyệt, Lê Chất và còn bị
kẹt ở Quảng Ngãi, chưa tiến được, thì Võ Tánh và Ngô Tòng Châu, hết lương thực,
không thể cầm cự.
Thành Bình Định bị Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng bao
vây từ tháng 1/1800 đến tháng 6/1801, là một năm rưỡi. Đã phải giết cả ngựa,
voi để ăn. Thế cùng, Võ Tánh đưa thư, mật tính với Nguyễn Văn Thành liều chết
đánh ra, nhưng phút chót thấy mưu bị lộ, không làm nữa. Bàn với Ngô Tòng Châu,
nộp thành rồi chết.
Ngô Tòng Châu uống thuốc độc tự tử ngày 5/7/1801
(25/5/Tân Dậu). Võ Tánh chôn cất cho Ngô Tòng Châu. Sai lấy củi khô chất dưới
lầu bát giác, viết thư cho Trần Quang Diệu, khuyên tướng sĩ không có tội, không
nên giết hại, rồi phóng lửa tự đốt, hôm đó là ngày 7/7/1801 (27/5/Tân Dậu).
"Tính chết vì nghiã, Diệu dẫn quân vào thành,
trông thấy thương chảy nước mắt ra, lấy lễ thu chôn, tướng sĩ ở trong thành,
giặc không giết hại ai cả. Rồi các tướng sĩ ấy lần lượt ra về." (Liệt truyện II, trang 110).
Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng ngay sau khi vào thành
Bình Định, sai đắp một luỹ ngang ở Vân Thê để chặn đường quân Nguyễn vận lương
cho Thị Nại. Lại sai Phạm Văn Điềm ra đánh Phú Yên.
Tháng 9-10/1801 (tháng 8 ta) Trần Quang Diệu Võ Văn
Dũng đánh Hoa An, Hoa Lộc, chiếm đường tiến đánh Phú Yên. Quân Nguyễn Văn Thành
bị thiệt hại nặng.
Tháng 10-11/1801 (tháng 9 ta), Trần Quang Diệu và Từ
Văn Chiêu đem 18.000 quân tinh nhuệ lên đóng ở địa phận Thanh Hảo [Quảng Ngãi]
trực diện với quân Lê Văn Duyệt và Lê Chất.
Ở mặt trận Phú Yên, Nguyễn Văn Thành đánh nhau với Võ
Văn Dũng. Dũng sai Nguyễn Văn Trí đem 700 quân tiếp viện, Trí bỏ Tây Sơn, theo
Nguyễn Văn Thành.
Từ Quảng Ngãi, Trần Quang Diệu nghe tin Võ Văn Dũng
bại trận ở Phú Yên, bèn đem quân trở về bảo Lĩnh Vạn, để Từ Văn Chiêu ở lại
chống với Lê Văn Duyệt ở Thanh Hảo.
Võ Văn Dũng chiếm được bảo Khôi Diêu (Lò Vôi), đắp luỹ
đất từ Tháp Cải đến Sản Sơn. Nguyễn Văn Thành đánh úp, thắng được.
Tháng 12/1801 (tháng 11 ta), ở mặt trận Quảng Ngãi,
đại đô đốc Tây Sơn Lê Đình Chính ra hàng ở Thanh Hảo. Lê Văn Duyệt sai đóng
gông giải về kinh, được tha. Chính dâng bản đồ 13 đạo thừa tuyên ở Bắc Hà.
Ở Phú Xuân, Nguyễn Vương tiến hành việc chuẩn bị đánh
ra Bắc. Sai Tống Phước Lương đem binh thuyền ra sông Gianh hợp với Đặng Trần
Thường.
Lại sai hữu tham tri bộ Công Nguyễn Khắc Thiệu đem hai
cơ Kiên Châu và Thiện Châu cùng hơn 390 người ty Công bộ về Gia Định đóng 200
thuyền ô, thuyền sai [thuyền đi nhiệm vụ] và thuyền chiến.
