![]() |
Nhà văn Phùng Nguyễn |
Tham luận
LTG: Dưới đây là toàn văn bài tham luận dành cho cuộc Hội thảo Văn Học Miền Nam 1954-1975 tổ chức vào hai ngày 6 và 7 tháng 12 năm 2014 tại quận Cam, California – USA. Chỉ một phần của bài tham luận này được trình bày trong buổi hội thảo vì giới hạn thì giờ dành cho mỗi diễn giả. PN
Tiệm
cho thuê sách của gia đình
Vào những
ngày đầu tháng 5 năm 1975, một cậu bé 6 tuổi chứng kiến một điều khó quên. 30
năm sau, năm 2005, cậu ghi lại hình ảnh này trong một bài thơ có tựa đề “Tiệm cho thuê sách của gia đình.” Bài thơ được
chọn đăng trên mạng Da Màu vào tháng 5 năm 2007 nhân kỷ niệm 32 năm ngày miền
Nam đổi chủ.
Khi người ta đem xe ba gác đến dẹp,
bố tôi mở cửa mời mấy người hàng xóm
vào xem và lấy tùy thích.
Những quyển sách chính tay ông chọn
mua về, đóng bìa cho thêm chắc chắn,
đóng dấu của tiệm vào vài chỗ, và
đánh số mục trước khi xếp lên kệ.
Hồi bố tôi đi cải tạo, một số sách muốn trở về.
Vài người hàng xóm tốt bụng đem trả.
Nhưng mẹ tôi từ chối: có những quyển
họ mua lại ngoài chợ trời nhờ nhận ra
cái bìa, những quyển kia, họ đã lấy —
từ hôm ấy — và đọc thoải mái.
Lẩn vào trong bài thơ, nên không
dễ thấy như một cái bìa sách,
Lại thường xa cách hơn một người hàng xóm,
Nhưng tôi, cũng muốn người đọcgiữ luôn một cái gì.
Khi người ta đem xe ba gác đến dẹp,
bố tôi mở cửa mời mấy người hàng xóm
vào xem và lấy tùy thích.
Những quyển sách chính tay ông chọn
mua về, đóng bìa cho thêm chắc chắn,
đóng dấu của tiệm vào vài chỗ, và
đánh số mục trước khi xếp lên kệ.
Hồi bố tôi đi cải tạo, một số sách muốn trở về.
Vài người hàng xóm tốt bụng đem trả.
Nhưng mẹ tôi từ chối: có những quyển
họ mua lại ngoài chợ trời nhờ nhận ra
cái bìa, những quyển kia, họ đã lấy —
từ hôm ấy — và đọc thoải mái.
Lẩn vào trong bài thơ, nên không
dễ thấy như một cái bìa sách,
Lại thường xa cách hơn một người hàng xóm,
Nhưng tôi, cũng muốn người đọcgiữ luôn một cái gì.
Cậu bé 6
tuổi ngày xưa chính là nhà thơ Lê Đình Nhất Lang, và người chọn sách để mua,
đóng thêm bìa cho chắc chắn là nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội
nay đã quá cố Lê Đình Điểu, một tên tuổi rất quen thuộc trong giới cầm bút ở
Hải ngoại. Trong bài thơ này, “Tiệm cho thuê sách của gia đình,” “một cái gì”
mà tác giả Lê Đình Nhất Lang muốn chúng ta giữ luôn chứ không chỉ giữ
lại, đối với tôi chính là một mảnh, dù rất nhỏ, của một nền văn học đầy hứa hẹn
được xây dựng và phát triển trong hơn hai mươi năm ở miền Nam. Nền văn học này
thường được biết dưới cái tên Văn Học Miền Nam giai đoạn 1954-1975.
Bằng cách “phân tán mỏng” những cuốn sách mà trước sau gì cũng bị tịch thu và thiêu hủy, thân phụ của nhà thơ Lê Đình Nhất Lang đã trên thực tế gởi gấm những mảnh nhỏ của nền văn học này cho những người hàng xóm, những khách quen với hy vọng chúng sẽ được giữ gìn cho một tương lai tươi sáng hơn. Tôi tin rằng không chỉ có chủ các tiệm sách mà còn rất nhiều người khác, những độc giả bình thường ở miền Nam đã bằng cách này hay cách khác giúp giữ gìn những cuốn sách, những tập thơ mà họ trân trọng không cho rơi vào lò thiêu của chế độ. Có thể nói, ngay từ những ngày đầu tiên của chiến dịch nhằm xóa sổ nền Văn Học Miền Nam 54-75 của phe chiến thắng, chính quyền Cộng sản đã gặp phải sự chống đối ngấm ngầm của người miền Nam dưới nhiều hình thức để bảo vệ được chừng nào hay chừng đó tài sản văn học này.
