Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

Đào Trung Đạo - bài ai điệu cho thanh tâm tuyền

Thanh Tâm Tuyền
Tôi rất ngần ngại viết ai điệu mỗi khi có một người bạn nằm xuống. Vì tôi sợ sẽ thất bại: hoặc mình không viết được hoặc cái mình viết ra cuối cùng không phải là một tặng phẩm mình muốn gửi/dành cho bạn. Ngoài ra cũng có thể thất bại vì không tránh được những hiểm nguy rất đời thường: cường điệu về một cái gì tưởng như có trong quá khứ nhưng lại dường như hôm nay không còn là có thực (tình bạn, những kỷ niệm không cứ phải là bạn với nhau mới có. Tôi ngần ngại viết vì tôi đặt tiêu chí đạo đức là tiêu chí ưu tiên của ai điệu. Thất bại cũng có thể vì không tìm được đúng lời, đúng chữ cho cái chết độc nhất đó. Đã nhiều lần trang giấy trước mặt tôi chỉ được khởi đầu bằng hai chữ ai điệu và ngừng ở đấy. Ngừng bặt, lặng thinh, câm nín. Không có một cái tên tiếp theo sau. Mặt đất nghĩa trang chỉ có huyệt sâu nhưng không có mộ bia. Tôi biến mất trong khoảng trống. Trốn chạy, đầu hàng cái chết có phải, tôi tự hỏi? Trong tuyệt vọng, nhiều lần tôi đã định viết tiếp vào chỗ trống "cho Đào Trung Đạo” mà không sợ mình nói gở, nói dại. Vì như tôi hiểu, ngay khi có một cái tên, được người khác gọi tên, cái tên đó đánh dấu ngày một ngưòi bắt đầu một đời sống và đồng thời cũng để loại cái thân xác ấy khỏi đời sống. Nhưng thân xác dù có mất đi, cái tên lại vẫn còn đấy. Bạn đã chết, tôi có hét lớn tên bạn, bạn tôi cũng chẳng thể nghe. Nhưng tên bạn thì tôi chẳng thể quên. Vòng luẩn quẩn! Cái tên cũng là ký ức, được ghi lại nơi tha nhân. Nhưng tên cũng là dấu chỉ cái chết. Vậy nếu tôi có đặt tên mình sau hai chữ ai điệu trước khi mình chết đi cũng là đã qui phục luật lệ của ai điệu mà thôi : Nếu tôi không làm việc này hôm nay, mai mốt khi tôi chết đi, nếu quả thực tôi có những người bạn, thế nào bạn bè tôi cũng sẽ viết tên tôi sau hai chữ ai điệu. Vì ta không thể trực tiếp có kinh nghiệm về cái chết mà chỉ có nhận thức về cái chết qua cái chết của tha nhân cho nên ai điệu một người bạn cũng là một lần mình tìm cách tiếp cận cái chết. Cái thế giới riêng chỉ của mình và bạn đã chấm dứt, đã xụp đổ. Nhưng ai điệu cũng là một bản viết cho tương lai.