Sai Tăng Quang Lưu đi Hà Tiên nấu luyện diêm tiêu để
sung quân dụng.
Sai chúa tầu Phượng Phi là Nguyễn Văn Chấn (Vannier)
và chúa tầu Bằng Phi là Lê Văn Lăng (de Forcanz) chở 15.000 phương gạo từ Quảng
Nam đến quân thứ Thị Nại (Thục Lục I, trang 474).
Trận Trấn Ninh, 1802
Ở mặt Bắc, tháng 12/1801 (tháng 11 ta) Nguyễn Văn
Trương đóng ở Động Hải [tức Trấn Ninh, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình] được
thám tử báo tin đại binh Tây Sơn từ Thăng Long sắp vào, bèn dâng sớ xin thêm
quân.
Vua Cảnh Thịnh cùng em là Quang Thuỳ cử đại binh thủy
bộ 30.000 người vào đánh. Quang Thuỳ vì con vợ thứ, nên là em, nhưng nhiều tuổi
hơn Quang Toản, tính can trường, được Quang Trung cho làm trấn thủ Nghệ An từ
1789. Bùi Thị Xuân, phu nhân tướng Trần Quang Diệu cũng đem 5000 quân bản bộ
đến giúp.
Tư lệ Đinh Công Tuyết làm tiên phong, đụng độ với quân
Đặng Trần Thường ở Hoành Sơn. 200 binh Nguyễn đầu hàng, Đặng Trần Thường rút về
bảo Thanh Hà [huyện Bố Trạch, Quảng Bình].
Đinh Công Tuyết tiến đóng đồn Bụt Sơn, Thiếu tế Nguyên
đóng đồn ở Pháp Kê, Tổng quản Siêu đóng đồn ở Ba Đồn. Đặng Trần Thường lại lui
quân về Ngoã Dinh (Dinh Ngói).
Nguyễn Vương quyết định thân chinh, để quốc thúc (chú
vua) Tôn Thất Thăng giữ Phú Xuân, cùng Nguyễn Văn Khiêm quản quân ngự lâm và
các đội Thần sách. Nguyễn Công Hà và Nguyễn Hữu Chính giữ cửa Thận An.
Nguyễn Vương đến đóng ở Động Hải (Trấn Ninh).
Tháng 1/1802 (tháng 12/ Tân Dậu), Vương triệu Phạm Văn
Nhân (đang giữ cửa Thận An) đến hành tại (chỗ vua đóng quân).
Tây Sơn đánh Ngõa Dinh, Đặng Trần Thường lui về Động
Hải. Tình hình quân Nguyễn khá khẩn cấp.
Vừa lúc đó, binh thuyền Tống Phước Lương đến cửa Nhật
Lệ.
Tây Sơn tiến đến luỹ Trấn Ninh.
Lúc đó mặt trận Bình Định cũng đăng găng, Nguyễn Văn
Thành dâng mật sớ nói Trần Quang Diệu liều chết giữ thành không thể đánh được,
mà lương quân ở Thị Nại đã gần hết. Vua bèn sai Nguyễn Hữu Chính chở 25.000
phương gạo ở kinh ra giúp.
Tháng 2/1802 (tháng 1/Nhâm Tuất) Nguyễn Vương đang
đóng ở Động Hải [Trấn Ninh].
Vua Cảnh Thịnh sai Nguyễn Quang Thùy và tổng quản Siêu
đem bộ binh đánh Trấn Ninh. Còn Tư lệ Đinh Công Tuyết, đô đốc Nguyễn Văn Đằng,
đô đốc Lực, kết hợp với hơn trăm thuyền của Tề Ngôi (giặc biển theo Tây Sơn)
bày thủy trận ở cửa Nhật Lệ.
Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương điều bát thuỷ binh
ra biển tham chiến. Còn Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường chống giữ mặt bộ.