Những bạn đọc hiếm hoi ở phía Bắc
Bằng cách “phân tán mỏng” những cuốn sách mà trước sau gì cũng bị tịch thu và thiêu hủy, thân phụ của nhà thơ Lê Đình Nhất Lang đã trên thực tế gởi gấm những mảnh nhỏ của nền văn học này cho những người hàng xóm, những khách quen với hy vọng chúng sẽ được giữ gìn cho một tương lai tươi sáng hơn. Tôi tin rằng không chỉ có chủ các tiệm sách mà còn rất nhiều người khác, những độc giả bình thường ở miền Nam đã bằng cách này hay cách khác giúp giữ gìn những cuốn sách, những tập thơ mà họ trân trọng không cho rơi vào lò thiêu của chế độ. Có thể nói, ngay từ những ngày đầu tiên của chiến dịch nhằm xóa sổ nền Văn Học Miền Nam 54-75 của phe chiến thắng, chính quyền Cộng sản đã gặp phải sự chống đối ngấm ngầm của người miền Nam dưới nhiều hình thức để bảo vệ được chừng nào hay chừng đó tài sản văn học này.
Những bạn đọc hiếm hoi ở phía Bắc
Nỗ lực
nhằm bảo tồn Văn Học Miền Nam 54-75 không chỉ giới hạn trong lãnh thổ phía Nam.
Vào năm 1977, chỉ hai năm sau ngày chiến dịch “bức tử” Văn Học Miền Nam được
phát động, nhà xuất bản Văn Hóa ở Hà nội cho ra đời cuốn “Văn hóa Văn nghệ miền
Nam dưới Chế độ Mỹ ngụy” (1) tập I gồm nhiều tác giả để tiếp tục đánh phá nền
văn học bất hạnh này. Trong tập sách, người ta tìm thấy đoạn văn dưới đây trong
“Lời nói đầu”:
“Sau
ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nhiều chiến dịch đã được phát động
nhằm quét sạch ảnh hưởng của thứ ‘văn hóa’ phản động, đồi trụy của chủ nghĩa
thực dân mới tại các thành thị và các vùng Mỹ ngụy chiếm đóng trước đây…”
“Tuy
nhiên, chúng ta hoàn toàn không thể thỏa mãn với những công việc chúng ta đã
làm được. Những đoạn nhạc vàng vẫn truyền đi trên các băng ghi âm một cách bất
hợp pháp, những cuốn tiểu thuyết, những tập thơ mang nội dung phản động hoặc
đồi trụy vẫn được chuyền tay nhau, không những ở các tỉnh miền Nam mà ngay cả ở
một số thành phố miền Bắc.”
Đoạn trích
dẫn trên đây giúp khẳng định là nhà cầm quyền CS đã không hoàn toàn thành công
trong ý đồ ngăn chặn sự lan tỏa của văn hóa miền Nam, đặc biệt là âm nhạc và
văn chương. Việc “những cuốn tiểu thuyết, những tập thơ mang nội dung phản động
hoặc đồi trụy vẫn được chuyền tay nhau, không những ở các tỉnh miền Nam mà ngay
cả ở một số thành phố miền Bắc” cho thấy trong số chiến lợi phẩm mang về từ
miền Nam trong những ngày tháng đầu tiên sau chiến tranh không chỉ có đài, đồng
hồ không người lái, và xe đạp mà còn có một món hàng quý hiếm khác, đó là những
tác phẩm của nền văn chương đa dạng và dựa trên nền tảng tự do sáng tạo của
miền Nam. Tôi tin chắc các độc giả hiếm hoi và may mắn ở phía Bắc đã nhanh
chóng làm một cuộc so sánh văn chương giữa hai miền dựa trên những trải nghiệm
mới mẻ họ có được sau khi đọc một số tác phẩm của các ngòi bút miền Nam. Điều
đáng tiếc là họ phải đọc trong lén lút, và nhận định của họ có nhiều phần đã
được giữ lại cho chính mình!
