Thứ Sáu, 2 tháng 1, 2015
Ngự Thuyết - Thanh Tâm Tuyền, Nhà Thơ Tiên Phong
LTS. Kính mời bạn đọc xem lại bài tham luận của nhà văn Ngự
Thuyết trong cuộc hội thảo Văn học Miền Nam đầu tháng 12 vừa rồi, đã được tác
giả sửa chữa và thêm nhiều bổ túc quan trọng.
Kính thưa quý
vị, tôi rất hân hạnh trình bày đề tài “Thanh Tâm Tuyền, Nhà Thơ Tiên
Phong”.
Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư
Văn Tâm, sinh ngày 13/3/1936 tại Vinh, Nghệ An, viết văn, làm thơ, thỉnh
thoảng viết về phê bình, và lý luận văn học khi còn rất trẻ. Tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc (TKCCĐ), xuất bản năm 1956 tại Sài Gòn khi Thanh Tâm Tuyền
mới 20 tuổi. Tám năm sau, năm 1964, liên đêm mặt trời tìm thấy (lđmttt) ra đời. Theo lệnh động viên, ông nhập ngũ năm 1962, giải ngũ năm
1966. Năm 1968 tình hình chiến sự căng thẳng, ông tái ngũ và phục vụ
trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho đến khi Miền Nam thất thủ năm 1975.
Ông ở tù bảy năm dưới chế độ Cộng Sản. Năm 1990, theo diện HO, ông sang định cư
tại Hoa Kỳ, cho in tập thơ cuối cùng, Thơ
Ở Đâu Xa (TỞĐX). Từ đấy ít thấy ông xuất hiện trên các
tạp chí văn học. Ông qua đời ngày 22/3/2006 tại Minnesota, Hoa Kỳ.
Hôm nay tôi chỉ đề
cập đến lãnh vực sở trường và độc đáo nhất của ông, đó là thơ.
Có người cho
rằng Văn Học Miền Nam đột ngột chết, bị bức tử mà chết sau tháng
4/75. Tôi không đồng ý. Một nền Văn Học rực rỡ như thế không thể nào
mai một, nó đã được kế tục và phát triển. Bằng chứng là trước đây
và nhất là hôm nay, nền Văn Học ấy đã và đang được vinh danh. Cũng vì
thế, ngoài phần trình bày Thơ Thanh
Tâm Tuyền (Thơ TTT) trước năm
1975 như đòi hỏi của cuộc Hội Thảo, tôi xin trích dẫn thêm một bài
thơ trong tập TỞĐX in năm 1990 ở tại Mỹ.
Trước hết, tôi
xin giới thuyết hai chữ “tiên phong” trong bối cảnh Văn Học Việt Nam.
Nó không có nghĩa là “avant-garde” như trong thuật ngữ tiếng Pháp, mà
là “xông xáo, đi trước” so với tính cách “dè dặt, thủ cựu.”
Kính thưa quý
vị, từ năm 1954 đến năm 1975, chỉ 21 năm, văn học Miền Nam phát triển rầm
rộ, nhanh chóng, đa dạng, nhất là thơ. Ngoài những nhà thơ đã nổi
tiếng từ thời tiền chiến như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, rất nhiều nhà
thơ lỗi lạc khác chen nhau xuất hiện như Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Nguyên
Sa, Cung Trầm Tưởng, Du Tử
Lê, Nhã Ca, Trần Dạ Từ v.v..., trong đó một khuôn mặt độc đáo nhất, mạnh mẽ nhất, táo bạo nhất, sáng tạo nhất, cách
tân nhất, đó là Thanh Tâm Tuyền.
Thử nhớ lại lúc TKCCĐ ra
đời cách đây gần 60 năm. Đó là một chấn động lớn trong sinh hoạt văn
học Miền Nam, nó tạo nên những tranh luận sôi nổi. Người thì cho rằng Thanh Tâm Tuyền điên rồ viết những câu thơ
vô nghĩa, hoặc cố tình lập dị để được chú ý; kẻ thì hết lòng ca
ngợi trên tờ Sáng Tạo do Mai Thảo chủ trương.