Quân Tây Sơn tấn công Trấn Ninh. Bám sát như kiến bò
lên. Quân Nguyễn từ trên núi thả đá xuống, Tây Sơn chết rất nhiều. Quang Toản
muốn rút quân. Bùi Thị Xuân nắm cương ngựa giữ lại. Bà cưỡi voi xuất trận, cảm
tử thúc quân đánh từ sáng đến trưa, không lui (Liệt truyện, II, trang 570, Thực
Lục, trang 479).
Thủy quân của Nguyễn Văn Trương nhờ gió bắc thuận,
cướp được 20 chiến thuyền địch ở cửa Nhật Lệ.
Thấy thủy binh thua, bộ binh rối loạn, Quang Toản chạy
về Đông Cao (huyện Bố Trạch, Quảng Bình), Nguyễn Văn Kiên đầu hàng.
Biết thuyền lương Tây Sơn còn đậu 50 chiếc ở sông
Gianh, Tống Phước Lương và Nguyễn Văn Vân [con Nguyễn Văn Trương] đón đánh, bắt
được hết cả thuyền lương và 700 quân. Quân Tây Sơn tan vỡ. Thượng thư Nguyễn
Thế Trực, đô đốc Trần Văn Mô, tham đốc Bùi Văn Ngoạn, thiếu tể Nguyên đều bị
bắt.
Đại thắng, Nguyễn Vương bàn rút quân về Phú Xuân. Các
tướng đều muốn thừa thắng tiến ra Bắc, Nguyễn Vương nói: "Trong bọn
giặc chỉ có Trần Quang Diệu là ghê nhất". Diệu chưa trừ xong không nên
khinh tiến" (Thực Lục, I, trang 480). Ngày 15/2/1802 (ngày Ất Dậu 13/1/Nhâm Tuất) Nguyễn
Vương về tới Phú Xuân.
Mặt nam, quân Nguyễn, vẫn không hạ được thành Bình
Định.
Tháng 4/1802 (tháng 3 ta), tình thế Tây Sơn ở trong
thành càng ngày càng khẩn cấp. Nghe tin đại binh thua trận Trấn Ninh, Trần
Quang Diệu và Võ Văn Dũng cùng các tướng sĩ Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Mân,
Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Điềm, Lê Văn Hưng hơn 80 người và 3000 quân thiện
chiến đem 86 thớt voi đực ban đêm bỏ Quy Nhơn, theo đường Lào, về Nghệ An (TL,
trang 499).
Nguyễn Vương đổi phủ Gia Định làm trấn Gia Định.
Tháng 5/1802 (tháng 4 ta), Vương sửa đắp hoàng thành
(Huế) (TL, trang 487).
Vua Gia Long ra Bắc
Theo lời khuyên của Đặng Đức Siêu (tham tri bộ Lễ) và
Trần Văn Trạc (tham tri bộ Hình), Nguyễn Vương lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Gia
Long trước khi tiến đánh Thăng Long.
Ngày 31/5/1802
(ngày Canh Ngọ 1/5 Nhâm Tuất) lập đàn ở đồng An Ninh tế trời đất cáo về việc
đặt niên hiệu.
Ngày 1/6/1802
(ngày Tân Mùi 2/5 Nhâm Tuất) kính cáo liệt tổ. Đặt hiệu là Gia Long. Ban ấn cho Quốc thúc quận công Tôn Thất Thăng. Thăng
chức cho các tướng sĩ: Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Nhân, Phạm Văn Nhân tước quận
công.
Cho Đô
thống chế Tả dinh quân Thần Sách là Lê Văn Duyệt làm khâm sai Chưởng Tả quân bình
Tây tướng quân, đổi Tả đồn quân Ngự Lâm làm Hậu quân.
Cho Lê
Chất làm Khâm sai Chưởng Hậu quân bình Tây tướng quân, vv...
Truyền
hịch 6 điểm cho dân Bắc Hà. Định 8 điều quân chính.