Ở miền
Nam, sau khi các khu chợ trời mọc ra trên vỉa hè các con đường nằm gần trung
tâm Sài gòn như Tôn Thất Thuyết, Huỳnh Thúc Kháng,v.v.. một thời gian, các sách
báo bị cấm đoán của miền Nam bắt đầu xuất hiện trở lại một cách rải rác dưới
dạng ngụy trang. Nằm khép nép bên dưới các tạp chí tiếng Anh tiếng Pháp vô hại
có khi là một tập truyện xuất bản trước tháng 4/75, quăn queo, bìa trước bìa
sau bị lột sạch. Nhưng bất kể hình dạng thảm hại của nó, một tác phẩm được tìm
đọc là một tác phẩm còn sống.
Theo
gót lưu vong
Sách báo
miền Nam cũng theo chân cộng đồng người Việt lưu vong lang thang khắp bốn
phương trời. Có thể trong nhúm hành lý ít ỏi được phép mang theo của những
người di tản đầu tiên bằng cầu không vận của Mỹ, có cả vài cuốn sách gối đầu
giường của họ. Sách cũng theo chân người ra đi ở những đợt tị nạn khác theo các
chương trình ODP, HO và có thể ngay cả cùng các thuyền nhân cho dù rất hiếm hoi
vì điều kiện hiểm nghèo của cuộc hành trình. Và chính là ở bên ngoài tổ quốc,
những công trình nhằm bảo tồn Văn Học Miền Nam 54-75 có cơ hội được thực hiện thường
xuyên và đôi khi với một qui mô tầm cỡ.
Một khi an
toàn ở các xứ sở tự do, những cuốn sách sống sót qua cơn hồng thủy được san sẻ
một cách công khai. Bên cạnh việc thỏa mãn nhu cầu đọc tác phẩm Việt ngữ của
cộng đồng tị nạn, việc in lại các tác phẩm thuộc Văn học miền Nam ở nước ngoài
của một vài nhà xuất bản đầu tiên ở Hải ngoại, cho dù động cơ chính có thể là
lợi nhuận, cần được xem là một hình thức bảo tồn nền văn học này một cách hữu
hiệu. Khi chủ nhân của các nhà xuất bản danh tiếng của Sài Gòn xưa đến được bến
bờ tự do, họ bắt đầu xây dựng trở lại các cơ sở xuất bản để hỗ trợ không chỉ
việc in ấn và phát hành các tác phẩm trước 75 mà còn các tác phẩm mới ra lò của
các cây bút thuộc dòng văn học non trẻ ở Hải ngoại. Một trong những tên tuổi
quan trọng bậc nhất trong ngành xuất bản Hải ngoại phải kể đến ông Lá Bối Võ
Thắng Tiết, người đã thành lập và điều hành nhà xuất bản Văn Nghệ trong nhiều
năm.
Khai
dòng
Những
người cầm bút thuộc Văn Học Miền Nam thời kỳ 54-75, khi đến được nước ngoài
luôn mong mỏi có được cơ hội cầm bút trở lại. Các tạp chí văn học đầu tiên ở xứ
người đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp khơi ra một nhánh mới từ
giòng sông VHMN đã bị chặn đứng một cách đột ngột mấy năm trước đó, đáp ứng nhu
cầu thể hiện tâm tư của cộng đồng người Việt lưu vong qua ngả văn chương.
Tạp chí
Văn Học Nghệ Thuật số đầu tiên do hai nhà văn Võ Phiến và Lê Tất Điều chủ
trương, ra mắt tháng 4/78, đúng 3 năm sau ngày mất nước, trang trọng in hàng
chữ “tạp chí văn nghệ đầu tiên của người Việt hải ngoại” ở trang bìa. Trong thư
tòa soạn của số đầu tiên, những người chủ trương cho thấy sự cần thiết của một
diễn đàn văn chương cho cộng đồng người Việt lưu vong ở Hải ngoại. Họ khẳng
định:
“Khó
quan niệm một cộng đồng sống đầy đủ mà lại ngưng cảm nghĩ, mà bị cưỡng bức vào
sự câm nín, không có được những thể hiện nghệ thuật tư tưởng.”
Sự ra đời
của Văn Học Nghệ Thuật, tiền thân của tạp chí Văn Học, và các tạp chí văn
chương khác như Văn, Hợp Lưu, Khởi Hành v.v… đáp ứng được nhu cầu văn chương
ngày càng lớn này. Cùng với thời gian, có thêm nhiều những cây bút của Văn Học
Miền Nam 54-75 gia nhập cộng đồng tị nạn, ảnh hưởng của nền văn học này lên nội
dung Văn học Hải ngoại là điều không thể chối cãi.