Thơ của Lê Thánh Tông (1442-1497) viết cách đây 500 năm “Nghi ngút đầu
ghềnh tỏa khói hương/Miếu ai như miếu vợ chàng Trương”(Đề Miếu Bà Trương) so với thơ tự do của Nguyễn
Đình Thi bây giờ,“Dừng chân trong mưa bay/Ướt đầm mái
tóc/Em em nhìn đi đâu/Môi em đôi mắt/Còn em đây/Nhìn em nữa/Phút
giây/Chiều mờ gió hút/Em/Bóng nhỏ/Đường lầy...”(Không Nói), hay thơ Hoàng
Cầm trong bài Qua vườn ổi, “Cách xa ba bước
qua vườn ổi/Chị xoạc cành ngang em đứng trông/Xin chị một quả non/-Quả
non còn xanh chát/Xin chị một quả ương/-Quả ương chim khoét thủng/Xin
chị một quả chín/-Quả chín quá tầm tay./Lẽo đẽo em đi đường, may
sao/Cúi nhặt chiều sương dăm quả rụng”, hay thơ Nguyên Sa,“Hãy đưa tôi ra bờ sông/Để tôi nhìn cho rõ/Tôi nhìn
dòng nước chảy/Tôi nhìn tôi bơ vơ/Nhìn bờ sông tìm bờ sông bên kia/Khi
lòng sông gặp biển...” (Hãy Đưa Tôi Ra Bờ Sông), ta
không thấy bỡ ngỡ. Xưa và nay đều quen thuộc, đều được hiểu trọn
vẹn.
Thế Thơ TTT? Nếu
lấy bài Chim làm
ví dụ, thì quả nó hoàn toàn xa lạ. Nó không phải là một tiếp nối
quá khứ, mà là một đột phá tận cùng, một đoạn tuyệt với truyền thống. Xin
trích dẫn toàn bài:
“Đêm giao thừa
thế kỷ mưa rơi sao
mái sáng đường
nằm chiêm bao biển giận dỗi
bàn tay mây mắt
trăng môi nhiệt đới
chiến tranh còn
những khoảng đất hoang
cửa sổ đập lên
cao cánh chim én mùa xuân
ôm vào lòng
bãi cỏ vườn hoa bầy sao rụng
ai hỏi anh
ngoài hàng dậu
lãng mạn lập
thể siêu thực dã thú đa đa
tôi mở những
trái cây vườn nhà
cử chỉ trữ
tình tinh khiết
những bước đi
văn nghệ chim sẻ
mùa ngói nâu
dựng vực mắt nâu
tôi ru chim ngủ
trong cổ họng
mặt trời kêu
xuống thái dương những màu ánh sáng thơm
tim kinh ngạc
đời tạo câu cười
thiên nhiên mai
hy vọng đứng ra
ngoài ô ngục ngực bâng khuâng lần gặp gỡ thứ nhất
rồi kỷ niềm
kim khí thuỷ tinh hành hạ
đau xé trời đêm
không sao bánh máy quay vũ khí
tôi từ chối
giam cầm chim đẹp trong rừng tóc
dù tiếng hót
đã chọn mấy hàm răng
người bộ hành
cô đơn chờ đêm để lên đường
về quá khứ
chim bay vào
trận mưa sao”
Nhưng Thơ TTT có
phải luôn luôn “xa lạ” như thế hay không? Câu trả lời là không. Trái
lại là đằng khác. Có hai lý do chính.
Thứ nhất, có nhiều đoạn, nhiều bài vô cùng giản
dị, không chút màu mè, không tô điểm, không tu từ, không thể nào đơn
giản hơn nữa, nằm rải rác trong cả hai tập thơ đầu:“Nếu đã đi từ Hà Nội xuống Hải
Phòng hay sang Bắc Ninh/Nếu đã đi từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long hay lên
Thủ Dầu Một/Chuyến xe vẫn chỉ thuộc một mình/Như kẻ say rót rượu
lấy mà uống/Cho vui thêm cuộc hành trình/(Đúng rồi những người thù ghét thơ tôi ơi)/Cuộc hành trình hoàn toàn cô độc.”...(Bao Giờ) Hay: “Anh biết vì sao cộng sản thủ tiêu Khái
Hưng/mỗi lần hoàng hôn tôi bước cùng đám đông/lòng khẩn cầu cách
mạng/anh biết vì sao cộng sản thủ tiêu Phan-văn-Hùm/mỗi lần hoàng hôn
tôi chạm mặt từng người/có phải chúng ta đang sửa soạn/anh biết vì
sao cộng sản thủ tiêu Tạ-Thu-Thâu/mỗi lần hoàng hôn tôi cố thở cho
nhiều/các anh nhớ tôi còn sống/quờ quạng tay dan díu/cách mạng nổ
trong sự nín thinh”... (Trưởng Thành). Một số bài trọn vẹn cũng thế, rất đơn
giản,như Bằng Hữu, Một Lần Nữa,
Hãy Cho Anh Khóc Bằng Mắt Em Những Cuộc Tình Duyên Budapest ...
“Bình
dị, đơn sơ” và “phức tạp, khó hiểu” chen lẫn nhau là một trong những
phong cách của Thơ TTT. Tuy
nhiên, ngay cả với những bài
bình dị nhất, Thơ TTT vẫn khác
hẳn thơ của lớp người đi trước hoặc đồng thời.
