Thứ Năm, 1 tháng 1, 2015
Nguyễn Đức Tùng - THƠ NHÂN CHỨNG: NGỌN LỬA CUỐI CÙNG CỦA TỰ DO
![]() |
Ảnh chụp tại cuộc Hội thảo Văn học Miền Nam ngày 6/12/2014, từ trái: Trần Doãn Nho, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Hoàng Nam, Lena Nguyễn, Nguyễn Hưng Quốc, Nguyễn Đức Tùng, Phạm Phú Minh, Phùng Nguyễn. |
Lời
dẫn: Một
bản rút ngắn của bài tham luận này đã được trình bày trong Hội thảo về Văn học
miền Nam, tổ chức ngày 6 và 7 tháng 12, 2014, tại California. Có nhiều định
nghĩa về một dòng văn học: tùy theo thời gian hay nội dung, tác giả hay tác phẩm.
Tác giả đã chọn định nghĩa nội dung: văn học miền Nam tràn qua ranh giới tháng 4 năm
1975. Nhìn chung, ở vùng kế tiếp, các giai đoạn văn học gần nhau đều nằm gối
lên nhau. - NĐT
Trong những hoàn cảnh
khắc nghiệt, thơ có thể làm được gì?
Đói khát, chiến tranh, tù
đầy, vượt biển, tra tấn. Cực điểm của lịch sử, tận cùng của số phận và nhân phẩm.
Suốt hai mươi năm, 1954-1975,
thơ miền Nam hào hứng mở đường, mê mải làm mới ngôn ngữ, trong khi tạo ra những
giá trị không ai có thể nghi ngờ trong gia tài nghệ thuật chung của đất nước, tạo
nên một trong những nền thơ lớn nhất của dân tộc nửa sau thế kỷ hai mươi, thì
nó cố tình bỏ quên một điều.
Giữa một không khí tự
do, bỡ ngỡ, đầy cảm hứng, nhưng tự phát, nền văn học hai mươi năm ấy, trong khi
không ngớt lo âu về thời cuộc, chiến tranh, thân phận, đã phát triển dựa trên một
giả định có tính bắt buộc, rằng những điều kiện tự do sáng tạo của nó là lâu dài,
vĩnh viễn. Chính là dựa trên giả định ấy mà giá trị căn bản của văn học miền Nam đã được thiết
lập.
Cây đang xanh tươi không
chuẩn bị cái chết của mình. Bất ngờ, tức khắc. Vì vậy, sau một cái chết như thế,
bất ngờ và tức khắc, ắt phải có những âm vang dội lại, những tàn lửa hồi quang
của ý thức bàng hoàng, bừng tỉnh.
Sáng
nay thức giấc trong nhà giam
Anh
nhớ những câu thơ viết thời trẻ
Bừng
cháy trong lòng anh bấy lâu u ám quạnh quẽ
Ánh
lửa mênh mang của buổi tình đầu
(Thanh Tâm Tuyền)
Buổi tình đầu với ai? Người
thiếu nữ hay lý tưởng thời niên thiếu?
Thật ra, giữa thơ trữ
tình và chính trị có mối xung khắc lâu dài.
Lý do ra đời của một
bài thơ ít nhiều liên quan đến tình huống nguy kịch; chính sự bế tắc cùng cực của
hiện thực, sự sụp đổ niềm tin, làm ý thức nhảy bật lên. Để có bước nhảy tâm
linh như thế, thi sĩ cần thời gian đủ dài để các ý tưởng mới mẻ tràn ngập, chiếm
đoạt mình. Dù được sáng tác trong hoàn cảnh khắc nghiệt, độc giả là khái niệm
mơ hồ, nhà thơ vẫn hy vọng gởi đi các thông điệp.
Đây chính là điểm khác
biệt, tách ra khỏi dòng trữ tình vốn ngự trị văn học miền Nam . Nếu trong
thơ trữ tình, tiếng nói của tâm hồn là dẫn đạo, tác giả tự trò chuyện với mình,
thì nhu cầu mô tả hiện thực trong hoàn cảnh mới, buộc nhà thơ phải tiến một bước,
vượt ra khỏi ranh giới giữa cá nhân và công chúng.
Thấm
thoát vào đây tháng đã tròn
Lông
hồng gieo xuống nặng bằng non
Vũ Hoàng Chương đã
riêng tư hóa đề tài chính trị và xã hội hóa cái riêng tư. Đi xuyên qua giữa hai
mặt đối lập, đời sống cá nhân và đời sống đất nước, để có khả năng làm chứng
cho một thời đại khủng khiếp.
Như một người thân:
Thăm
giùm ta người ấy ở trong tù
Cho
ta gởi một mảnh trời xanh biếc
Thay
giùm ai màu ngục âm u
(Minh Đức Hoài Trinh)
Hay như một người trực
tiếp tham dự:
Làng
mạc giờ đây đã trống trơn
Con
dê, con chó cũng không còn
Người
đi bỏ xác nơi bờ bụi
Miếu
sạt, thần hoàng rũ héo hon
(Tô Thùy Yên)
Bề mặt tan hoang ấy
ngày nay có thể đã thay đổi, nhưng cấu trúc tinh thần bên trong tạo ra bề mặt ấy
vẫn còn, và chỉ có văn học mới đóng đinh chúng vào lịch sử.
Thơ vốn đơn độc, không phải vì nhà thơ ít có thói
quen tập hợp, mà vì bản chất của thơ là riêng lẻ. Sức mạnh và điểm yếu của văn
chương nằm ở đây. Các nhà thơ mất độc giả, đại diện cho một thế giới không có đại
diện. Sự khủng hoảng chính trị, cuộc tháo chạy điên rồ, khúc quanh rẽ vào hoà
bình như mê ngủ sẽ phải trả giá đắt bởi nhiều thế hệ.
Năm 1975, thơ cần một
điều gì khác, đó là lúc thơ trữ tình cá nhân vượt qua ranh giới của nó, vươn tới
thơ chính trị, thời sự, nhưng vẫn không quy hàng chính trị, vẫn không dừng ở
tính chất thỏa hiệp, nó tạo ra một khuynh hướng thơ mới mà tôi nghĩ có thể gọi
là thơ nhân chứng.