Trên
cyberspace
Sự phổ cập
hóa của Internet bắt đầu từ những năm 90 đóng một vai trò không nhỏ trong việc
lưu trữ tư liệu văn học Việt Nam, trong đó Văn Học Miền Nam chiếm một số lượng
quan trọng. Trong một bài viết (2) về những hoạt
động văn học của giới trẻ Hải ngoại trên liên mạng vào năm 1996, tôi có đề cập
đến những hoạt động này như sau:
“Trong
một vài năm gần đây, cùng với sự phát triển với tốc độ chóng mặt của Internet,
một số trang mạng đã dành một phần đất hậu hĩ cho việc chưng bày và lưu trữ
thơ, văn, nhạc phẩm, và phó bản họa phẩm của văn nghệ sĩ Việt Nam thuộc nhiều
triều đại."
Công cuộc
số hóa các tác phẩm thuộc Văn Học Miền Nam và Văn học Hải ngoại ngày càng phổ
biến trên liên mạng. Ở những năm sau này, bạn đọc có thể tìm thấy một số tác
phẩm của nhiều tên tuổi quen thuộc của Văn Học Miền Nam trên các trang mạng Đặc
Trưng, Viet Mesenger v.v…
Trong số
các công trình lưu trữ và phổ biến các tác phẩm của Văn Học Miền Nam trên liên
mạng phải kể đến chương trình “Sách xuất bản tại
miền Nam trước 1975”
(3) do nhà văn Phạm Thị Hoài, người chủ trương Tủ sách talawas thực hiện. Đây
là một công trình khá dài hơi, kéo dài 4 năm trời từ 2004 – 2008 với 95 đầu
sách của một số các tác giả quan trọng của nền văn học này.
Ngoài ra
cũng có thể kể thêm các chuyên đề về Văn Học Miền Nam 54-75 của tạp chí Da Màu,
Gió-O, chuyên đề Võ Phiến và toàn bộ “Văn Học Miền Nam: tổng quan” của Võ Phiến
trên tạp chí Tiền Vệ, và vô số các tác phẩm đủ thể loại thuộc thời kỳ 54-75
trên các trang mạng, blog cá nhân trong và ngoài nước. Nằm rải rác trên cõi bao
la của liên mạng, các tác phẩm văn học này là một phần di sản quan trọng của
Văn Học Miền Nam chưa được khai thác đúng mức.
Một
trường hợp đặc biệt
Nhà văn
Trần Hoài Thư là một trường hợp đặc biệt bởi vì các tác phẩm do ông, cùng với
sự đóng góp của một nhóm bạn thân, sưu tập và ấn hành xuất hiện trong cả hai
dạng, số hóa và bản in do chính tay ông in ra và gởi đến bạn đọc qua đường bưu
điện. Có thể nói Trần Hoài Thư là người đầu tiên trong cộng đồng người Việt hải
ngoại áp dụng thành công phương pháp “In theo yêu cầu,” tương tự như “Print On
Demand” mà Người Việt Books áp dụng cho các sách xuất bản gần đây. Bài phỏng
vấn “Trò chuyện cùng Trần Hoài Thư về Thư
Ấn Quán & Thư Quán Bản Thảo” (4) của nhà văn Trần Doãn Nho trong
chuyên đề Văn Học Miền Nam trên tạp chí Da màu mô tả khá rõ quan niệm, mục
tiêu, và các hoạt động của nhà văn Trần Hoài Thư liên quan đến công cuộc bảo
quản và phục hồi di sản văn chương miền Nam.
Tạp chí Thư Quán
Bản Thảo
và Tủ sách Di sản Văn chương miền Nam là 2 công trình quan trọng nhất của nhà
văn Trần Hoài Thư. Thư Quán Bản Thảo chính thức phát hành đầu năm 2001, cho đến
nay gần tròn 14 năm. Số 62 là số mới nhất, phát hành tháng 12 năm 2014 với chủ
đề “Khởi Hành và Tôi.” Theo nhà văn Trần Hoài Thư, mỗi số Thư Quán Bản Thảo
thường dành khoảng 100 trang cho một tác giả chọn lọc của Văn Học Miền Nam. Ví
dụ chủ đề Nguyễn Bắc Sơn (số 20), Nguyễn Nho Sa Mạc (số 26), Hoài Khanh (24),
Phan Nhự Thức (số 27), v.v… Điều này cho thấy mục đích giới thiệu [lại] các tên
tuổi thuộc Văn Học Miền Nam là một phần quan trọng của Thư Quán Bản Thảo. Về Tủ
sách Di sản Văn chương miền Nam, nhà văn Trần Hoài Thư đã hoàn tất hai bộ sách
đồ sộ, mỗi bộ gồm hàng ngàn trang. Bộ Thơ miền Nam gồm 5 tập và bộ Văn Miền Nam
gồm 4 tập. Trong cả hai bộ sưu tập thơ văn này, các sáng tác với chủ đề chiến
tranh chiếm một tỷ lệ không nhỏ.