Đã là bạn, thế nào rồi cũng kẻ trước người sau ra đi. Bác Dương thôi đã thôi rồi. Đó chính là khả tính của tình bạn. Sống trên đời quanh ta có rất nhiều người. Không phải vì ta lạnh nhạt, vô tâm chẳng mấy khi để ý, lấy làm điều quan trọng, khi một người nào đó chết đi. Ngoài cái tương quan thương cảm hoặc lạnh lùng vì kẻ chết đi cũng chỉ là một người ta có thể quen biết nhưng sơ giao nên giữa người chết đi và mình không có một tương quan trước sau đòi đoạn nào được đặt ra. Chỉ khi là bạn nhau tương quan này mới thực sự có ý nghĩa, mới canh cánh bên lòng, mới là tưởng nhớ. Mới đẩy ta đến sự nhìn nhận, sự hiểu biết cái hạn kỳ thời gian. Mới là tri thức về hữu hạn. Và cũng là sự thật. Thế nào rồi kết cuộc kẻ này cũng được kẻ kia đem chôn. Và sau đó sẽ nói về bạn mình, sẽ ai điệu. Cái chết khiến tình bạn, sự gần kề trở thành một khoảng cách xa vô hạn. Một khoảng trống không thể lấp đầy, cũng là cái lỗ hổng đen ngòm của sự lãng quên. Ngần ngại viết ai điệu có phải vì tôi đã không thấy được mỗi cái chết ấy là duy nhất, có một với tôi mà thôi? Hay vì cái chết đó cũng là độc nhất đối với những người bạn khác của người vừa nằm xuống? Hay chính yếu chỉ vì có quá nhiều thứ để nói, lòng dạ tôi lúc đó không làm nổi việc này? Vì sự vắng mặt vĩnh viễn của bạn đã xóa sạch chữ nghĩa trên trang giấy, một vắng mặt mãi mãi không thể nghĩ tưởng, những kỷ niệm trở về xô đẩy đòi chiếm lại cái không gian chênh vênh của ký ức mù rối? Trước cái chết của một người bạn, sự mất mát ấy khiến tôi không còn là tôi, như thể vết chấn thương có một ấy mà tôi phải gánh chịu đã làm thay đổi cái liên hệ giữa tôi và không gian bài ai điệu sẽ được viết xuống? Nói đã không nói được, nhưng cũng không thể không cất lời.

Tôi không có cái may mắn như Thanh Tâm Tuyền đã vào thăm Quách Thoại hấp hối trên giường bệnh để viết được cho bạn những câu thơ chỉ có giữa hai thi sĩ thực sự là bạn của nhau. Mây đục đậu bên bờ cửa sổ. Người nằm ôm chăn mỏng nhớ đời. Bệnh viện thành công viên khuất nẻo. Người ngủ một mình đợi chúng tôi. (Bốn câu thơ Mai Thảo rất tâm đắc, trong những đêm khuya mù sương cùng tôi trở về căn phòng cô quạnh đã lẩm bẩm đọc một mình trong cơn say khi nhớ bạn. Và cũng đã đọc cho tôi nghe buổi tối hôm trước khi lên máy bay đi Minnesota dự đám tang Vũ Khắc Khoan. Và cũng đã đọc, cũng vẫn bốn câu đó, khi nghe tin Phạm Đình Chương nằm xuống.) Không thể đến bên bạn trong giờ lâm chung cho nên khi thoáng nhớ bốn câu thơ của anh tôi biết Thanh Tâm Tuyền đã nhìn thấy Quách Thoại như một kẻ đồng hội đồng thuyền: người của cô đơn tuyệt cùng. Trong đời sống, trên hết thảy mọi sự là cô đơn, một thứ không thể chia xẻ. Và chỉ trong cô đơn, ta mới tuyệt đối tự do. Ai điệu trong nỗi cô đơn bóng mình.

Buổi trưa ngày thứ Tư 22 tháng 3 Đặng Phùng Quân gọi tôi cho biết Tô Thùy Yên đang gấp rút lái xe đi Minnesota: Thanh Tâm Tuyền đang hấp hối từ hôm qua. Cùng ngày, những điện thư Lê Thị Huệ gửi khẩn cấp báo tin dữ. Hôm sau Nguyễn Xuân Hoàng gọi cho tôi và nói VĂN sẽ ra số đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền. Cậu phải viết một cái gì đi chứ! Lần trước khi làm số báo đặc biệt về Mai Thảo, Nguyễn Xuân Hoàng cũng đã gọi cho tôi và muốn tôi “nộp” bài. Cậu phải viết một cái gì đi chứ . Cái kiểu “đòi nợ” của Nguyễn Xuân Hoàng vừa như lời thúc dục, vừa như lời mời mọc. Của một người bạn. Như khi thấy bạn ngồi yên không đụng đũa: cậu ăn cái gì đi chứ. Khác với cái cách Mai Thảo lúc trước khi muốn có bài của tôi cho VĂN: “Đã hỏi xin đừng nói không.” Một cách ép nhau rất thân thương giữa những người coi nhau là bạn. Cho nên lần này tôi đánh liều hứa sẽ có ‘bài ai điệu cho thanh tâm tuyền’.