Cử Trịnh
Hoài Đức đi sứ Thanh, đặc gia chức Thượng thư: Trịnh Hoài Đức làm thượng thư bộ
Hộ.
Ngày
20/6/1802 (ngày Canh dần 21/5/Nhâm Tuất, vua rời Kinh sư, cho hoàng tử thứ tư
(Minh Mạng), 11 tuổi, đi theo, chinh phục Bắc Hà.
Ngày
22/6/1802 (ngày Nhâm Thìn 23/5/Nhâm Tuất, đến An Lạc (Quảng Trị).
Ngày
25/6/1802 (ngày Ất Mùi 26/5/Nhâm Tuất) đến Động Hải (Trấn Ninh, Quảng Bình).
Ngày
26/6/1802 (ngày Bính Thân 27/5/Nhâm Tuất) đến Thanh Hà.
Sai Đặng
Trần Thường theo đường thượng đạo đánh úp Hoành Sơn (Đèo Ngang).
Nguyễn Văn
Trương điều khiển thủy binh. Lê Văn Duyệt điều khiển bộ binh, đi đường trung đạo.
Nguyễn Văn Xuyên đem voi qua sông Gianh. Tham tri bộ Hộ Nguyễn Hữu Đồng chở lương.
Thuỷ
binh của Nguyễn Văn Trương đến cửa Ròn (Quảng Bình) đô đốc Nguyễn Văn Ngũ và
Nguyễn Văn Lục thua chạy, tiến lấy được dinh Hà Trung (Hà Tĩnh).
Lê Văn
Duyệt chiếm đồn Đại Nại (sở lỵ huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh)
Ngày
30/6/1802 (ngày Canh Tý 1/6 Nhâm Tuất) vua ngừng ở Hà Trung.
Thuỷ
binh tiến vào cửa biển Hội Thống, đổng lý Nguyễn Văn Thận thua trận.
Bộ binh
tiến đến trấn Nghệ An, bắt được Nguyễn Lân con Nguyễn Nhạc (TL, trang 499), chiếm được đồn Tiên Lý (phủ Diễn Châu, Nghệ An).
Ngày
3/7/1802 (ngày Quý Mão 4/6/Nhâm Tuất) vua đến thành Nghệ An. Thiếu uý Đặng Văn Đằng,
đô đốc Đào Văn Hổ đến hàng.
Quân tiền
đạo tiến đến Thanh Hoa (Thanh Hoá), bắt được con Nguyễn Huệ là đốc trấn Quang
Bàn, đổng lý Nguyễn Văn Thận (TL, I, trang
499). Tư mã Nguyễn Văn Tứ đem quân trốn đi.
Đăng Trần
Thường đến hành tại, dâng tù bắt được: Con Nguyễn Huệ là Thất, tham đốc Phạm
Văn Điềm, đô đốc Nguyễn Văn Ngũ. Sai giết cả. (TL,
I, trang 499).
Sai Hoàng
Văn Toản, Trịnh Ngọc Trí và Tôn Thất Liêm rước Từ cung [ở Gia Định] về kinh
(TL, trang 499).
Phó đô Thống
chế Tả dinh Võ Văn Doãn và Chánh thống Tiền đồn Lê Đức Định bắt được Thiếu Phó
Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An (TL, I, trang 499).
Ngày
13/7/1802 (ngày Quý Sửu 14/6/Nhâm Tuất) vua đến Thanh Hoá.
Bọn Phạm
Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thụy và 19 người dân làng Ngọ Xá (huyện Nông Cống, Thanh
Hoá) bắt được Tư đồ Võ Văn Dũng. Sai đóng xiềng giam lại.
Lê Văn
Duyệt chiếm Tam Điệp, tới Thanh Hoa Ngoại (tức Ninh Bình), đô đốc Tài đầu hàng.
Ngày
16/7/1802 (ngày Bính Thìn 17/6/ Nhâm Tuất) vua tới Ninh Bình.