Khái niệm nhà thơ như kẻ
than mây khóc gió, thịnh hành trong thời kỳ tiền chiến lãng mạn, hòa bình, đã
mau chóng biến mất trước ngọn lửa chiến tranh. Tuy vậy, hoặc là đáng tiếc hoặc
là đáng mừng, tùy quan điểm mỗi người, khuynh hướng sáng tác văn học như một hành
động xã hội chính trị chưa bao giờ là khuynh hướng lấn át trong thơ miền Nam . Thật ra bất
kỳ một tác phẩm nào cũng mang trong nó các yếu tố xã hội, luân lý, không phải
vì tác giả cố tình biểu lộ ý kiến, mà vì ngôn ngữ và đề tài trong tác phẩm bao
giờ cũng mời gọi sự phán xét có tính xã hội, luân lý. Các nhà thơ vừa là nạn
nhân vừa là kẻ tạo ra lịch sử: không một người nào có thể đi trước thời đại của
mình, anh ta chỉ có thể đi trong thời đại của mình mà thôi. Không một người nào
có thể vượt lên sự chia cắt dân tộc trong thời kỳ chiến tranh Nam Bắc
1954-1975, anh ta chỉ có thể đứng ngay trong cuộc chia cắt ấy, và chỉ có thể
tham dự vào một trong hai phía, hoặc là phía người săn đuổi hoặc là phía người
bị săn đuổi. Ngay cả sự im lặng cũng là tiếng nói đồng tình, ngay cả lời kêu gọi
hòa bình cũng ngụ ý ủng hộ một phía chiến tranh. Chỉ sau khi cơn sóng lịch sử
đã qua, chúng ta mới có thể bước ra khỏi cơn sóng ấy. Nhìn lại.
Một khuynh hướng sáng
tác mới bao giờ cũng được thử thách bằng chính sự thuyết phục của tác phẩm của nó.
Khi đọc thơ văn liên quan đến các thời kỳ như 1945, 1954, 1963, 1975, tôi tin rằng
giai đoạn 1975 tập trung nhiều tác phẩm thành công xuất sắc trong khả năng ghi
lại thời đại của chúng. Chính ở đây, các tác phẩm riêng rẽ đã kết tụ lại để tạo
nên một khuynh hướng, một dòng thơ, có thể được đặt tên.
Tuy nhiên thơ không phải
là báo chí, nhà thơ nhân chứng không phải là kẻ ghi lại sự thật của lịch sử, mà
là ghi lại sự thật của sự chứng nghiệm của anh ta trong lịch sử, của dấu ấn mà
hoàn cảnh khắc nghiệt đóng lên tâm hồn mình.
Vũ Hoàng chương, hiện
thực trào phúng:
Sáng
chưa sáng hẳn tối sao đành
Gà
lợn om sòm cả bức tranh
Khác với lãng mạn trước
đây:
Mười
năm trăng cũ ai nguyền ước
Tố
của Hoàng ơi Tố của Anh
Sau lưng sự tra tấn là
cái bóng của quên lãng.
Bất cứ một lực tiêu diệt
nào cũng đi kèm với nó mong muốn của kẻ trấn áp về sự quên lãng của nạn nhân. Tức
là xóa bỏ trí nhớ và sửa đổi quá khứ, tức là xếp lịch sử theo trật tự của tương
lai mong muốn. Thơ chống lại điều ấy.
Kẻ đối diện với giam
hãm, lưu vong, nghĩ gì khi họ tiếp tục làm thơ, không còn hy vọng? Không ai biết
rõ. Nhưng ý định của bài thơ, nhu cầu truyền đạt những kinh nghiệm của nó, trở
nên sống động hơn ở khúc quanh lịch sử này.
Khác với văn xuôi, thơ
có thuận lợi vì không đòi hỏi nhiều phương tiện ghi chép, dễ nhớ, dễ đọc. Cũng
vì lý do tương tự mà thơ có vần được sử dụng nhiều hơn các thể khác. Nhưng sự thay đổi ấy diễn ra trước hết vì
một khuynh hướng nghệ thuật, và không hẳn chỉ vì sự thuận tiện. Thơ nhân chứng
không phải là một bút pháp, mà là một khuynh hướng. Bút pháp của thơ giai đoạn
này hầu hết là trữ tình. Vì vậy có thể gọi đây là thơ trữ tình nhân chứng.
Tàu
đi như một cơn điên đảo
Sắt
thép kinh hoàng va đập nhau
Ta
tưởng chừng nghe thời đại động
Xô
đi ầm ĩ một cơn đau
(Tô Thùy Yên)
Những đề tài chưa bao
giờ được nói đến thời trước. Hình ảnh một con tàu lao đi trong đêm tối, chở
theo trong nó những người đi cải tạo, những tù nhân, những số phận bị va đập, sự
đánh tráo của chân lý, sự bế tắc của lịch sử. Thơ trữ tình nhân chứng là sự
dung hòa giữa nghệ thuật trữ tình và nghệ thuật tự sự, để tạo ra một thứ nghệ
thuật mới, nghệ thuật mô tả trong thơ ca. Nếu trong thơ hiện đại và thơ hậu hiện
đại, vai trò của công chúng là không đáng kể, thì thơ nhân chứng, thơ phản
kháng và thơ thế sự là ba dòng thơ có tiếng nói mạnh mẽ đối với các vấn đề của đất
nước.
Nhưng sự thay đổi cũng
diễn ra về mặt giọng điệu. Thơ tự do làm nổi bật giọng riêng, nhưng thật ra
trong các thể thơ cổ điển, biểu hiện của giọng điệu vẫn dễ nhận ra vì đó là một
trong những yếu tố quan trọng tạo nên hình thức của thơ: số chữ ngắn và dài
trong một câu, sự hiệp vần giữa các câu, sự lặp lại của các âm, tiến độ của câu
chữ trong bài thơ, mức độ cao hay thấp của các nguyên âm được phát ra. Suy cho
cùng giọng điệu không phải chỉ là cách nói, mà còn là cái được nói, không phải
chỉ là hình thức mà còn là nội dung.
Để bài thơ có thể làm
chứng cho sự thật, giọng điệu bài thơ ấy cần giữ cho người nói một khoảng cách,
nhưng mặt khác, tính chất trữ tình không ngớt làm khoảng cách ấy gần lại.