Thứ hai, Thanh Tâm Tuyền không đả phá vần điệu. Nếu Thơ Lục Bát luôn luôn gieo vần âm bằng, thơ 7 chữ, Thơ Mới v.v...cũng thường gieo vần âm bằng, thì trong
Thơ TTT vần và
nhịp điệu hết sức đa dạng, sáng tạo, kín đáo, bằng trắc đều có,
và nhiều khi những chữ vần được đặt cách xa nhau. Vần âm bằng rất
nhiều, âm trắc hoặc bằng trắc xen kẽ cũng thường gặp.
Vần âm bằng:
Mưa bẩn sân ga
Toa tầu hạng ba
Chuyến xe hàng
ốm yếu
Thổ mộ con
ngựa già
(Sầu Khúc)
Vần âm trắc:
Dù sao mai
phòng triển lãm sẽ đóng cửa
(Rồi mở thêm
lần nữa
Để làm gì)
Vứt mẩu thuốc
cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình
phơi trên kè đá
Con thuyền xuôi
Chiều không xanh
không tím không hồng
những ống khói tàu mệt
lả
(Bao Giờ)
Vần âm bằng
trắc xen kẽ:
Hồn thảo mộc
giấc ngủ
Nằm mơ những
ngôi sao mặt trăng
lá đan mắt ngõ
hôn vào môi vào
má vào răng
những lời thơ
rất cũ
gõ cửa trái
tim nàng
(Mai)
Nhưng rất mới
lạ, Thanh Tâm Tuyền còn cho bằng
vần với trắc như trong bài Tình
Cờ chẳng hạn:
Hai người yêu
nhau rất tình cờ
như trên cùng
một toa xe lửa
tàu chạy qua
cầu nghe tiếng sắt và tiếng nước trôi mau
nhìn về đốm
lửa yếu thành phố trên sông
thành phố trẻ
thơ tiêu điều ru dưới những bầu trời xấu
...
Lại có loại vần
của nhịp điệu, của hình ảnh, của ý tưởng trong những bài thơ rất dài
như Sầu Khúc, Đêm, Bài Ca Ngợi Tình
Yêu, Mặt Trời Tìm Thấy.
Cũng có nhiều đoạn
thơ hoàn toàn không vần:
Khi mặt trời
vừa thức
Đòi gặp mùa
xuân
Cho làn mi lá
ngủ
Cho khoé mắt
biển sâu
Cho đồi hoa bát
ngát...
(Bài Thơ Của Tháng Giêng)
hoặc thơ văn xuôi:
“Hồn nhiên tôi
trở thành thi sĩ ca dao nhẹ những nhát cuốc đầu xới lần áo mỏng
ruộng đồng.
Những chuyến đi
xa theo mưa về ngủ mái rạ. Đem hiền lành, có lẽ từ một cửa bể bến sông quán
rượu. Những người bạn hứng mưa vào lòng tay, giọt mưa đẹp như mắt ngủ, rất xa không hề cách. Tôi sẽ đưa em về
ngủ bên sông, tâm hồn là cánh đồng chưa khai phá. Tôi sẽ mời anh về
nghe mưa trên vừng trán vô tư, giác quan mở từng ngõ lạ xuống linh
hồn. Chúng ta ngủ ngoài mưa như mơ
ngủ.” ...
(Mưa Ngủ)
Kính thưa quý
vị, khác hẳn hầu hết những nhà thơ trước ông rất hạn chế về đề
tài, thơ TTT mở rộng ra nhiều lãnh vực của cuộc sống.
Ông đề cập đến tình yêu nam nữ; tình bằng hữu;
tình yêu quê hương, đất nước; những khát vọng về tự do; nhữngquan tâm đến cách
mạng, đến tình hình ở nhiều nơi trên thế giới, đến những thành phố
còn sống trong ngục tù Cộng Sản; những ưu tư về thân phận con người,
những băn khoăn siêu hình; những truy lùng tiềm thức, vô thức.
Một điều đáng
chú ý là Thanh Tâm Tuyền không tả cảnh. Thiên nhiên chỉ được nhắc đến
rất vắn tắt khi cần minh họa cho những dòng ý thức. Nói cách khác,
con người với tư duy của hắn được chú ý hơn ngoại cảnh. Mưa trong “Mưa Ngủ” vừa được trích dẫn đã
biến thành con người rồi, nó về ngủ mái rạ, nó về rơi trên vừng
trán vô tư, nó ngủ cùng những kẻ cô đơn. Điều này làm tôi nhớ trong
cuốn The Brothers Karamazov của Dostoevksy, tác giả mà Thanh Tâm Tuyền rất mến mộ, gần 1000 trang mà chỉ có mấy
dòng nhắc nhở đến thiên nhiên, thời tiết.