Viết gì? Viết ai điệu cho Thanh Tâm Tuyền nhưng anh đã không còn nữa để đọc, để nghe. Vậy còn viết để làm gì? Sự hiển nhiên khởi đầu là câu trả lời cho câu hỏi: Những giòng viết ra này sẽ đi về đâu? Nó sẽ quay trở về trong tôi hay nó sẽ đến với những người đọc? Và mỗi người sẽ thấy chúng khác nhau. Trong tôi. Trong chúng ta. Câu hỏi thứ hai: Viết về con người, cuộc đời Thanh Tâm Tuyền hay viết về tác phẩm của Thanh Tâm Tuyền? Maurice Blanchot đã từng cật vấn: “Làm thế nào ta có thể đồng ý nói về người bạn đó? Chẳng phải để ca ngợi cũng không vì muốn biết chút sự thật. Những đặc điểm tính tình hắn, những dạng thức đời sống hắn, những giai đoạn trong đời hắn, ngay cả việc bám sát cuộc kiếm tìm mà chỉ có hắn là người có trách nhiệm đến độ không có trách nhiệm, chẳng thuộc về ai cả.” Ta có thể làm những việc ấy khi anh còn sống. Sự có mặt của anh trên đời là tấm gương để người viết về anh soi bóng. Sự có mặt ấy – dù chỉ là sự có mặt thinh lặng - có sức mạnh chấp/phủ nhận những gì ngưòi khác nói/viết về anh. Thật vô ích khi muốn dùng lời nói hay chữ nghĩa để níu kéo những gì đang dần dần biến mất. Chữ nghĩa bất lực trước sự vắng mặt, chỉ để lấp đầy một khoảng trống vô cùng tận. Tấm gương để ta soi bóng mình đã tan nát, đã phủ mờ. Và cái quyền lực chấp/phủ nhận của người mình viết về đã bị cái chết tước đoạt, triệt tiêu. Ngoài ra ta còn phải trung thành với tiêu chí đạo đức và trách nhiệm đối với bạn (đã chết) trong cái viết cái nói của mình. Như trên đã nói, những gì mình nói về bạn hay với bạn sẽ chỉ ở lại, ở trong/giữa chúng ta những người còn sống mà thôi. Cái còn lại với chúng ta chỉ là ký ức. Hôm nay cái tên Thanh Tâm Tuyền, những hình ảnh của anh "ở trong" và "ở với" chúng ta. Cho nên viết ai điệu cho Thanh Tâm Tuyền không là gì khác hơn: chống lại cái chết bằng cách trả lại đời sống cho cái ‘tên’ và ‘những hình ảnh’ của anh. Đời sống ấy sống động trong chúng ta. Giữ được như vậy tức là trung thành với bạn. Cảm ơn Thanh Tâm Tuyền đã cho tôi một cơ hội để tư tưởng khi ai điệu.