Cây
sậy quều quào của chúng ta
Có
thể hết bưng nổi cái sọ dừa cứng đầu
Trần
chết hôm kia
(Trần Dạ Từ)
Ở
một số nhà thơ như Trần Dạ Từ, chúng ta đọc từng câu không những để đi tìm ý
nghĩa của câu ấy, nhưng còn đi tìm ý nghĩa của những câu trước nó và quanh
nó. Đó là một đặc điểm thi pháp. Chủ
nghĩa hiện thực, chưa bao giờ đóng vai trò quan trọng trong thơ miền Nam trước đây,
đã được đẩy đến tận cùng biên giới của nó. Bề mặt tiếp xúc của hiện thực, siêu
thực, huyền ảo.
Thơ như một dấu vết của
sự kiện lịch sử, dấu vết ấy là hóa thạch vĩnh viễn trong sự thật của ngôn ngữ. Nhưng
sự thật của ngôn ngữ có thay đổi không? Người đọc thơ đời sau không chỉ lắng
nghe một câu chuyện cổ tích, có thể vui buồn, đoán trước được, nhưng chỉ độ vài
giờ, người đọc thực sự của dòng thơ này phải là người chịu chia sẻ các chấn
thương như một nhân chứng, hay hơn thế, như một kẻ trong cuộc. Tham dự, dù chỉ
là trong tâm trí, vào các cuộc hành hạ thể xác và tinh thần, có bao nhiêu người
làm được điều ấy?
Vẫn biết sự hóa thân diễn
ra khi bạn thưởng thức bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng đòi hỏi này đối với
dòng thơ trữ tình nhân chứng là mạnh mẽ hơn, vì tính chất tình huống của nó.
Như khi những người đàn ông nghĩ về gia đình, thương yêu, xót xa, đằm thắm.
Trở
mình trên ván chật
Ru
dỗ giấc đơn chiếc
Rõi
mắt đốm mộng vời
Thương
vợ con khôn nguôi
(TTT)
Thì có khác gì một nhà thơ khác, trong một câu chuyện
khác?
Người
về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày
(Hoàng Hưng)
Thơ Thanh Tâm Tuyền vẫn có sự mờ nhòa giữa trại giam
và thế giới, giữa người tù và thiên nhiên. Tâm trạng buồn bã của người bị giam
hãm có thể được thấy rõ trong giọng điệu thơ bằng phẳng, trầm buồn, lặng lẽ,
không tuyên bố, đầy suy tư. Có một liên kết giữa nhà thơ và người khác, giữa sự
đày đọa cá nhân và ý thức về đất nước, lịch sử. Trong hoàn cảnh ấy, cái đẹp sẽ đến
như một phép thử.
Bình
minh bình minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
(TTT)
Hay như một liệu pháp.
Trong khi bạo lực tìm
cách xóa bỏ quá khứ vì những hứa hẹn tốt đẹp trong tương lai, nhà thơ là người
thường trực quay lại căn nhà cũ, bằng chính tương lai của mình. Bút pháp trong
giai đoạn này còn có phong vị hài hước, châm biếm, là những đặc điểm nghệ thuật
ít gặp trước đó. Khi một con người bị đàn áp, giá trị và nhân phẩm của toàn nhân
loại cũng bị đặt lên lưỡi dao nhọn sắc. Thơ phải đi tìm cho mình những suy tưởng
kiểu khác, những thi pháp khác, thích hợp. Một số nhà thơ phá vỡ thói quen hình
thức, như đang làm thơ lục bát hay bảy chữ, trở thành người làm thơ tự do, và
ngược lại. Trần Dạ Từ nổi tiếng với thơ có vần, nhưng sau này bài thơ của ông Hòn đá làm ra lửa được viết ở thể tự do.
Thanh Tâm Tuyền vốn nổi tiếng về thơ tự do, khi ở trong tù thơ ông thường có vần.
Sự phá vỡ các hình thức
thơ ca không chỉ dừng lại ở đó, mà còn là sự phân mảnh, tách rời, sự vụn vỡ có
tính thẩm mỹ, như là một đặc tính của chủ nghĩa hiện đại và của chủ nghĩa hậu
hiện đại.
Huyệt
nông. Mưa lũ. Bạn dăm thằng
Ai
xui mày nổi
Giữ
lấy nó. Đè nó. Leo lên nó
(Trần Dạ Từ)
Sự kể lại những câu
chuyện trong cảnh ngược đãi, khủng bố, tự chúng có tính gây chấn thương. Người
viết và người đọc cùng chịu những sang chấn tâm lý, vì sự hạ nhục đối với giá
trị con người không cho phép ai có thể bàng quan. Thi pháp hiện đại vượt qua
giai đoạn tiểu thuyết với đoạn kết có hậu, trường ca tuy có bi kịch, máu và nước
mắt, nhưng vẫn đẫm khí vị anh hùng. Các câu chuyện được kể lại trong thơ giai
đoạn này không phải là câu chuyện toàn vẹn, thực ra chúng chỉ là những lời kể,
những diễn tiến, những lịch sử không có đoạn kết. Hay là những đoạn kết bi
thương, cần được giữ lại, cân nhắc, giữ riêng một mình, ngẫm nghĩ, trước khi
đem ra kể lại với công chúng.
Thơ trữ tình nhân chứng
gần với trữ tình chính trị, nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Trong khi thơ trữ
tình chính trị tuyên bố, đả phá hay ca ngợi, triết lý, và nhất là thuyết phục,
thì thơ trữ tình nhân chứng tuy cũng có ý nghĩa tập thể, nó vẫn nặng về tính tự
sự cá nhân và mở rộng đối thoại xã hội. Về mặt nghệ thuật, có thể cho rằng thơ
trữ tình nhân chứng tăng cường sự quan sát và chú trọng phương pháp mô tả khách
quan.
