Chủ Nhật, 4 tháng 1, 2015
Phạm Phú Minh - Công việc xuất bản và phát hành tại miền Nam trước 1975
![]() |
Nhà văn Phạm Phú Minh |
Nếu so sánh nền văn học của một quốc gia như là phần trí tuệ và tình cảm của một con người thì việc in sách, phát hành sách, việc mua bán sách lại có thể ví như chuyện ăn uống, tiêu hóa, dinh dưỡng cho cơ thể của con người đó. Ít ra cái này cũng là điều kiện sinh tồn cho cái kia. Sách viết ra mà không có nhà xuất bản coi sóc in ấn, không có nhà phát hành phân phối để tới tay người dân mua về đọc và thưởng thức, thì coi như cuốn sách đó chưa hiện hữu trong đời sống của một quốc gia, của một cộng đồng.
Thưa quý vị, chắc
chắn rằng nghiên cứu về chính nền văn học của thời 1954 đến 1975 của miền Nam
thì có phần dễ hơn là tìm hiểu một phần nào về việc in, xuất bản và phát hành
sách của thời đó. Lý do là sách vở báo chí của thời Việt Nam Cộng Hòa miền Nam
dù sao cũng còn có thể tìm lại dễ dàng, còn chuyện làm sao một bản thảo biến
thành một cuốn sách, làm sao cuốn sách ấy tới tay người đọc thì chẳng có một
tài liệu chính thức nào cả. Những điều chúng tôi sắp trình bày là một bức hình
ghép từ nhiều mảnh ký ức, trước hết từ một số người đã làm công việc xuất bản
thời trước 1975 như ông Võ Thắng Tiết (tức thầy Từ Mẫn), nguyên giám đốc nhà xuất
bản Lá Bối, như ông Trí Đăng nguyên giám đốc nhà xuất bản Trí Đăng, và bà Võ
Phiến là người trực tiếp điều hành nhà xuất bản Thời Mới. Một số người không
làm công việc xuất bản nhưng rất gần gũi với thế giới sách vở, như chị Phạm Lệ
Hương thời đó trông coi thư viện của Đại Học Vạn Hạnh và là thành viên của Hội
Thư Viện Việt Nam; như nhà thơ Thành Tôn người có rất nhiều kinh nghiệm về việc
phát hành sách ở miền Trung, đồng thời cũng là nhà sưu tầm hiện lưu giữ khá nhiều
tài liệu liên quan đến sách vở miền Nam thời 1954-75, trong đó có việc xuất bản
và phát hành. Tôi xin chân thành cám ơn những thân hữu vừa kể, vì không có họ,
tôi khó có thể ngồi mà “sáng tác” ra một bài thuyết trình với những con số, những
sự kiện cụ thể của một thời cách đây trên dưới nửa thế kỷ.
Điều cần nói trước
tiên, ngành xuất bản của miền Nam thời trước 1975 là một hoạt động gần như là
hoàn toàn tư nhân. Trừ một vài việc xuất bản do chính quyền làm như Trung Tâm Học
Liệu thuộc bộ Giáo Dục hay một số sách vở tài liệu do bộ Thông Tin ấn hành, còn
lại cả một khối lượng sách và báo khổng lồ đáp ứng cho việc học hành, nghiên cứu,
giải trí cho gần 20 triệu dân từ bờ nam sông Bến Hải cho đến mũi Cà Mau đều do
tư nhân soạn thảo, biên khảo, sáng tác, in ấn, xuất bản, phát hành. So với tình
hình xuất bản trong nước Việt Nam từ 1975 đến nay tất cả đều do chính quyền nắm
giữ, chúng ta thấy tình hình xuất bản như thế của Miền Nam trước 1975 là điều rất
lạ, nhưng thật ra trên khắp thế giới, trừ những quốc gia độc tài toàn trị, cung
cách sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm tinh thần đều như vậy cả. Đó là sinh hoạt
tự nhiên của một xã hội tự do.