Bài ai điệu cho Thanh Tâm Tuyền là cuộc đuổi bắt cái không thể đuổi bắt chính vì mệnh lệnh của ai điệu buộc ta làm điều không thể làm được. Khả tính của bất khả và bất khả tính của khả thể. Vì sao vậy? Tôi biết trong những thứ Thanh Tâm Tuyền đã viết ra hình như anh đã "buông mặc" khi nói về bản thân nên chúng ta có sự tự do muốn hiểu sao tùy ý. Nhưng như thế không có nghĩa là anh cho chúng ta cái quyền đặt mình vào địa vị anh để buông mặc. Xa hơn một bước, sự buông mặc đó cũng không cho phép ta nói gì khi anh đã khuất vãng. Nhưng có thực mỗi khi viết chữ ‘tôi’ trong bản viết của mình Thanh Tâm Tuyền đã nói về bản thân không? Anh nói về ‘tôi’ với chúng ta hay anh nói với chính anh? Tất cả những câu hỏi đó chỉ ra cái chuyển động của viết trong đó sự có mặt của một cái tôi-không-là-ai và mối tương quan ẩn mật giữa chủ thể nói/viết với cái mình viết xuống, người viết không một lời xác nhận hay phủ nhận ai là chủ nhân. Theo tôi, thường những người mình coi là bạn lại chính là những người-mình-không-biết-nhất và vì vậy vĩnh viễn là một bí/ẩn mật. Cho nên tôi sẽ đặt ra tiêu chí thứ nhì của ai điệu: trích dẫn. Để được nghe Thanh Tâm Tuyền nói. Như hôm nào anh đã nói/viết về Bùi Giáng “Nhưng còn chúng ta? Chúng ta nghĩ gì về thơ ông? Đừng có nghĩ, hãy buông mặc theo ông, như ông từng buông mặc trong trận đồ kẻ trước. Ông luôn nhắc bảo nơi ông là những bóng vang ai khác. Và ta hãy là bóng vang của ông.”

Tôi đi tìm bóng vang của anh, ngay lúc này, bằng cách tìm đọc lại tất cả những gì mình có, của Thanh Tâm Tuyền. Một ước muốn không thể thực hiện trọn vẹn hôm nay khi nghe tin Thanh Tâm Tuyền vừa tạ thế: không ở gần thư viện Cornell hay thư viện của Quốc Hội Mỹ, sách vở đã xuất bản của thế hệ chúng tôi đã bị tiêu/triệt hủy từ sau Tháng Tư, 1975. Hiện trong tay tôi chỉ có bản photocopy tập thơ ‘Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy’ (nhưng lại thiếu mất mấy trang), truyện dài Một Chủ Nhật Khác, tập “Thơ Ở Đâu Xa’, và mấy số Văn trong đó nhà văn Mai Thảo thỉnh thoảng có đăng đôi ba bài thơ của Thanh Tâm Tuyền. Và “thoáng nhớ lại” những bài thơ của anh mình đã đọc ba, bốn mươi năm trước. Lục lọi tìm kiếm mấy bài thơ Thanh Tâm Tuyền làm trong thời gian chúng tôi cùng bị giam giữ ở trại cải tạo Long Giao anh đã chép tặng tôi. Buồn bã nghĩ: tôi đã mất Thanh Tâm Tuyền, tôi lại còn mất luôn phần lớn những gì anh đã để lại cho tôi. Nhưng điều này với tôi cũng chẳng quan trọng. Sách vở chỉ là những thứ vô hồn, chỉ có cái đọc mới mở ra sự hiện diện. Những tác phẩm của Thanh Tâm Tuyền là những dấu chỉ đường cho người đọc đi tìm sự hiện diện của Thanh Tâm Tuyền. Tuy sự hiện diện thân xác đó hôm nay không còn nữa nhưng Thanh Tâm Tuyền mãi mãi hiện diện trong thơ của anh. Một hiện diện vượt qua chữ nghĩa đi ra cõi ngoài. Vì văn chương là vượt ra cõi ngoài (le dehors),  sự khả hữu của bất khả. Từ bất khả sang khả hữu là lộ trình của thảm họa. Văn chương luôn gắn liền với thảm họa: nỗi ám ảnh không rời trong trí tưởng Thanh Tâm Tuyền.