Thủy
binh của Nguyễn Văn Trương thu phục Sơn Nam Hạ, Trương ở lại trấn giữ.
Ngày
17/7/1802 (ngày Đinh Tỵ 18/6/Nhâm Tuất) vua đến Sơn Nam Thượng (Hà Nội), đô đốc
Lê Văn Hoà, hiệp trấn Tín đầu hàng.
Ngày
20/7/1802 (ngày Canh Thân 21/6/ Nhâm Tuất) vua Gia Long vào thành Thăng Long.
Vua Cảnh
Thịnh đã bỏ chạy trước cùng với các em là Quang Thuỳ, Quang Duy, Quang Thiệu, tư
mã Nguyễn Văn Dụng, tư mã Nguyễn Văn Tứ, đô đốc Tú qua sông Nhị Hà đến Xương
Giang (thuộc Bắc Ninh), đêm trú ở chùa Thọ Xương. Dân thôn mưu cướp. Quân đi
theo tan vỡ. Quang Thùy thắt cổ tự tử, độ đốc Tú và vợ tự tử. Tất cả bị đóng
cũi đưa về Thăng Long (TL, I, trang 504).
Ngày
24/10/1802 (ngày Bính Thân 28/9 Nhâm Tuất) vua rời Thăng Long, để Nguyễn Văn Thành
làm tổng trấn Bắc Thành.
Ngày
27/10/1802 (ngày Kỷ Hợi 1/10 Nhâm Tuất) đến Thanh Hoá yết lăng miếu ở núi Thiên
Tôn.
Ngày
10/11/1802 (ngày Quý Sửu 15/10 Nhâm Tuất), vua Gia Long về đến Phú Xuân.
Đặng Đức
Siêu làm bài ca Hồi loan cửu khúc.
Trần
Quang Diệu bị bắt
Tháng
7/1802, phó đô thống chế Tả dinh Võ Văn Doãn và chánh thống Tiền đồn Lê Đức
Định bắt được Thiếu Phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An.
Thực Lục
chép: "Diệu từ Quy Nhơn đem đồ đảng chạy trốn, chui rừng lội suối, gặp
các sách Man có ai ngăn giữ thì ra sức đánh gỡ mà qua, trong khoảng vài tháng
lương thực cạn hết, quân lính hao tan. Đến sách Quy Hợp, chợt gặp quan quân,
tướng sĩ giặc đều mỏi, không thể đánh được. Diệu bèn bị bắt. Bắt được đồ đảng
là bọn Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Mân và 76 thớt
voi đực. Tin thắng trận báo lên. Vua sai Lê Văn Duyệt đóng xiềng giam lại, dặn
không được tự tiện giết. Sau Văn Chiêu ốm, sai giết" (TL, I, trang
499).
"Ngày
Quý Sửu [14/6/Nhâm Tuất, tức ngày 13/7/1802] xa giá đến Thanh Hoa [Thanh
Hoá]... Bọn Phạm Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thụy và 19 người dân làng Ngọ Xá
(thuộc huyện Nông Cống) bắt được tư đồ giặc là Võ Văn Dũng và 3 người đồ đảng,
giải đến hành tại. Sai đóng xiềng giam lại". (TL, I, trang 500).
Liệt Truyện
chép hơi khác:
"Bộ
quân của Lê Văn Duyệt, Lê Chất đến sông Thanh Long cướp kho Kỳ Lân. Trấn thủ
Nghệ An ngụy là Nguyễn Văn Thận, hiệp trấn Nguyễn Triêm, thuỷ quân thống lĩnh
Đại, thiếu uý Đăng bỏ thành chạy đến đồn Tiên Lý (tức thành phủ Diễn Châu),
Triêm tự thắt cổ chết, Thận chạy đến Thanh Hoá. Quang Diệu từ Quy Hợp xuống
Hương Sơn (Nghệ An), nghe thấy Nghệ An đã phá, bèn qua Thanh Chương sang sông
Thanh Long, những người đi theo dần dần tản đi cả. Diệu và vợ là Thị Xuân đều
bị quan quân bắt sống; Văn Dũng cũng bị thổ dân Nông Cống (Thanh Hoá) bắt giải.