Hơn một lần Thanh
Tâm Tuyền bày tỏ quan điểm của mình về thơ. Trong Định Nghĩa Một Bài Thơ Hay, ông
viết: “một câu thơ hay tự nhiên như lời nói/bài thơ hay là cái chết cuối cùng”; trong Chim ông khước từ “lãng mạn lập
thể siêu thực dã thú đa đa; hay trong Một
Bài Thơ: “không đa đa siêu thực/thẳng thắn/khởi từ ca dao sang tự do.” Tuy
nhiên ngay khổ đầu của bài Chim được trích dẫn bên trên lại là những hình
ảnh đột ngột xuất hiện bất thường đặt bên nhau không theo một thứ tự
logic nào cả, những khơi dậy của tiềm thức, vô thức, những giấc mơ,vân
vân, tức là những đặc trưng được André Breton trình bày trong Tuyên Ngôn của Trường Phái Siêu Thực (Manifestes du
surréalisme) ra đời năm 1924.
Đúng ra Bài Chim không
xa Siêu Thực, không gần Ca Dao như tác giả của nó mong muốn.
Trong một thế
giới vừa mới thoát khỏi thảm họa của tận diệt nhưng những nước lớn, những siêu
cường, vẫn không thôi tranh giành thế lực, ảnh hưởng, từ đó tạo nên hai khối Tư
Bản và Cộng Sản, dẫn đến những cuộc đánh phá, chia cắt một số
nước nhỏ mà Việt Nam ta là một. Hai Miền Nam Bắc Việt Nam mỗi bên
theo một khối, trở thành thù nghịch lẫn nhau, giết nhau không nương tay,
huynh đệ tương tàn, đất nước tan hoang, lòng người ly tán. Thử hỏi,
trong hoàn cảnh đó, một nhà thơ còn lương tri và lương tâm, còn chút
tự do hay dù sống trong kềm kẹp hoặc ngục tù của cường quyền, độc
tài, có thể nào bình tâm “ngâm hoa vịnh nguyệt”. Hắn phẫn uất, hắn không
thỏa hiệp, hắn biến thành kẻ nổi loạn ít nhất là trong lãnh vực
thi ca, tư tưởng. Thanh Tâm Tuyền là trường hợp đó.
Thanh Tâm Tuyền cũng không chịu nép mình vào
những luật lệ chật hẹp của các thể loại thơ cũ, Thơ Mới, mà theo
ông là những ràng buộc đã lỗi thời không dung chứa nổi những bão tố,
những nung nấu, trong lòng người. Ông mở rộng tầm mắt ra nhìn thế
giới, nhìn thơ hiện đại phương Tây, ông mạnh dạn xông xáo tìm tòi,
khám phá, sáng tạo. Đọc lại thơ của ông trong trên 10 năm đầu tiên
“vẫy vùng ngọn bút tinh anh”, ta không hề thấy một dấu vết nào của
cả gần một ngàn năm thơ Việt Nam cũ cũng như mới kể từ lúc Hàn
Thuyên đời nhà Trần khai phá thơ Nôm. Không một chút ảnh hưởng nào từ
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, đến phong trào Thơ Mới và sau
đó. Và điều lạ lùng là ông đi một mình, không có người đồng hành. Ông đi trước thời đại không dưới nửa thế
kỷ. Bùi Giáng rất nhạy bén, đã viết theo lối dí dỏm của ông:“Thanh
Tâm Tuyền như một vị tướng gan lì, sử dụng một loại võ công chỉ
riêng một mình ông đạt tới quai nhai cảnh giới. Mọi kẻ về sau học tập võ công ấy đều thất
bại. Công lực thâm hậu, Thanh Tâm Tuyền lại còn trẻ quá, do đó, ông
bước đi trên trận địa một cách quá ngang nhiên, chả bao giờ bận tâm
tới những môn võ công khác của những đối thủ, bất kể chúng là thiên
tài hay là chẳng.”(Đi Vào Cõi Thơ, CADAO xuất bản lần thứ nhất 10/69 SAIGON).
Những nhận xét
trên đưa đến hệ luận rằng những yếu tố gây ảnh hưởng đến thơ ông, thứ
nhất, lẽ dĩ nhiên, đó là tiếng nói từ thuở nằm nôi, và thứ
nhì là những trào lưu hiện đại của Phương Tây. Câu thơ ngắn ngủi ông
viết để bày tỏ chủ trương của mình về thơ, “khởi từ ca dao sang tự
do” không phải là cường điệu. Nhà lập thuyết và nhà thơ Thanh Tâm
Tuyền đi song song gắn bó với nhau trên con đường dài. Có thể nói
rằng Thơ Thanh Tâm Tuyền là phối hợp của Truyền Thống Dân Tộc (Ca Dao) với Chủ Nghĩa Hiện Đại Phương Tây.
Lúc chưa tới 20
tuổi, ông đã viết: “Tôi không ca ngợi tình yêu, tôi nguyền rủa tình yêu.