Nhưng miền Nam của
chúng ta vào thời gian 1954 tới 1975 ở trong một tình thế căng thẳng giữa hai
phe quốc gia và cộng sản nên sự tự do về xuất bản cũng có phần bị hạn chế. Thời
gian từ 1954 cho đến 1975 sách xuất bản phải được kiểm duyệt. Thời Đệ nhất Cộng
hòa bản thảo sách phải nộp cho bộ Công Dân Vụ, thời Đệ nhị Cộng hòa nộp cho bộ
Thông Tin, nơi đây có nhân viên xem xét kỹ, gạch bỏ những câu chữ không thích hợp,
và mỗi trang được thông qua đều có chữ ký của nhân viên kiểm duyệt và con dấu của
bộ liên hệ. Nên lưu ý: sở dĩ phải có kiểm duyệt là vì đang có cuộc chiến tranh
lạnh (và dần dần nóng lên) giữa hai miền Nam Bắc. Chủ yếu sự kiểm duyệt là nhằm
ngăn ngừa tuyên truyền của phía đối phương (cộng sản), chứ hoàn toàn không nhằm
hạn chế sự phát triển tự do của trí tuệ con người. Và một khi bản thảo được kiểm
duyệt xong, tác giả lãnh bản thảo về, có thể bắt đầu công việc xuất bản. Từ phần
này trở đi thì hoàn toàn là tư nhân, theo các quy luật của thị trường.
Hình ảnh một tập
bản thảo được kiểm duyệt thời Đệ nhất Cộng hòa: tập thơ Giòng Mắt Em Xanh của Tạ
Ký, 1961:
![]() |
Bìa tập thơ Giòng Mắt Em Xanh của Tạ Ký đã được kiểm duyệt: có chữ ký của nhân viên kiểm duyệt và con dấu của bộ công Dân Vụ. Chữ “Trả” có nghĩa là giao lại cho tác giả (sau khi đã kiểm duyệt xong). |
![]() |
Mỗi bài thơ được thông qua đều có chữ ký và con dấu kiểm duyệt.![]() |
![]() |
Hình ảnh một đoạn thơ bị kiểm duyệt bỏ: các câu thơ bị gạch xóa bằng bút chì đỏ với chữ ký của nhân viên kiểm duyệt đè lên trên. |
Sau đây tôi xin tóm
lược một tài liệu khá đặc biệt về nghề xuất bản sách tại Việt Nam Cộng Hòa, vì
nó được soạn ra một cách chuyên nghiệp vào cuối năm 1974 bởi ông Lê Bá Kông, Chủ
tịch Hội Các nhà in và Xuất bản Việt Nam. Đây là bài nói chuyện bằng tiếng Anh
do tác giả trình bày trong cuộc hội thảo quốc tế về “Vấn đề kinh tế của việc sản
xuất, ấn loát và phát hành sách” được tổ chức ở Manila (Philippines) từ ngày 26
đến ngày 30 tháng 11 năm 1974. Nguyên văn Anh ngữ của bài này đã được đăng trên
báo Saigon Post ngày 9-10 tháng 12 năm 1974, và sau đó được chị Phạm Lệ Hương dịch
sang tiếng Việt để đăng trên Thư Viện Tập San, một nội san của Hội Thư Viện Việt
Nam trước 1975.