Không
phải quê quán, mẹ cha, con cái
Cũng
chẳng phải đất đai, của cải
Chính
cuộn khói bốc lên
Từ
lửa của đôi ta
Đã
làm tôi kéo em vấp ngã
Chúng
ta đã chia lìa
Chúng
ta bị tước bỏ, bị bôi xóa
Lần
cuối, khi quay đi trong xiềng xích
Em
nhớ mà. Chúng ta cùng thấy nhau
(Trần Dạ Từ)
Trước đó, đi sâu vào những
chiều kích cá nhân, thơ miền Nam
đã từng bước tới cánh cửa mở rộng của ngôn
ngữ, thơ lấy sự đổi mới về ngôn ngữ làm mục đích cuối cùng và quan trọng nhất của
nó. Trong khi ấy, đời sống bên ngoài trôi chảy, ngọn lửa chiến tranh bốc cao ngùn
ngụt, bạo lực không ngừng gầm thét.
Thật ra, văn học nhân
chứng vốn có một quá khứ lâu đời từ
Đông sang Tây, ở nơi nào lịch sử trở nên tàn khốc, ở nơi ấy có văn học của nạn
nhân, về tội ác chống lại con người. Anna Akhmatova là một trường hợp điển hình
trong lịch sử văn học Nga cận đại. Chồng bị mật vụ giết hại, con trai duy nhất
bị bắt giữ và đày đi biệt xứ, ở một nơi nhà văn lừng danh Bunin đã chết. Bà kể
rằng có lần đứng sắp hàng trước một nhà tù ở Leningrad để xin vào thăm con, có ai đó gọi
tên bà, vì thế một người phụ nữ cũng đứng trong hàng nhận ra. Người phụ nữ tiến
lại gần, khẽ hỏi: Thưa chị, chị có thể mô tả lại cảnh khốn khổ của chúng ta được
không?
Nhà thơ trả lời: Được,
tôi có thể làm được.
Và bà kể tiếp: "Thế
rồi một điều gì đó tựa như nụ cười chiếu hắt lên một vùng trước đây vốn là
khuôn mặt của bà."
Cuộc đối thoại của hai
người đàn bà, trong mùa đông giá buốt của nước Nga xô viết, trước bức tường nhà
tù, thật giản dị nhưng sống động như một bức tranh về một thế giới lầm than.
Thơ là ẩn dụ, chữ là
nhân chứng. Một chữ có thể hành xử biểu trưng cho các mối quan hệ, giúp cho sự
tương thông giữa người viết và người đọc. Trong khi con người đau khổ vì những
lý do cụ thể, đói, khát, roi vọt, chết chóc, chia lìa, thì lạ lùng thay nó vẫn
không ngừng tìm kiếm niềm vui thú trong nghệ thuật, niềm vui sống được xiển
dương bởi các hình ảnh và âm nhạc.
Một kẻ tù tội hay cô độc,
đói rách, vẫn có thể tìm thấy trong những câu thơ sau đây của Tô Thùy Yên vẻ lấp
lánh của chữ, sự an ủi của nhạc tính, cái lộng lẫy huy hoàng của tiếng Việt:
Tàu
đi khoan xoáy sâu đêm thép
Tiếng
nghiến ghê người, thác lửa sa
Lịch
sử dường như rất vội vã
Tàu
không đỗ lại các ga qua
Cái đẹp trong niềm thống khổ: đó là phương tiện tìm
kiếm sức mạnh để tiếp tục, tìm kiếm hình thức để tồn tại. Để có khả năng nhìn
thấy cái đẹp, để sáng tạo cái đẹp, cần đến khả năng giữ thăng bằng giữa tuyệt vọng
và niềm tin, sự hạ nhục và dũng cảm, hận thù và khoan thứ. Xưa nay những thế hệ
bị đàn áp, những dân tộc đau khổ, thường cất lên tiếng nói vang xa và lâu nhất.
Nhạc tính của thơ ca vượt khỏi các bức tường trại giam, tạo nên một thứ ý thức
tập thể. Những nạn nhân sống sót được là nhờ biết cách tồn tại, nhưng tồn tại của
họ chỉ có ý nghĩa khi trong nỗi khốn khó họ có ý thức về tồn tại.
Thoạt kỳ thủy, thơ có
tính tự sự, tính trường ca, tức là mang trong nó khả năng mô tả sự vật, ca ngợi
chiến công, khẳng định niềm tin tôn giáo, làm chứng cho các sự kiện tập thể. Xã
hội ngày càng phát triển, thuộc tính mô tả và trường ca dần dần bị thay thế bởi
tính riêng tư, nặng về âm nhạc, nặng về xúc cảm. Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa
lãng mạn và lý thuyết phân tâm học, thơ thế kỷ hai mươi ngày càng mang tính trữ
tình. Nhà thơ trở nên mất khả năng đại diện cho dân tộc, ngày một cô đơn. Tôi
cho rằng đây có thể là cội rễ của hiện tượng bế tắc sáng tạo ở một số nhà thơ nổi
tiếng ở miền Nam
khoảng đầu những năm 1970.
Chống lại sự dối trá đã
ăn sâu vào tâm thức của bao thế hệ, thơ nhân chứng như những ngọn lửa nhỏ nhưng
không tàn, soi sáng trở lại diện mạo dân tộc trong một giai đoạn bi thương và
cái đẹp buồn rầu nhưng bao dung của nó.
Đề tài của thơ không chỉ
giới hạn ở người trực tiếp tham dự, mà còn về những mất mát ở người thân, nỗi
đau của chính quê hương mình.
Đau
khổ riêng gì nơi gió cát
Hè
nhà bụi chuối thức thâu đêm
(TTY)
Những đối phương của
nhà thơ, mà hình ảnh vốn mờ nhạt, chưa hề là đề tài lớn trong thơ miền Nam , thì nay có
thể thấy thấp thoáng đâu đó, nhưng vẫn là khung cảnh, hơn là nhân vật.
Nhìn
xem gương mặt hắn thanh thản
Lộng
nắng như say chợp ngủ vùi
Người
mong giam hãm đặng bêu riếu
Hắn
dầm thân xấp ngửa theo đời
(TTT)
Kẻ bị đầy đọa trong nhiều
trường hợp vẫn giữ được sự điềm tĩnh. Nếu so sánh với của những cuộc khủng hoảng
khác trong lịch sử cận đại, nạn nhân của thời điểm này bắt đầu có tiếng nói mạnh
mẽ hơn. Sự dịch chuyển từ những lời nói thầm, tâm sự đơn lẻ, chuyển thành tiếng
nói và giọng điệu có tính cách đại diện là một sự dịch chuyển ngược chiều từ
ngoại vi vào trung tâm. Với tư cách người đại diện, nhà thơ tách rời khỏi vai
trò của con người tác giả cụ thể: bất chấp những quan điểm của chính nhà thơ sau
đó như thế nào, khi một tác phẩm được viết ra, nó vĩnh viễn là bằng chứng.