Thảm họa chứ không phải một cái gì khác đã xô đẩy chúng tôi gần gũi nhau. Lần thứ nhất khi Thanh Tâm Tuyền phải rời nhiệm sở ở Sài Gòn và được chuyển lên Đà Lạt : chúng tôi cùng là những sĩ quan trừ bị (bị động viên) phục vụ tại Trường Võ Bị Quốc Gia. Những buổi chiều chúng tôi cà phê thuốc lá rượu thuốc nhậu nhẹt trong những quán tiệm dốc hẻm. Những đêm trực ngồi xem phim cao bồi miền viễn tây mượn của Hội Việt Mỹ. Một cái Tết bị cấm trại anh chở con trai bằng xe Honda ra phố ghé tiệm tạp hóa mua kiếm nhựa để hai bố con lên Đồi Cù đấu kiếm (tôi nhớ Thanh Tâm Tuyền có cho Văn đăng bài thơ rất hay làm trong dịp này khoảng năm 1972). Lần thứ hai chúng tôi cùng đi tù ở Long Giao, ngay những ngày đầu giai đoạn tuổi trẻ Miền Nam vào tù. Tinh sương xe đến Long Giao. Những buổi tối sương mù ướt tóc ướt áo chúng tôi gặp nhau ngoài bãi chiếu phim. Chép bài thơ Hà Thượng Nhân ở trại cấp tá mới làm đưa cho tôi xem. Người nào chẳng có lòng. Chim nào không có cánh. Cánh nào không muốn bay... Ngày xưa chim hồng hộc. Bay chín từng mây cao... Anh nhớ em từng phút. Anh thương con từng ngày... Mấy hôm sau lại cho xem bản nhạc Vũ Đức Nghiêm mới viết. Và ngày thứ bảy không phải lao động Thanh Tâm Tuyền dịch thơ Đường. Hạ Trí Chương thất ngôn thành Thanh Tâm Tuyền bảy chữ. Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi. Ra đi lúc trẻ về đã già. Nhưng đến ba chữ "mấn mao suy" ở câu sau thì Thanh Tâm Tuyền nghi rằng những người dịch trước đây đã dịch không sát nghĩa. Tôi nhờ người học trò cũ gốc Hoa nay là bạn tù đã giảng hai chữ “mấn mao” chính là tóc mai. Và bài Thơ Thuốc Lào anh chép cho tôi không lâu trước khi bị chuyển trại ra Bắc. Ngồi đây hút điếu thuốc lào. Quên đi mọi nỗi gian lao ưu phiền...Xá chi vợ dại con thơ. Tính chi chuyện cửa chuyện nhà mai sau (tôi đã đưa cho nhà văn Mai Thảo giữ bản thảo bài thơ này). Và kỷ niệm cuối cùng của tôi khi Thanh Tâm Tuyền sang Tiểu Sàigòn năm 1992. Sang đây tớ có hai cái khoái: bỏ được thuốc lá và cuối tuần thường lang lang đi xem các flea-market (chợ bán rau trái nông phẩm). Ở Sàigon chỉ có một thằng không biết sợ cộng sản là thằng Nguyễn Nhật Duật vì nó vẫn sinh con đều đều. Thằng Xung sau khi đi tù về bây giờ ở với vợ hai trên Đà Lạt nhưng đói rách lắm. Đó, một Thanh Tâm Tuyền đầm ấm bạn bè và bông đùa riễu cợt. Trong khi viết những giòng này, tôi tưởng như đang nói chuyện với anh. Như hôm nào.

bài ai điệu cho thanh tâm tuyền chỉ là những đoạn rời (fragments). Tôi không hiểu tại sao tôi đã chỉ có thể viết được những đoạn rời. Phải chăng giữa những khoảng cách đứt lìa chia cách là lời thầm thì ngắt quãng hướng ra cõi ngoài? Cũng có thể coi đó là những viên đá sỏi tròn đặt quanh một cái tên: Thanh Tâm Tuyền.

3/29/2006

Đào Trung Đạo