Mỗi tiếng, mỗi lời viết ra tôi đều thấy nó chứa đựng những hận
thù, khinh bỉ, dày vò, đớn đau, tuyệt vọng, nhơ nhuốc, dối trá, hằn
học, trơ trẽn, bệnh hoạn, xấc láo, thô bạo, cục cằn, tủi hổ, yếu
đuối, bất lực, chết chóc nghĩa là tất cả những thứ mà tình yêu
loại trừ ...”(Nỗi buồn trong thơ
hôm nay 1955). Đấy chẳng qua là cái sôi nổi, bồng
bột của tuổi trẻ. Thật trong TKCCĐ đã có một bài thơ tình rất dài, rất hay, một thứ
tình yêu không nước mắt, không than thở, không bi lụy, nhưng đầy thương
nhớ, trăn trở. Mỗi lời thơ là một khắc khoải, ray rứt. Yêu nhau như “nụ
hôn đầu” thì tiếp theo ngay đó là “ôm mái tóc lang thang”. Xin trích dẫn ba đoạn trong bài ấy,Liên Những Bài Thơ Tình Thời Chia Cách:
“Anh nhớ em
cùng một lúc với thành phố
với những con
đường anh đi qua một lần
để đến nhà em
anh băng ngang một vườn hoa vắng
(lần trở về
anh ngồi xuống ghế dài
nếu là buổi
chiều quạnh hiu mây lá mùa thu)
một phố bình
dân có chợ và những quán ăn
giản dị như
trang nhật ký của anh
ngày bắt đầu
yêu em
...
Sự vắng mặt của
em và bãi biển mùa đông
thành phố đau
từ mỗi cột đèn
mỗi bực thềm
cửa đóng
em đi không nón
không áo choàng
mưa tầm tã
những cửa sổ
đêm muốn hé ra
nổi loạn
và mắt em mặt
trời cỏ hoa với môi anh đằm thắm
và rực rỡ nhớ
thương
...
Nét cong môi
hồng mắt tình cờ
ngực hoa yếu
đuối
những miền
không gian được gọi qua
tình yêu không
thẹn thùng
đâu phải một
thứ mưa ô buy vào thành phố
năm cửa ô hồi
sinh trên xác năm cửa tù
mưa nắng cùng
rủ nhau xuống Sinh Từ ngõ Hội Vũ
bao nhiêu đường
tình tự ga hàng cỏ
nụ hôn đầu ôm
mái tóc lang thang
tà áo bàn tay
hương trẻ con
hoàng hôn tỉnh
kim khí khua
trong bước trở về nhà cửa
sự vắng mặt
không thể lâu hơn nữa
thù nghịch tan
vào hơi thở
trong giấc hôn
mê thôi tiếng khóc mèo đêm
tình yêu mầu
nhiệm hoàn thành
vĩnh viễn” ...
Ở tập thơ thứ
hai lđmttt tình yêu vẫn còn, khá tươi sáng, trong Bài Ca Ngợi Tình Yêu:
Em là lá biếc
là mây cao là tiếng hát
sớm mai khua
thức nhiều nhớ thương
em là cánh hoa
là khói sóng
đêm màu hồng
Tuy nhiên thường
xuyên hơn, kể cả trong tình yêu, là những ám ảnh, trăn trở, những độc
thoại nội tâm ảo não, những tiếng nói trong cơn mê:
“Anh chìa hai
bàn tay khô héo
Nỗi tự do buồn
phiền
Hai bàn tay
những con đường cỏ cháy
Mùa hè thiêu
đốt cả cô đơn
Em giữ lấy
Anh còn đâu
ngoài nỗi chết ôm ghì
Trong bóng đen
trơ trụi nơi vàm sông
Anh tìm kiếm
Tuổi ấu thơ
hòn cù lao xa khuất
Và tình yêu như
đám lau buồn
Vàm sông nước
xoáy như tiếng cười thầm
Ở sau lưng ở
trước mặt
Anh thả người
trôi nổi
(Sầu Khúc)
“Anh xé tóc em
cùng những cành lá chết
Mùa thu
Ghi thương tích
nơi cườm tay
Khóa chặt
Anh xô ngã em
từ chóp đỉnh hạnh phúc
Khuôn mặt vỡ
tan
Như cẩm thạch
Như nước mắt
Như muôn đời
Không hối hận
Con đường anh
phải đi một mình
Trần truồng dã
thú
Đón anh ở cuối
đường
Hố sâu vĩnh
viễn
Không có em
...
“Những bài thơ
tình không viết được
Những hồn ma
hoang đầu ngọn cây
Xác chết rữa
nát
Trong kẹt rừng
khô
Đêm thức dậy
mở mắt mắt đã mù
Hai con sâu nằm
trên chân mày đang khoét lỗ
Con quạ hôi hám
mở lồng ngực bay lên
Mỏ ngậm quả tim
đựng hình ảnh đời người
Đời người thản
nhiên như tên gọi” ...