Trong bối cảnh của các
cộng đồng nạn nhân hậu chấn thương, rời rạc, phân ly, động năng thấp, còn nhiều
nghi kỵ, cần nhấn mạnh rằng khả năng làm người chứng của văn học chỉ có tính
tương đối. Sự thật chỉ là sự thật tương đối. Không một nhà thơ tài năng nào có
thể làm thay công việc của người đọc và nhà phê bình. Việc cảm thụ, chia sẻ,
đánh giá, diễn dịch là thuộc về công chúng, nhưng chúng ta đang có một công
chúng của thơ ca thay đổi mỗi ngày, rải rác, tan rã, rời rạc, mặc dù ngày càng
được bổ sung thêm, ngày càng tìm cách liên kết lại bằng các phương tiện truyền
thông mới.
Nhà thơ, nhà văn sống
qua những kinh nghiệm của mình không có bổn phận phải hướng dẫn chúng ta, những
người đến sau, họ chỉ có nhiệm vụ ghi lại các sự kiện, những người cùng thời,
trong đó có chính đời sống của họ, ghi lại sự thật như họ đã nhìn thấy, đã sống,
và đến lượt chúng ta, người đọc quan sát hành vi của họ, chia sẻ xúc cảm của họ,
đồng ý và không đồng ý, làm sự đối chiếu để hướng dẫn cho suy tưởng và tình cảm
của chính mình. Trong trường hợp này, ngôn ngữ thơ buộc phải chọn lựa giữa một
bên là khuynh hướng biểu hiện cái tôi, bất chấp nó xa lạ hay kỳ quặc đến đâu,
như ta có thể thấy ở một số nhà thơ hiện nay, hay như trong trường phái thơ
ngôn ngữ, và một bên là khuynh hướng muốn chia sẻ, mở những lối tương thông giữa
người và người. Hầu hết những nhà thơ vào giai đoạn sau 1975 ấy đã chọn khuynh
hướng thứ hai.
Đứng
vững không khuỵu chân
Trên
mảnh đất nghèo khổ
Thở
hít tận vô cùng
Ngây
say đóa hồng rợ
(TTT)
Khuynh hướng tương thông
được đẩy xa đến mức giọng điệu của câu thơ là đối thoại, kêu gọi, nhắc nhở, trực
tiếp gởi đến một người khác (address).
Tôi
không biết giờ này em ra sao
Em
có lượm lại đủ lũ con cái tan tác không
Em
có gì để ăn. Cho chúng ăn
(TDT)
Thơ nhân chứng có giá trị tố cáo đối với sự đàn áp
con người, nhưng tố cáo chưa hẳn là mục đích chính yếu, vì mặc dù tìm cách mô tả
hiện thực, đó vẫn là một thứ hiện thực xuyên qua lăng kính trữ tình, tức là của
tâm hồn nhà thơ. Nhà thơ tìm cách bảo vệ tâm hồn mình trước những tổn thương của
hoàn cảnh nhiều hơn là tìm cách lên án hoàn cảnh khắc nghiệt ấy.
Cũng Trần Dạ Từ, đã sử
dụng giọng điệu hài hước, có lẽ ít gặp trong thơ ông trước đó:
Nhưng
ta sẽ không quên cùng nhắc mọi người
Phải
nhớ tới anh bạn trước gọi là kẻ thù
(TDT)
Có ba khái niệm quan trọng
đánh dấu đặc tính của thơ trong một giai đoạn: đề tài, tư tưởng và giọng nói,
giọng điệu. Trong khi giọng nói có tính ít thay đổi, đơn nhất cho mỗi người, thì
giọng điệu có thể thay đổi trong từng bài thơ, mô tả suy nghĩ và cảm xúc của
người nói, và đo lường khoảng cách giữa người nói và người nghe. Để hiểu bi kịch
của người Việt Nam ,
trong thời chiến tranh, và lâu hơn, rộng hơn, sâu hơn cuộc chiến tranh ấy, hãy
so sánh hai đoạn thơ, sáng tác sau tháng Tư năm 1975, về mặt giọng điệu. Một của
Chế Lan Viên.
Ngoảnh
mặt nhìn đâu cũng thấy anh em
Ngoặt
một cái, sạch hết bùn, chỉ có hoa sen
Và một của Trần Dạ Từ.
Chiến
tranh. Cách mạng. Ngày hội của quần chúng
Tội
nghiệp. Họ được dạy dỗ thế
Tội
nghiệp. Họ tin sống tin chết như thế
Bi kịch ấy hiện nay có
thể mang những bộ mặt khác, ngày càng bớt gay gắt hơn, ôn hòa hơn, vì nhiều lý
do, nhưng về thực chất chưa thay đổi. Đó là quan hệ giữa một bên là người tin
chắc mình đứng về phía lẽ phải, hoặc ít ra là đứng rất gần với nó, và một bên
hoàn toàn không tin như thế. Vì vậy, cuộc xung đột quân sự, chính trị, trong quá
khứ, ngày càng trở thành cuộc xung đột
văn hoá, đương đại. Dân tộc ta vượt qua cuộc xung đột ấy như thế nào có lẽ
sẽ là một trong những nhiệm vụ chính yếu của văn học tương lai.
Người đọc thơ đi tìm những
kinh nghiệm của nhà thơ có ý nghĩa cho họ. Vì vậy những câu thơ, hoặc bài thơ,
có giọng tuyên bố chỉ đóng vai trò bổ sung trong giá trị của bài thơ, hoặc toàn
bộ sáng tác của một nhà thơ, vì chúng không lấy hình ảnh ẩn dụ làm trung tâm. Cũng bài thơ Hòn đá làm
ra lửa, hòn đá là hình ảnh trung tâm.