Theo ông Lê Bá
Kông, vào thời điểm cuối năm 1974 VNCH có khoảng 180 nhà xuất bản lớn nhỏ, tất
cả được thành lập không cần xin phép chính quyền, trong đó chỉ có một số ít hoạt
động chuyên về ngành xuất bản một cách có phương pháp và thường xuyên. Nếu
chúng ta nhớ lại thì có thể kể ra một số nhà xuất bản thuộc loại này: Khai Trí,
Giao Điểm, Lá Bối, Trường Thi, Trí Đăng, Sống Mới, Nam Cường. Ngoài ra rất nhiều
nhà xuất bản là do một nhóm hoặc cá nhân các nhà văn nhà giáo tự đứng ra làm với
số vốn đầu tư khá khiêm nhường, nhưng có ưu điểm là ấn hành được những quyển
sách mà mình mơ ước hay yêu thích, và cũng đáp ứng cho một thành phần độc giả
tương ứng trong xã hội. Thời đó người ta gọi đây là những nhà xuất bản “cò
con”. Ví dụ nhà Thời Mới của ông bà Võ Phiến đã cho ra đời Những Hạt Cát của Thế
Uyên, Mù Sương của Nguyễn Xuân Hoàng, Đêm Tóc Rối của Dương Nghiễm Mậu, Mèo Đêm
của Thụy Vũ, Thở Dài của Túy Hồng, Triết Học Hiện Sinh của Trần Thái Đỉnh, Má Hồng
của Đỗ Tiến Đức, Hình Như Là Tình Yêu của Hoàng Ngọc Tuấn, Thơ Trắng của Đỗ Tấn
và dĩ nhiên các tác phẩm của Võ Phiến như Thư Nhà, Lại Thư Nhà, Đất Nước Quê
Hương, Một Mình, Văn Học Nga Xô hiện đại v.v... Cũng có nhà xuất bản chuyên in
sách của một số tác giả gần như nhất định, ví dụ An Tiêm in tất cả tác phẩm của
Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn v.v... Trường hợp Trí Đăng thì khởi
nghiệp bằng một nhà in rồi sau mới thành nhà xuất bản, thoạt đầu in sách văn học
như Phi Lạc Sang Tàu của Hồ Hữu Tường, Nhốt Gió của Bình Nguyên Lộc, Chiếc Cầu
Trên sông Drina do Nguyễn Hiến Lê dịch, Thương Hoài Ngàn Năm của Võ Phiến... và
đặc biệt các tác phẩm đầu tiên của Nguyễn Mộng Giác. Ông giám đốc của nhà Trí
Đăng hiện cư ngụ tại San Jose nhớ lại là ông không thành công lắm với việc xuất
bản sách văn học, nên chuyển sang kinh doanh sách giáo khoa với sự hợp tác của
một nhóm giáo sư của trung học Petrus Ký thì công việc làm ăn rất khả quan. Năm
1974 khi có tin thi Tú tài sẽ theo lối trắc nghiệm, Trí Đăng đã xuất bản bài
thi mẫu theo lối mới này và đã đạt được thành công lớn.
Trong cái nhìn tổng
quát của ông Lê Bá Kông thì làm xuất bản cò con nếu có thành công thì cũng
trong mức độ nhỏ, vì phần lớn người điều hành còn thiếu kiến thức về quản trị
doanh nghiệp và vận động thị trường, về quảng cáo.
Trong bài thuyết
trình của mình ông Lê Bá Kông cho biết tại VNCH có khoảng 700 nhà in, trong đó
chỉ có độ 20 nhà có khả năng sản xuất được một triệu cuốn sách trong một năm.
Ba phần tư trong tổng số nhà in này tọa lạc tại vùng Sài Gòn. Hầu như tất cả vật
phẩm dùng cho việc ấn loát đều được nhập cảng từ nước ngoài, thống kê cho thấy
năm 1973 giấy sản xuất trong nội địa được 2236 tấn, và phải nhập cảng thêm
40,751 tấn mới đủ cho nhu cầu in ấn. Riêng về mực in thì có ba nhà sản xuất nội
địa cho sản phẩm đúng tiêu chuẩn, cung cấp đủ cho ngành ấn loát trong nước. Về
kỹ thuật ấn loát thì phần lớn cũ kỹ, trừ một số nhà in tân tiến mới được nhập cảng
vào khoảng cuối thập niên 1960 có khả năng in sách đẹp không kém sách của Nhật,
Singapore hay Hong Kong.