(Đêm)
hoặc những thao
thức về thân phận con người khốn đốn, chỉ mong còn chút tự do:
“Da trắng như
tiếng hát ở trên trời
Anh cúi hôn
cánh môi tím màu đêm mà thương nhớ
Từng chút một
từng chút một
Em biến thành
pho tượng rực rỡ
Anh biến thành
thiên tài ngây thơ
Trong đầu là hư
vô
Trong mắt là
hoang đảo
Trên môi là
thần chú
Trên tay là
trống không
Cả đời là sa
mạc
Cả tôi là tự
do”...
(Đêm)
Nhưng có tự do
hay không, hay là đi đâu nhà tù cũng đi theo vây hãm:
“Phiêu lưu mãi
là một nhà tù
Dãy tường câm
chuyển động
Trên một triền
vực sâu”
(Sầu Khúc)
Nói chung, Thơ TTT không dễ đọc. Trước hết,
nếu thơ của ta từ xưa cho đến thời Thơ
Mới và cả giai đoạn 1945 – 1954 là tiếng nói của tình cảm, của biểu đạt,
nhằm gây xúc động – Xuân Diệu
xôn xao trước thời gian: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ!” (Giục Giã), Huy Cận
bâng khuâng trước không gian: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” (Tràng Giang)– thì
thơ trong giai đoạn 1954-1975, đặc
biệt Thơ TTT, là những dòng ý
thức, nhận thức, nhằm đặt vấn đề. Cũng không còn cả cái “Nao nao dòng nước uốn
quanh” như trong Kiều mà là những thao thức, “dù tôi đang
đứng bên bờ sông, nước đen sâu thao thức”.
Bài Phục Sinh, bài thơ đầu tiên trong TKCCĐ là
một ví dụ của những dòng ý thức, của những tra vấn, trăn trở về
thân phận con người. Ta thử xem khổ thứ nhất:
Tôi buồn khóc
như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi
cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao
vỡ vào chuông giáo đường
tôi xin một chỗ
quỳ thầm kín
cho đứa trẻ
linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói
không màu
tôi buồn chết
như buồn ngủ
dù tôi đang
đứng bên bờ sông
nước đen sâu
thao thức
Ba chữ đầu của bài thơ đầu trong tập thơ
đầu của Thanh Tâm Tuyền
xuất hiện mới lạ: “Tôi
buồn khóc”. Xưa nay ta chỉ nói buồn cười, buồn ngủ, buồn mửa, vân vân. Và ta sẽ gặp trong hầu
hết Thơ TTT rất nhiều sáng tạo
chữ nghĩa như thế: hy vọng thổn thức, lòng tin phủ tro, quá khứ đăm
đăm, buổi chiều vội vã đêm, mây đục đậu lên bờ cửa sổ, bước ai thánh
thót, ngực gọi đêm về, mắt kín mưa đêm, trên chúm môi lá biếc/ những
chòm hôn vội vàng, v.v. Nhiều vô số kể. Chữ nghĩa mới lạ là một
trong những đặc điểm nổi bật của thơ ông.
Xin trở lại
với bài Phục Sinh. Câu đầu tiên đầy
ray rứt được nối
tiếp bằng hai câu thật ngắn, thật đột ngột, ngoài phố/nắng thủy tinh,
tạo nên sự đối nghịch lớn - tôi trong căn gác cô đơn khắc khoải, muốn
tự hủy, tên tôi cũng sẽ chỉ còn là một nỗi nhớ, trong khi ngoài kia cuộc
đời vẫn thản nhiên còn đó trong veo nắng.
Câu thứ sáu
lại là chuyển biến mới mang nhiều hình ảnh, ẩn dụ, đa tầng, đa
nghĩa:
buổi chiều sao
vỡ vào chuông giáo đường
Sao trên trời
là tướng tinh của con người, và một ngôi sao tắt có nghĩa là một
người qua đời chăng? Vâng, chiều nay có một ngôi sao vỡ, giáo đường
gióng lên tiếng chuông cầu hồn. Mà câu thơ ấy cũng gợi lên hình ảnh
chiếc linh hồn nhỏ chạm vào chuông giáo đường làm tóe ra những hình
sao vỡ. Cho nên “đứa trẻ linh hồn” vội tìm chỗ ẩn nấp trốn tránh con
chó dữ trong tôi đóng vai bà già đánh lừa em bé quàng khăn đỏ mà nhà thơ
sẽ nhắc lại trong đoạn kế tiếp.