Và,
Có
thể chúng ta sẽ sống sót. Sẽ trở về
Cùng
vuốt ve lại trang giấy bị vò nát ném bỏ
(TDT)
Trang giấy là niềm hy vọng
của Trần Dạ Từ được mô tả một cách tuyệt đẹp giữa những tan nát, sống chết, mất
còn. Chúng ta đang nói về hy vọng. Có thể nào nói về hy vọng giữa sự mất mát,
thua cuộc, thất bại, tai họa? Có thể lắm. Niềm hy vọng của thơ nhân chứng biểu
hiện xuyên qua tình yêu, giấc mộng đoàn viên.
Và tha thứ. Tôi thấy trong thơ của chính các nạn nhân giai đoạn này bàng bạc cảm
giác và tâm thức ấy.
Tha thứ là sự buông thả
cảm giác hận thù trong quá khứ, nhằm đạt tới sự cân bằng về tâm lý, đạt tới trạng
thái lành mạnh về tinh thần, giúp con người có khả năng hơn đối diện với những
thách thức trong tương lai, bất ngờ không đoán được. Tha thứ giúp cho nạn nhân
của bạo hành, ngược đãi thoát khỏi bóng ma ám ảnh của quá khứ, của tội ác, giúp
họ trở nên những người tự do.
Tha thứ không phải là
quên lãng. Tha thứ là sự quên lãng có chủ ý đối với hận thù và đối với một số
kinh nghiệm, nhưng không phải là sự quên lãng toàn bộ đối với các kinh nghiệm.
Mối quan hệ giữa thơ ca và sự tha thứ có thể được hiểu biết nếu chúng ta xét
ngôn ngữ như một quyền năng có thể làm thay đổi. Để thay đổi, chúng ta cần đến
sự hiểu biết và kiên nhẫn.
Ta
về khai giải bùa thiêng yểm
Thức
dậy đi nào gỗ đá ơi
(TTY)
Tình yêu thương là sức
mạnh lớn nhất của những người bị giam hãm hay lưu vong. Đó là tình yêu đối với
người thân thuộc, người vợ hay chồng ở quê nhà và tình yêu đối với đồng bào. Tấm
lòng của một người tù miền Nam
đang ngồi trong toa tàu sắt thép, nhìn qua làng mạc mơ hồ đêm tối:
Hỡi
cô con gái trăng mười bốn
Đêm
có nằm mơ những hội xuân
Đời
có trăm lần cam dối mẹ
Nhớ
thương nào giấu thấm vành khăn?
(TTY)
Tôi tưởng tượng chuyến
tàu đêm chở những người tù cải tạo đang chạy ra Bắc, đi qua vùng thôn quê nơi
ngày xưa Nguyễn Bính đã từng làm thơ về một người con gái ngồi sau khung cửi dệt
lụa:
Bữa
ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa
xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Đẹp biết bao giấc mộng đoàn viên, người lính trở về từ chiến
tranh, người tù về từ trại giam, nạn nhân về từ cõi chết, nghĩ đến người thân, giếng
nước, căn nhà cũ, và mong ước:
Trước
mắt ta còn trăm thứ việc
Sửa
nhà chăm sóc lại vườn hoa
(TTY)
Nhưng cũng có giấc mơ
đoàn viên cho một người đã thực sự nằm xuống, chua xót, bao dung, nhẫn nại:
Suối
nước và em đi chung từng bước chân
Giản
dị thôi. Như ngày nào. Em tới
Tới
và nói chung với cây cối một lời
À.
Anh ấy nằm đây. Có thế chứ. Anh ấy vẫn giữ nó. Hòn đá làm ra lửa.
(TDT)
Hình ảnh trong thơ, tức
là những kinh nghiệm mang tính cảm giác, có khả năng nối kết những người đọc với
nhau, tạo nên một tập hợp những người cùng yêu mến một bài thơ, một tác giả, tạo
nên một cộng đồng. Mối liên kết ấy là đặc biệt, cụ thể, đầy tính hiện thực, trực
tiếp. Câu thơ, bài thơ thường bắt đầu bởi hình ảnh hay nhịp điệu, bởi hình thức,
bởi cái bóng của nó nhiều hơn là bản thể của nó. Trong khi sự so sánh phát hiện
những mối liên kết của các sự vật, thì ẩn dụ đi tìm bước nhảy vọt về nhận thức
và xúc cảm, tức là các mối liên lạc văn hóa ngấm ngầm, sâu xa, làm cho chúng
thăng hoa.
Tàu
đi. Lúc đó, đêm vừa mỏi
Lúc
đó, sao trời đã ngủ mê
Chú ý các chữ ngắn gọn,
cách ngắt câu, nhiều cảm xúc, nén lại, giàu tính mô tả, nhịp độ gấp, trong bài
thơ Tàu đêm của Tô Thùy Yên, viết năm
1980. Chuyến tàu vừa là một hình ảnh có thật trong đời sống, vừa là một biểu
trưng cho điều gì khác. Như số phận của dân tộc. Nhưng thơ thường không chỉ là các
ý tưởng và hình ảnh lớn, tổng quát, vì nó biết tâm hồn lặng lẽ dừng lại góc tối,
ngã rẽ, sự khinh bạc của số phận, lừa dối của lịch sử.
Ôi
những nhà ga rất cổ xưa
Dường
như ta đã thấy bao giờ
Đến
nay người giữ ga còn đứng
Đèn
bão đong đưa chút sáng mờ
(TTY)
Người giữ ga là ai? Tôi
không biết, nhưng tôi biết chút ánh sáng mờ của ngọn đèn bão kia sẽ còn lưu luyến
mãi trong tâm hồn mình.
Đó không chỉ là vẻ đẹp,
đó là hiệu dụng làm nguôi ngoai những tổn thương cá nhân và tập thể. Tiếng nói,
ánh sáng, nhịp điệu là những dấu hiệu khởi đầu của tâm thức và lương tri. Sự
tha thứ là có thật, có khả năng dẫn đường nhiều hơn những hiệu triệu khác, có
quyền năng chữa lành vết thương hơn những tranh cãi và lý luận khác. Vì trong một
bài thơ, có thể cùng dịch chuyển một lúc nhiều lớp địa chất của ngôn ngữ, nhiều
tầng của ý nghĩa, mang con người lại gần nhau trong kinh nghiệm chung, chia sẻ
được, và vì vậy có thể hàn gắn họ vào nhau. Sự lặp lại của các chữ, sự hợp vần
và tạo nhạc điệu, sự va đập lóe sáng của các hình ảnh, sự phát hiện các liên kết
sự vật, là cội nguồn của quyền năng của thơ ca.