Về phát hành ông
Lê Bá Kông cho rằng còn nhiều khó khăn và thiếu thốn. Mỗi một sơ sở xuất bản có
một đường lối phát hành và phương tiện chuyên chở bằng xe đò hay máy bay tùy
khoảng cách xa gần của các tỉnh mà họ phân phối sách. Ông cho biết theo điều
tra năm 1971-72 VNCH có khoảng 2,500 nhà sách lớn nhỏ trên toàn quốc, trung
bình mỗi tỉnh có từ 15 đến 20 nhà, số
còn lại tập trung tại Sài Gòn Gia Định. Hàng ngày trung bình một hiệu sách lớn
tại trung tâm Sài Gòn có khoảng 5000 khách hàng đến viếng, và có khoảng 3000 cuốn
sách các loại được bán ra.
Về thư viện thì
trên nguyên tắc mỗi tỉnh hay mỗi quận đều có một thư viện công cộng với đầy đủ
sách báo cho độc giả sử dụng. Trong thực tế các thư viện này thường than phiền
họ không được cung cấp đủ tài chánh để mua sách báo cho độc giả. Bên cạnh đó có
một mạng lưới “thư viện” dân giã suốt từ Sài Gòn đến các địa phương xa xôi nhất,
hoạt động rất tích cực và hữu hiệu, đó là các tiệm cho thuê sách. Thống kê cho
biết trên toàn quốc có khoảng 3000 nhà cho thuê sách, giá thuê cho một lần đọc
chỉ bằng 10% giá cuốn sách. Ông Lê Bá Kông gọi đây là một tệ trạng, nhưng theo
ý chúng tôi thì không hẳn như vậy. Trước hết, nhà cho thuê sách muốn có sách
cho thuê thì phải mua, và cứ đổ đồng mỗi nhà chỉ mua một cuốn sách mới xuất bản
thôi, thì mỗi đầu sách vừa phát hành ít nhất cũng bán được trên dưới 3000 cuốn
cho các nhà cho thuê sách rồi. Đây là con số gần như chắc chắn, đó là chưa kể
ít có nhà cho thuê sách nào chỉ mua một cuốn mới xuất bản, nhất là các cuốn
đang được quần chúng mong đợi. Theo chúng tôi, cho thuê sách trong tình trạng
xã hội miền Nam trước kia không những không làm hại gì cho việc xuất bản, mà
trái lại đã giúp cho việc tiêu thụ sách một số lượng chắc chắn, và từ đó đã đem
sách vở đến với dân chúng trong vùng một cách thường xuyên, nhất là lớp người rất
đông đảo không đủ tiền để mua sách, nhưng ham đọc sách; họ có thể có sách đủ loại
để đọc với giá đi thuê rất rẻ. Quý vị đừng tưởng các nhà cho thuê sách chỉ mua
những cuốn có giá trị xoàng xoàng thích hợp với sự giải trí của độc giả bình
dân. Không phải vậy, những nhà cho thuê sách lâu năm trong nghề biết rất rõ
khách hàng của họ cần sách rất đa dạng, và họ mua đủ mọi loại, từ các cuốn kiên
khảo văn học, triết học, lịch sử khô khan đến những tiểu thuyết diễm tình hay
kiếm hiệp gay cấn. Thậm chí nhiều học sinh gia đình không được khá giả còn có
thể thuê sách giáo khoa, sách luyện thi, thậm chí tự điển nữa, để dùng cho việc
học.
Bài thuyết trình
của ông Lê Bá Kông còn đề cập nhiều vấn đề như sách nhập cảng, sự quan tâm chưa
đúng mức của nhà cầm quyền về xuất bản và phát hành sách thời đó v.v... nhưng
chúng tôi xin lướt qua, chỉ xin ghi thêm hai vấn đề:
Thứ nhất, về “đạo
tặc sách” (book piracy): tức sự vi phạm quyền tác giả. Cho tới năm 1972, các
tòa án tại Việt Nam còn áp dụng các luật lệ từ thời Pháp thuộc, với vài bộ luật
từ năm 1880, rất lỏng lẻo với tình trạng vi phạm quyền tác giả. Năm 1970 ông Lê
Bá Kông có dịp đi thăm Nhật Bản và được biết về Luật Bản Quyền Tác Giả của Nhật.