Đại binh đến Thanh Hoá, ngụy đốc trấn là Quang Bàn và Thận cùng Đằng đều xin
hàng." (Liệt truyện II, trang 570-571).
Liệt
truyện chép: "Diệu và vợ", trong khi Thực Lục không nói gì đến Bùi Thị
Xuân.
Thực Lục
thường vắn tắt kể các dữ kiện, chép những gì thực chính xác. Còn Liệt Truyện kể
chuyện, đôi khi có suy đoán thêm.
Vì vậy,
việc bắt được Bùi Thị Xuân còn là một tồn nghi. Chưa chắc Bùi Thị Xuân đã bị bắt,
bởi trong Thực Lục cũng như Liệt Truyện không thấy nói đến việc Trần Quang Diệu
gặp Bùi Thị Xuân ở đâu và chỗ nào.
Số phận
vua, quan, tướng lãnh Tây Sơn bị bắt
Sau đây
là danh sách những người bị bắt từ tháng 6/1801 đến tháng 7/1802:
Lê Văn
Duyệt bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách ở mặt trận Phú Xuân
(TL, I, trang 441).
Các em
của Quang Toản là: Quang Cương, Quang Tự, Quang Điện và hơn 30 người đàn bà con
gái bị đem nộp lấy thưởng, ở Quảng Bình. (TL, I trang 442)
Nội hầu
Lê Văn Lợi, Thiếu úy Văn Tiến Thể, Phụ chính Trần Văn Kỷ, Thượng thư bộ Lại Hồ
Công Diệu... ra hàng. Vương để Nguyễn Thiếp trở về Nghệ An. (TL, I, trang 444)
Đóng cũi
Nguyễn Quang Cương, Tham lĩnh Ngoạn, Tham lĩnh Tuân giải về Bình Định. Còn
Nguyễn Quang Tự, Nguyễn Quang Điện, phò mã Nguyễn Văn Trị bị giải về Gia Định,
rồi sai giết đi. (TL, I, trang 446).
Tháng
6/1801, bắt được Nguyễn Văn Khôn, Hồ Văn Tự, ở bảo Trà Khúc [Quảng Ngãi] đem
giải về Kinh. (TL, I, trang 449)
Tháng
11-12/1801 (tháng 10 ta) phụ chính Trần Văn Kỷ đã ra hàng, tìm cách liên lạc
với vua Cảnh Thịnh, bị giết. (TL, I, trang 470)
Tháng
12/1801 (tháng 11 ta) "Phá huỷ mộ Tây Sơn Nguyễn Huệ, bổ săng, phơi
thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu, 31 người, đều bị
lăng trì cắt nát thây" (TL. I. trang 473)
Ra bố
cáo: "Bắt được con cái tướng tá của Nguyễn Văn Huệ nhiều không kể xiết
(...) Nay đã phá huỷ mồ của vợ chồng giặc Huệ, bêu đầu phơi xác. Đồ đảng của
chúng bắt được cũng đều giết hết" (TL. I, trang 473).
Tháng
4/1802 (tháng 3 ta) Nguyễn Văn Vân bắt được ba người con của Nguyễn Nhạc là
Thanh, Hán và Dũng, đem nộp, sai giết cả. (Thực Lục, I, trang 485)
Tháng
6/1802, bắt được Nguyễn Lân con Nguyễn Nhạc, ở Nghệ An. (TL, trang 499)
Ngày
3/7/1802, thiếu uý Đặng Văn Đằng, đô đốc Đào Văn Hổ đến hàng ở Nghệ An. (TL, I,
trang 499)
Bắt được
con Nguyễn Huệ là đốc trấn Quang Bàn và đổng lý Nguyễn Văn Thận ở Thanh Hoá (TL,
I, trang 499). Tư mã Nguyễn Văn Tứ đem quân trốn đi.