Thơ là sự nén chặt các
ý nghĩa, làm mới lại các ý nghĩa. Người làm thơ được đặt trong mối quan hệ trực
tiếp, đương thời, với hoàn cảnh. Câu thơ cần có tính chất kỳ lạ, thậm chí dị
thường, nếu nó muốn mang nhà thơ đến với các quan hệ trực tiếp kia.
Như vậy mặc dù thơ nhân
chứng mô tả lịch sử, nó vẫn mang phẩm chất quan trọng nhất của thơ. Đó không phải
là sự thông báo mà là sự dịch chuyển, vận động. Sau này, thơ nhân chứng còn được
mang theo tới những nơi xa ngoài tổ quốc bởi các đại diện cùng thời hay tiếp
theo, ghi lại dấu ấn lên thơ của họ, ở những mức độ khác nhau, đậm hay nhạt,
nhưng có thể còn nhận ra được: Nguyên Sa, Du Tử Lê, Cao Tần, Viên Linh, và nhiều
người khác (*). Những bài thơ đủ sức chiếu rọi ánh lửa trong khoảng mười năm, 1975-1986,
diễn ra trong bối cảnh thay đổi về chính trị, xã hội, văn học, trong nước và
ngoài nước, sẽ còn mãi không chỉ như nhân chứng của một thời đại, mà còn là
cánh cửa liên kết với những nền thơ khác tiếp sau đó, thơ hải ngoại, thơ trong
nước, không ngớt gieo trồng hạt giống của mình lên cánh đồng dân tộc. Những hạt
giống của hy vọng, của yêu thương, mang về những mùa màng trễ muộn nhưng ngày
càng khởi sắc, trong các thế hệ tiếp theo sau.
Về sự tiếp nhận văn học: những sáng tác trong giai
đoạn ngay sau khúc quanh 1975, theo tôi biết, chưa hề được khảo
sát tường tận bất cứ ở đâu. Vì nhiều lý do: quan điểm chính trị, sự thất lạc của
các tài liệu, các nhà thơ hầu hết đã qua đời, số lượng tác phẩm ít ỏi, và thiếu
thốn các nhà nghiên cứu. Bốn mươi năm là một thời gian dài đủ để chúng ta nhìn
lại một thời kỳ đen tối. Điều đáng mừng là thế hệ trẻ hiện nay ngày càng hiểu
biết hơn, có nhu cầu tìm đọc các tác phẩm đang dần dần được phổ biến trở lại,
nhờ vào sự cố gắng của nhiều nhà văn có lòng ở hải ngoại và cả trong nước, miền
Nam và cả miền Bắc. Cần nhấn mạnh rằng việc nghiên cứu giai đoạn văn học ngắn
ngủi này, mà ở đây tác giả xem là một phần, phần cuối của văn học miền Nam, cần
khách quan, công bằng, tránh rơi vào một trong hai cực đoan của tiếp nhận:
khuynh hướng đả kích, gạt bỏ, và khuynh hướng tiếp nhận mang tính tình cảm, phóng
đại.
Trong mạch trữ tình, giọng
điệu của thơ có thể là giọng đối thoại, trong trường hợp nhà thơ giữ được lòng
tin vào cái tốt đẹp, và nhất là khi họ viết về người khác.
Đó
là một buổi sáng tháng Giêng rực rỡ
Không
có thứ cờ quạt nào vẩy nhơ nổi bầu trời
Không
thứ hành hạ nào bôi bẩn được trí nhớ
Đồi
núi và em mặc chung áo nắng vàng
Suối
nước và em đi chung từng bước chân
Giản
dị thôi. Như ngày nào. Em tới
(Trần Dạ Từ)
Đó cũng là con đường đi
tới của thơ Việt Nam
hôm nay.
Ở trên tôi có nhận xét
rằng thơ miền Nam
không chuẩn bị cho cái chết của nó, nói như thế là chưa đầy đủ.
Hãy
cho anh khóc bằng mắt em
Những
cuộc tình duyên Budapest
Anh
một trái tim em một trái tim
Chúng
kéo đầy đường chiến xa đại bác
Tháng 12 năm 1956,
Thanh Tâm Tuyền đã viết những câu thơ trên đây, trong một bài thơ dài, sau sự
kiện quân đội Liên Xô tiến vào Hungary ,
hai tháng trước đó. Như tổng thống Kennedy đã nói: “Ngày 23 tháng 10, năm 1956,
là một ngày sẽ sống mãi trong biên niên sử của những con người và quốc gia tự
do.” Hàng ngàn người đã chết trong cuộc chiến đấu của họ chống lại đội quân xâm
lược, hàng ngàn người đã bị tra tấn và tử hình, khoảng hai trăm ngàn người đã
chạy trốn khỏi đất nước. Tôi không biết liệu có một người dân Hungary nào, một
thi sĩ nào của họ, đã đọc bài thơ trên đây của Thanh Tâm Tuyền, và gật đầu,
chia sẻ. Tôi chỉ biết rằng bài thơ ấy đã được cất lên ngay trong buổi bình minh
của miền Nam, rạng đông hạnh phúc của một nền văn học, nhưng có lẽ tác giả vào
lúc ấy không biết rằng đó là lời tiên tri cho số phận của chính mình và thế hệ mình.
Tôi cũng tự hỏi liệu có một thi sĩ nào từ Hungary đọc được thêm những câu này
nữa, hai mươi hai năm sau, trong hoàn cảnh khác, 1978.