Khi về nước ông gửi bản sao của luật này đến các nhà làm luật cùng những cơ
quan liên hệ của chính quyền, với thỉnh nguyện xin ra một tu chính luật về bản
quyền tác giả cho Việt Nam. Kết quả là năm 1972 một vài kẻ đạo tặc sách đã bị
Tòa án kết tội phải bồi thường tới hàng triệu đồng và bị phạt tù nhiều tháng.
Thứ hai, một bản
thống kê với biểu đồ về tình hình xuất bản tại Việt Nam Cộng Hòa từ 1954 tới
1972, như sau:
Thưa quý vị, thời
gian từ 1954 cho đến 1975 còn một cách viết sách, xuất bản và phát hành rất đặc
biệt nữa, mà tôi nghĩ sẽ rất thiếu sót nếu không nhắc tới. Đó là các tiểu thuyết
feuilleton trên báo hàng ngày. Chúng ta biết báo chí Việt Nam bắt đầu xuất bản ở
trong Nam trước, từ năm 1865 tờ Gia Định báo đã ra đời, trong khi tại đất Bắc tờ
Đông Dương Tạp Chí của Nguyễn Văn Vĩnh mãi đến năm 1913 mới ra mắt bạn đọc. Và
từ đầu thế kỷ 20, báo chí Nam Kỳ đã bắt chước kiểu đăng tiểu thuyết feuilleton
của người Pháp, tức tiểu thuyết đăng từng kỳ trên báo. Truyền thống này còn giữ
mãi trong báo chí miền Nam, ngày càng phong phú, đa dạng cho đến ngày 30 tháng
Tư năm 1975. Từ 1954 các cây bút như Phú Đức, Ngọc Sơn, An Khê, Bà Tùng Long,
Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên... viết truyện đăng báo từng kỳ theo truyền thống của
miền Nam vẫn tiếp tục trên báo chí. Một số tác giả miền Bắc vào Nam cũng viết
feuilleton, như Hoàng Hải Thủy với rất nhiều truyện phóng tác, Nguyễn Thụy Long
với Loan Mắt Nhung, Kinh Nước Đen v.v... Phần nhiều họ viết mỗi ngày, vừa đủ để
làm đầy chừng một phần tư hoặc một phần ba trang báo, và nếu có khả năng, một
tác giả có thể viết nhiều tiểu thuyết trong một lúc cho nhiều tờ báo khác nhau.
Truyện dịch Kim Dung thì báo nào cũng tranh nhau để có sớm nhất, người ta canh
giờ máy bay từ Hồng Kong đến Sài Gòn để nhận báo bên ấy gửi về, đem dịch và
đăng ngay, vì biết bao nhiêu là độc giả đang chờ đợi. Với tiểu thuyết
feuilleton, khi báo phát hành thì một phần cuốn tiểu thuyết (sẽ hoàn thành) của
các tác giả cũng coi như được “xuất bản” và phát hành đi khắp nước. Sau khi báo
đã đăng hết truyện thì một thời gian sau tác giả sẽ in thành sách để xuất bản,
như thế một tác giả khi viết truyện đăng báo thì đã ăn lương của tòa báo, khi
in thành sách thì lại có tiền bán sách.
Miền Nam có nhiều
nhà xuất bản và làm ăn theo kinh tế thị trường nhưng tình trạng cạnh tranh gay
gắt thì hầu như không có, vì mỗi nhà chuyên một loại sách riêng, và mỗi nhà đều
giữ cái cung cách trí thức và văn nghệ trong việc “làm ăn” của mình. Nếu gọi là
cạnh tranh, đó chỉ là cố gắng nâng cao phẩm chất về nội dung và hình thức sách
của mình, về cách tiếp thị và phải coi trọng việc phát hành (độc giả mỗi vùng
đa số thích một loại sách khác nhau: chẳng hạn, vùng Lục Tỉnh thường ưa loại tiểu
thuyết xã hội của bà Tùng Long, Lê Xuyên...; vùng miền Trung như Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Thừa Thiên thích sách dịch và các tác giả mới v.v...).