Đặng
Trần Thường dâng tù bắt được: con Nguyễn Huệ là Thất, tham đốc Phạm Văn Điềm,
đô đốc Nguyễn Văn Ngũ. Sai đem giết. (TL, I, trang 499)
Tháng
7/1802, Phó đô thống Tả dinh Võ Văn Doãn và Chánh thống Tiền đồn Lê Đức Định
bắt được Thiếu phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An (TL, I, trang
499).
Ngày
13/7/1802, bọn Phạm Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thụy và 19 người dân làng Ngọ Xá
(huyện Nông Cống, Thanh Hoá) bắt được tư đồ Võ Văn Dũng. Sai đóng xiềng giam
lại (TL, I, trang 500).
Ngày
20/7/1802 (ngày Canh Thân 21/6/ Nhâm Tuất) vua Gia Long đến thành Thăng Long. Ra
lệnh: "Những kẻ có nhận quan chức của giặc ra thú thì được miễn tội,
gần thì hạn 3 ngày, xa thì hạn 5 ngày. Nếu quá hạn mà không ra thú, bị người ta
bắt được thì làm tội. Những tàn quân của giặc mang theo binh khí trốn về, thì
lập tức phải đến cửa quân trao nộp, nếu cất giấu thì xử theo quân pháp".
(TL, I, trang 503)
Vua Cảnh
Thịnh bỏ chạy cùng với các em là Quang Thùy, Quang Duy, Quang Thiệu và tư mã
Nguyễn Văn Dụng, tư mã Nguyễn Văn Tứ, đô đốc Tú, đến Xương Giang (thuộc Bắc
Ninh). Quân đi theo tan vỡ. Quang Thùy thắt cổ tự tử. Đô đốc Tú và vợ tự tử.
Tất cả bị đóng cũi đưa về Thăng Long. (TL, I, trang 501, Liệt truyện, II, 571)
"Năm
Minh Mạng thứ 12 (1831), bắt được con Nhạc là Văn Đức, Văn Lương, cháu là Văn
Đâu (con Văn Đức) đều đem chém ngang lưng. Bấy giờ dòng giống Tây Sơn không còn
sót một người nào nữa" (Liệt truyện II, trang 571).
Hành
hình
Tháng
11-12/1802 (tháng 11/Nhâm Tuất) làm lễ tuyên cáo võ công.
Ngày
30/11/1802 (ngày Quý Dậu, 6/11 Nhâm Tuất) tế thiên điạ.
Ngày
1/12/1802 (ngày Giáp tuất, 7/11 ta) tế hiến phù (dâng những người bắt được) ở
Thái Miếu. Thực Lục viết:
"Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế
dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ, áp dẫn Nguyễn Quang Toản và
em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho 5
voi xé xác. (Dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi
xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ
giã nát rồi vứt đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ [bài vị] của vợ
chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại (sau đổi là Vũ Khổ) năm Minh Mạng thứ 2,
đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi. Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ
Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cái
trong ngoài" (TL, I, trang 513).
Trong
bài chiếu gửi toàn dân, có nói rõ tên chức của các quan tướng bị giết: "Thiếu
phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn
Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ
đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng." (TL,
trang 533).
Bè lũ
đầu sỏ ở đây có thể hiểu là một phần hay toàn bộ những người bị bắt đã kể trên.
Tướng bị bắt nhưng xét "vô danh" như Đô đốc Đinh Công Tuyết, cũng
"không nỡ giết".
Trên nguyên tắc, người đầu hàng không bị tội, trừ khi,
trước đã hàng, sau theo lại Tây Sơn, như phụ chính Trần Văn Kỷ, tham đốc Phạm
Văn Điềm, đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, đều bị giết. Cũng không thấy tên Bùi Thị Xuân.
Vậy có thể Bà đã trốn thoát.
Thụy Khuê
(Còn tiếp)