Vác
bó cuốc nặng bước loạng choạng
Về
trong xây xẩm buổi tàn đông
Lạnh
lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm
đạm lòng ta chiều cuối năm
Nhưng mà, tàn đông có
nghĩa là sắp hết năm, tới mùa xuân. Một nhà thơ khác nói thêm, rõ hơn, về hy vọng
ấy:
Ngọn
lửa sẽ tái sinh. Ta sẽ cùng chụm lửa
Được
nấu nướng bên nhau. Thật hạnh phúc
Chắc
sẽ đủ tiêu ớt hành ngò
Cho
món xào chua cay mặn nhạt
(TDT)
Tôi nghĩ có nhiều người
sẽ mỉm cười khi đọc câu thơ ấy, và nhìn thấy mùa xuân tới, tuy trễ muộn. Trên quê
hương chung của người Việt chúng ta. Bởi vì bản chất của thơ, dù thuộc khuynh
hướng nào, đều không kìm hãm con người vào quá khứ, không ràng buộc chúng ta với
bóng tối thù hận, ngược lại chúng giúp cho người đọc thơ và làm thơ hôm nay,
trong nước và hải ngoại, có thể đi tiếp con đường khai phá của thế hệ trước.
Tuy vậy, giá trị của
thơ sau cùng vẫn là giá trị thẩm mỹ, bên cạnh tư tưởng của nó.
Làm chủ hình thức là làm
chủ sự vận động. Mà vận động là số phận. Khác với các sáng tác văn học khác,
văn học nhân chứng đòi hỏi ở người đọc và nhà phê bình một quan điểm tiếp nhận
rõ ràng hơn, một hệ thống các chuẩn tắc đạo lý riêng, mặc dù chúng có thể không
được bày tỏ công khai hoặc được ý thức một cách đầy đủ. Trong khi nhà thơ cần
chọn các chữ đúng, người đọc cần mở rộng cánh cửa tâm hồn mình trước tác động của
các chữ ấy và cùng làm việc với nhà thơ. Những nhà phê bình có quan điểm chính
trị và đạo đức khác xa với những thi sĩ như Trần Dần, Hoàng Cầm, Vũ Hoàng
Chương, Thanh Tâm Tuyền... khó có thể đi đến tận cùng cái đẹp trong tác phẩm của
họ, phân tích ráo riết và làm sáng lên tính chất đạo lý của cái đẹp ấy. Vì vậy
đối với việc nghiên cứu một giai đoạn văn học, nhà phê bình nào có quan điểm
hay cảm xúc xa lạ với quan điểm hay cảm xúc của các tác giả thuộc giai đoạn ấy,
phải có cố gắng rất nhiều, có công tâm, mới có thể tiếp cận tác phẩm được. Họ cần
có hai phẩm chất: khả năng đồng cảm và
khả năng tưởng tượng.
Thơ nhân chứng là thơ của
người trong cuộc, của nạn nhân. Họ vừa là người làm chứng, ghi lại sự thật của
bản thân, nhưng lại phải tìm cách vượt qua chính họ. Tức là vượt qua vết thương
của chính mình. Làm thế nào thơ có thể chữa lành các vết thương?
Ghi lại, mở ra, căm phẫn,
soi thấu, và khoan dung. Đối với cá nhân, cũng như đối với dân tộc, hồi phục là
một quá trình lâu dài. Người lặng lẽ đi đến cùng với tình yêu, với niềm tin từ
ngày đầu, tuy không còn sôi nổi, nhưng vẫn cháy sáng trong thiên thu tịch mịch.
Em,
soi bóng em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng
lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm
(TTT)
Hay giọng điệu thiết
tha hơn, kêu gọi hơn, như thể thơ ngày càng trở nên cần thiết.
Ta
về như lá rơi về cội
Bếp
lửa nhân quần ấm tối nay
Chút
rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải
oan cho cuộc biển dâu này
(TTY)
Thơ nhân chứng chống lại
sự hành hạ con người, chống lại khổ đau tăm tối, gợi lên lòng can đảm. Truyền đi
cho các thế hệ sau ánh sáng của những ngọn lửa cuối cùng của nó, và vì thế, tất
nhiên, không phải là cuối cùng: chúng trở lại. Có ai trong chúng ta cũng muốn ngồi
xuống quanh ngọn lửa ấy không?
Nguyễn Đức Tùng
Chú thích:
(*)
Có thể tạm kể thêm vài nhà thơ khác và
trong thứ tự ngẫu nhiên: Cao Đông Khánh, Chu Vương Miện, Thi Vũ, Đinh Linh, Nguyễn Đăng Thường, Trần
Mộng Tú, Thường Quán, Ngu Yên, Khế
Iêm, Đỗ Kh, Lê Thị Huệ, Luân Hoán, Thế Dũng, Nguyễn Hoàng Nam, Chân Phương, Đỗ
Quyên, Hoàng Xuân Sơn, Phan Nhiên Hạo, Vương Ngọc Minh, Trần Nghi Hoàng, Nguyễn
Thị Hoàng Bắc, Trịnh Y Thư, Nguyễn Đức Bạt Ngàn, Lê Đình Nhất Lang, Trần Trung
Đạo, Phan Xuân Sinh, Nguyễn Hoàng Tranh, Thận Nhiên, Lê Nguyên Tịnh, Bắc Phong.
Những
nguồn tham khảo:
1. Các
tài liệu riêng về thơ miền Nam của bác sĩ Phạm Hữu Trác, Montreal .
2. Các
bài vở trên trang mạng Talawas, Tiền Vệ, Da Màu, Hợp Lưu, Diễn Đàn, Văn Việt,
Sông Hương, Trần Nhương.
3. Đỗ
Quý Toàn, Tìm thơ trong tiếng nói, NXB Thanh Văn, 1992.
4. Thi
Vũ, Bốn mươi năm thơ Việt nam, NXB Quê Mẹ, 1993.
5. J.
D. Mc Clatchy, The Vintage book of contemporary world poetry, NXB Random House,
1996.
6. Nguyễn
Bùi Vợi, Thơ Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, 2004.
7. Nguyễn
Hưng Quốc, Thơ con cóc và những vấn đề khác, Văn Mới, 2006.
8. Feinstein,
Elaine, Anna of All the Russias :
A Life of Anna Akhmatova. NXB Vintage Books, 2007.
9. Tina
Chang, Nathalie Handal, Ravi Shankar, Language for a new century, NXB Norton,
2008.
10. Đặng
Tiến, Thơ. Thi pháp và chân dung, NXB Phụ nữ, 2009.