Có những sách
bán chạy vì lý do thời thượng. Có thời cuốn Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết
Học của Phạm Công Thiện được tiêu thụ rất mạnh, chàng sinh viên nào cũng hay
mang theo mình một cuốn như là một trang bị làm chứng cho trình độ trí thức của
mình. Có thời cuốn Tâm Tình Hiến Dâng do Đỗ Khánh Hoan dịch thơ Tagore bán rất
chạy, chỉ vì cái nhan đề Tâm Tình Hiến Dâng rất thích hợp cho những người nam nữ
trẻ tuổi mua để tặng nhau...
Tiếp theo đây là
một số ghi nhận khác về tình hình xuất bản và phát hành tại miền Nam trước
1975.
Nhà văn Võ Phiến,
trong bài viết “Nhìn lại 15 năm văn nghệ Miền Nam” đăng trên báo Bách Khoa số
361 - 362 ngày 15-1 và 1-2-1972 đã viết: “Thời 1954-63 (...) đã có một loạt tên
tuổi xuất hiện vào những năm ấy: Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Dương
Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyên Sa, Nhật Tiến, Lê Tất Điều, Thế Uyên v.v.
và những tên tuổi ấy vẫn chưa được thay thế, từ 63 đến nay [danh sách này tác
giả đã quên liệt kê một tên tuổi đáng kể, là Võ Phiến - PPM]. Nhà văn Võ Phiến
nhận định tiếp:
“Giới trẻ từ ấy
đến nay -trong nước cũng như trên thế giới-
đã gây nhiều xáo động sâu xa về mặt xã hội và chính trị; nhưng giới trẻ ở
ta chưa nắm được thế chủ động trong sinh hoạt văn học. Không phải lớp sau này
có gì thua sút: thiết tưởng đem từng người ra so sánh thì làm thơ mà phóng
khoáng như Nguyễn Đức Sơn, viết truyện mà tài hoa đến như Hoàng Ngọc Tuấn, mà
chín chắn như Nguyễn Mộng Giác v.v... ở thời nào cũng hiếm. Vậy mà họ không gây
được phong trào, không quấy động được dư luận, họ không được chú ý như các người
viết trước mươi lăm năm, trong những nhóm Sáng Tạo, Quan Điểm.” (Hết trích)
Ông Phạm Việt Tuyền,
trong bài thuyết trình trong khóa hội thảo về Sách tổ chức tại Thư viện Quốc
gia (Sài Gòn) trong ba ngày 6, 7, 8 tháng 9 năm 1972, sau khi đưa một cái nhìn
khá sâu sát về tình hình sách vở trong 18 năm, từ 1954 đến 1972, đã có những lời
nhắn gửi đến:
1. Những nhà cầm bút: “... chúng ta cần phải
viết ‘sách cho mọi người’ như UNESCO đã hô hào, trước tiên và nhiều nhất là cho
những đám đông nhi đồng, những đám đông thanh niên thiếu nữ, những khối đồng
bào nông dân ngư dân, những khối đồng bào thợ thuyền, lao động, những khối đồng
bào quân nhân, cán bộ... Muốn được như vậy, chúng ta phải thoát ly những hòn đảo
lẻ loi như phòng trà, quán rượu để dấn thân vào những môi trường sinh hoạt rộng
lớn náo nhiệt như đồng ruộng, như chiến trường, như bến tàu, bến xe, xưởng máy,
lều chợ v.v...” Ông Phạm Việt Tuyền cũng nêu cao vai trò của nhà phê bình, là
những người nêu cao ngọn đuốc ý thức về các tác phẩm, và phần nào cũng ảnh hưởng
tới giới xuất bản và phát hành sách, cũng như với nhà cầm quyền và độc giả nói
chung.
2. (Lời ông Phạm
Việt Tuyền nhắn với) Các nhà xuất bản và
các nhà in sách: “... mong rằng các nhà xuất bản và nhà in nên quan tâm nhiều
hơn để trả tác quyền cho xứng đáng và gọn gàng mau mắn, ấn loát sớm các bản thảo
đã nhận in và trông coi sửa bản vỗ cho thực đúng.” Ông cũng kêu gọi tránh những
cạnh tranh gây tai hại chung.