Trong suốt hai
tập thơ TKCCĐ, lđmttt, và khá
nhiều bài thơ khác đăng trên các báo, ta thường gặp những cách phô
diễn đầy ẩn dụ và tra vấn như trên. Xin trích thêm vài đoạn trong bài
thơ văn xuôi Khúc Tháng Chạp
viết vào cuối năm 1969:
“... Nội không
quạnh quẽ như ngàn cõi chiêm bao vượt. Đập vỗ, đập vỗ hoài con mắt
buốt, con mắt vi ty rụng trụi lớp mi che, không động thức. Con mắt khờ
câm căng chống. Tưởng dáng mùa hè chín ối. Tưởng nét mùa thu lung
linh. Đã bay qua, bay qua nghìn mệt mỏi. Như điệu ngân hụt hẫng. Mưa
buông khít chân trời, mưa rũ liệt làm sao ngớt, mưa giả lả. Những
huyệt trốt cuốn, vật nài chim ngây thơ khóa cánh, vùi dập chim mỏng
mảnh trong khuất khúc giá băng. Đắp điếm những mai chiều như bao giờ
xin cũ, những canh tàn giấu cất, những khuya lên rách rưới như bao
giờ. Như bao giờ, hiểu không như bao giờ?
Ôi – Chim bé
bỏng, chim bé bỏng hoài.
Và mùa đông
thổi chuyến bay trong cõi rỗng.”
Thơ TTT, do đó, đòi
hỏi sự tham gia của người đọc. Martin McQuillan viết trong Literary Theories (NEW
YORK UNIVERSITY PRESS, Washington Square, 1999): “Một văn bản chỉ có ý nghĩa khi nó được đọc, khi một người
đọc tương tác với những con chữ trên trang giấy để phát hiện ra ý
nghĩa.”(A text only becomes meaningful when it is read, when a reader
interacts with the words on the page to produce meaning.) Nói cách khác, sự tham gia của người đọc sẽ
phát hiện ý nghĩa và giá trị của văn bản. Người đọc đến từ những
nguồn gốc khác nhau, trình độ khác nhau, cảm thụ khác nhau, nhận
thức khác nhau, do đó phát hiện cũng khác nhau.
Chẳng hạn trong
bài Dạ Khúc khá đơn sơ, người thì cho rằng hai câu đầu, Anh sợ những cột đèn đổ
xuống/Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta, làvớ vẩn, kẻ thì thích lối ẩn dụ
ấy đã nói lên được một nhân sinh quan không bình yên trong một thế
giới đổ vỡ. Franz Kafka cũng đã từng “vớ vẩn” hơn để nhân vật Gregor
Samsa hóa thân thành con sâu gớm ghiếc (Metamorphosis) sau một đêm nằm ngủ đầy mộng mị. Hoặc với bốn câu thơ dưới đây, có người bảo thô tháp, thiếu
trau chuốt, kẻ khác lại cho rằng viết như thế mới gây ấn tượng mạnh:
Sao tuổi trẻ
quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ
quá buồn
như bàn ghế
không bày
Nhưng có lẽ ai
cũng phải thừa nhận rằng Dạ Khúc là tiếng nói của tuổi trẻ cô đơn, bơ vơ,
buồn chán, nổi loạn, tuổi trẻ của ai mà chả thế, trong một quê hương
điêu linh, tương tàn, một đất nước quằn quại, tan tác!
Tôi xin đọc
nguyên bài Dạ Khúc[1].
Đối với bài Chim mà
ta đã trích dẫn trên chẳng hạn, việc tham gia của người đọc lại không
dễ. Chữ nghĩa tinh khôi, hình ảnh dồn dập, lung linh, đa dạng, nhiều
ẩn dụ, nhạc điệu phong phú, nhưng bài thơ muốn nói gì? Kiếp người ví như kiếp chim
chăng, con người trong cuộc lữ có khác gì cánh én cô đơn bay mải miết
trong thời gian và không gian, thời gian là đêm giao thừa của thế kỷ,
không gian là vô vàn hình ảnh, sự kiện, xuất hiện ngổn ngang, là bão
tố, là “mưa rơi sao”. Và kết cục, như được mô tả trong dòng cuối cùng
của bài thơ, “chim bay vào trận mưa sao”.
Về sau, khi
cuộc chiến khốc liệt vượt lên trên mọi nỗi băn khoăn, khắc khoải của
thời đại, Thơ TTT lại chuyển biến:
Ta nhớ sau lưng
núi thanh thản
Biếc mây như lệ
của đêm điên
Ta nhớ rằng ta
không nhớ nữa
Như cây trơ trụi
mùa hưu miên
Như phiến gỗ
nặng thả theo nước
Bập bềnh trôi
nổi ta về xuôi
Như lau lách
mọc chen bờ bãi
Phất phơ tóc
bạc lả theo trời
(Đỉnh Non Xa, Giai PhẩmVăn 9/1974)
Phải chăng TTT đang
“về xuôi”, về với các thể thơ dễ dãi đã có, về với những
sôi nổi của tuổi trẻ đang lắng dần, những giấc mơ đang tan vỡ, về với đám đông lau lách
dưới kia, khi mái tóc không còn xanh, khi “tóc bạc lả theo trời”. Nhưng dù
với thể thơ nào, Thanh Tâm Tuyền vẫn tỏ ra có biệt tài. Xin dẫn hai đoạn
ngắn của bài Ngôi Nhà Đỏ, Trăng
Hồng thật dàilàm ví dụ, trong đó những
chấm câu bất ngờ, những ngôn từ quấy động, vần thì âm trắc, hình
ảnh đa dạng,dữ dội, ý tứ cuồng nộ, khiến lời thơ trở nên dồn dập, khúc
khuỷu, gắt gỏng. Thơ tự do đã nhập vào những câu tám chữ có vần:
Ngôi nhà đỏ
trên đồi trăng hồng khỏa.