3. (Vẫn lời ông
Phạm Việt Tuyền nhắn với) Các nhà phát
hành và các nhà bán sách: “Sách có tới tay bạn đọc hay không là do các nhà
phát hành và các nhà bán sách.” Ông thông cảm với các khó khăn của ngành phát
hành và bán sách, đồng thời lên án những lối cạnh tranh bất chánh của bọn đầu
cơ các sản phẩm văn hóa và nạn cho thuê sách mà ông cho là có hàng ngàn tiệm ở
khắp nơi.
Ngoài ra trong
phần nhắn gửi chính quyền, điểm quan
trọng nhất ông nhấn mạnh là “bãi bỏ chế độ kiểm duyệt sách để gây tinh thần hào
hứng cho giới cầm bút, cho giới xuất bản và cho các giới độc giả.”
Thưa quý vị,
nhìn suốt thời gian 20 năm của chế độ quốc gia ở miền Nam, chúng ta đều có thể
đồng ý là biến cố đảo chánh lật đổ nền đệ nhất cộng hòa là một dấu mốc quan trọng
trong nhiều sinh hoạt của quốc gia. Từ năm 1954 sau khi cuộc kháng Pháp 9 năm
chấm dứt, miền Nam đã trở thành một quốc gia với nền Cộng Hòa mới, và mang cái
náo nức của công cuộc xây dựng một đời sống vật chất và tinh thần mới, với đồng
bào từ Bắc di cư, với miền Trung vừa thoát sự kiểm soát của cộng sản cả một
vùng liên khu tư và liên khu 5. Một loạt tác giả mới xuất hiện, với quan niệm
phải đổi mới văn học, phải tránh đi trên vết mòn của thời tiền chiến. Thật là một
thời khởi sắc trong khuôn khổ một quốc gia nề nếp và nghiêm chỉnh.
Sau năm 1963,
riêng đời sống của báo chí và văn học có phần rộn rịp hẳn, và mang nhiều sắc
thái mới. Nếu thời đệ nhất cộng hòa đậm nét ảnh hưởng của văn nghệ tây phương
thì đệ nhị cộng hòa khuynh hướng đông phương có vẻ trỗi dậy, về mặt sáng tác
cũng như khảo cứu, trong đó Phật giáo có vai trò rõ hơn so với thời kỳ trước.
Nhật báo, tạp chí ra nhiều hơn, các nhà xuất bản cũng thế. Nhưng cũng trong thập
niên 1960 nhịp độ chiến tranh ngày một nặng nề, ảnh hưởng rõ rệt đến thái độ của
người cầm bút, và bom đạn cũng lấy đi mạng sống của nhiều tác giả trẻ đang cầm
súng ở chiến trường.
Xuất bản và Phát
hành sách vở của một xứ sở là phần nổi của sinh hoạt trí thức nói chung, và
riêng đối với văn học nó cũng phản ảnh tình hình sáng tác của giới cầm bút và
việc đọc sách của dân chúng. Với một cái nhìn tổng quát, nhờ một nền giáo dục
dân tộc và khai phóng --tôn trọng quá khứ, cởi mở trong hiện tại và khuyến
khích đi tìm những chân trời mới-- tình hình viết và đọc của miền Nam của chúng
ta không tệ, nhiều lúc có thể nói rất náo nhiệt đầy sức sống, mặc dù chiến
tranh ngày càng nặng nề.
Đến đây tôi xin nhường lời để các diễn giả khác đào sâu về chính nội dung nền văn học của miền Nam, vì đó mới thực sự là điều chúng ta cần tìm hiểu trong cuộc hội thảo này.
Đến đây tôi xin nhường lời để các diễn giả khác đào sâu về chính nội dung nền văn học của miền Nam, vì đó mới thực sự là điều chúng ta cần tìm hiểu trong cuộc hội thảo này.