Trời sương lam.
Núi ngây rừng gió lạ.
Cây ngà say. Đêm
heo hút lặng khơi.
Mùa trở gió.
Rười rượi buồn cỏ lá.
Mùa ngã độc.
Nhà nín hơi lẩn lút
Đồi sượng sần.
Cây lìa cành, lá trút.
Đừng ngoái
nhìn. Phơ phất khói sương thu.
Đừng ngoái
nhìn. Trăng khỏa thân xanh mướt
Sau Tháng tư
1975, trong nhà tù Cộng Sản, Thanh Tâm Tuyền vẫn làm thơ. Khi định cư
tại Mỹ, ông gom góp những bài thơ làm trong tù in thành tập thơ cuối
cùng, Thơ Ở Đâu Xa, rất giá trị.
Xin trích trong
tập thơ cuối cùng ấy bài chiều cuối năm qua xóm
nghèoviết vào năm 1978
mà bất cứ một ai từng ở tù cải tạo của Cộng Sản đều tìm thấy
mình trong đó. Bài thơ hắt hiu, chữ nghĩa buồn tênh từ đầu đến cuối như
một bức tranh sử dụng toàn gam màu lạnh mà dưới lớp băng giá đó âm ỉ
vài tia lửa ấm, vài giao thoa của đời sống tối tăm. Đây một chút
nhớ, đâu lũ trẻ co ro đứng trông tù qua thôn; kia một chút thương, nhà
ai lạnh lẽo khiến lòng ta ảm đạm. Vâng, lũ trẻ không theo lời xúi
giục của người lớn ném đá vào đoàn tù đi qua như đã xẩy ra, mà đứng co ro nhìn;
đoàn tù thì nhớ lũ trẻ cũng là nhớ lũ con của mình không biết
hiện ở phương trời nào. Và nhà ai năm hết Tết đến tuy ở bên ngoài
nhà tù cũng thê lương tăm tối không đèn lửa chẳng khác gì bên trong trại
tù. Đây không phải so sánh để tự an ủi, mà là thương cảm. Bài thơ
làm theo lối 7 chữ 8 câu, cách tân, chia thành hai đoạn:
“Mưa bay lất
phất gió căm căm
Đường lầy trơn
nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ
trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng xem
tù qua thôn
Vác bó cuốc
nặng bước loạng choạng
Về trong xây
xẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà
ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta
chiều cuối năm”
Kính thưa quý
vị, những đóng góp của Thanh Tâm Tuyền cho văn học Việt Nam thật lớn
lao. Ông là nhà thơ tiên phong đầy sáng tạo đã mở
ra những chân trời mới lạ cho thơ Việt Nam, mang lại nhiều khám phá độc đáo, và đạt
được những thành quả ít ai sánh kịp. Cho đến nay, nói như Báo Mạng Tiền Vệ khi ông vừa qua đời (22-3-2006), Thơ Thanh Tâm Tuyền “vẫn còn là một nguồn cảm hứng lớn đối với
nhiều nhà thơ có khát vọng đổi mới”. Trong thời kỳ cực thịnh của văn học Việt Nam, Thanh Tâm Tuyền vượt
lên như một trong những đỉnh cao nhất. Có thể nói rằng Thanh Tâm Tuyền
là một trong một số ít nhà thơ lớn nhất không phải chỉ riêng đối
với Miền Nam mà cho cả nước.
________________
[1]Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây
điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết
mọi hy vọng
Nên anh
dìu em đi xa
Đi đi
chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ
hôn em đắm đuối
Ôi môi em
như mật đắng
Như móng
sắt thương đau
Đi đi anh
đưa em vào quán rượu
Có một
chút Paris
Để anh
được làm thi sĩ
Hay nửa
đêm Hà Nội
Anh là
thằng điên khùng
Ôm em trong
tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Tiếng kèn hát mãi than van
Điệu nhạc
gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi
trẻ quá buồn
như con mắt
giận dữ
Sao tuổi
trẻ quá buồn
như bàn
ghế không bày
Thôi em
hãy đứng dậy
người bán
hàng đã ngủ sau quầy
anh đưa em
đi trốn
những dày
vò ngày mai