Trong thời
gian gần đây, bên cạnh một ngân khoản eo hẹp, nhà văn Trần Hoài Thư vừa phải
chăm sóc vợ hiền bị bạo bệnh, vừa chăm sóc sức khỏe của chính mình nhưng không
thấy ông chậm lại chút nào trong kế hoạch in ấn và phát tán tác phẩm miền Nam
thời 54-75… Xin cầu chúc ông sức khỏe và nghị lực để tiếp tục gởi đến chúng ta
những tác phẩm giá trị và quí hiếm của một thời.
Xa mặt
cách lòng
Hồi tháng
8 năm ngoái (2013), trong khi thu thập tài liệu cho chuyên đề “Nguyễn Xuân
Hoàng, Trong và Ngoài Văn chương” (5) của tạp chí Da Màu, tôi nhận ra, với một
tên tuổi vô cùng quen thuộc như nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, số lượng bài biên
khảo dành cho tác phẩm của ông quả thật khiêm nhường. Chợt nghĩ ra ông thuộc về
thế hệ của những người làm văn nghệ kém may mắn. Nhóm người này bắt đầu văn
nghiệp của họ trong giai đoạn 54-75 ở miền Nam Việt Nam. Nền văn học non trẻ
nhưng đa dạng và cởi mở này chưa kịp có thì giờ nhìn lại để đánh giá một cách
đầy đủ những thành tựu của tập thể và của mỗi cá nhân tác giả thì đã chết tức
tưởi vào một ngày cuối tháng Tư năm 1975.
Chỉ ít hôm
sau cái ngày định mệnh này, những người viết, phần đông ở vào độ tuổi sung mãn
nhất của họ, bỗng dưng nhận ra ngòi bút trong tay mình bị cướp giật đi và thay
vào đó là gông cùm xiềng xích. Trong số họ, có nhiều người sẽ không bao giờ có
cơ hội cầm bút trở lại. Những người khác, sau nhiều năm tù tội, cố gắng về lại
với chữ nghĩa trong những điều kiện vô cùng khó khăn…
Khi một số
người viết thoát ra được nước ngoài thì nguyên khí đã tiêu hao rất nhiều, đặc
biệt giới phê bình nghiên cứu hầu như không còn mấy. Về sau, có thêm những tên
tuổi mới tham gia lãnh vực này, nhưng lực lượng vẫn còn quá mỏng so với khối
lượng tác phẩm dồi dào của miền Nam. Trong một tình thế như vậy, việc đánh giá
tác giả tác phẩm thuộc nền văn học miền Nam 54-75 nói chung trở nên vô cùng khó
khăn. Đó là ở Hải ngoại.
Ở trong
nước thì gần như tuyệt vọng. Không có độc giả, không có điểm sách, phê bình,
một nền văn học dễ dàng rơi vào quên lãng. Sau 40 năm, nếu lớp trẻ trong nước
hoàn toàn không biết đến tên các tác giả tiêu biểu của nền Văn Học Miền Nam
54-75, chúng ta không nên lấy làm ngạc nhiên.
Trong một bài viết (6) nhằm giới
thiệu chính cuộc hội thảo văn học này trên blog VOA Tiếng Việt, nhà lý luận văn
học Nguyễn Hưng Quốc cũng chia sẻ nỗi bi quan này:
Nói một
cách tóm tắt, nền văn học miền Nam giai đoạn 1954-75, cho đến nay, ít nhất với
độc giả trong nước, vẫn là một nền văn học bất hạnh: sau khi bị tịch thu và bôi
nhọ, nó tiếp tục bị chôn vùi vào quên lãng.
*
Những
người quan tâm đến vận mạng của nền Văn Học Miền Nam, tuy vậy, đã không chịu
đầu hàng, Những công trình lớn nhỏ nhằm cứu vãn và phục hồi Văn Học Miền Nam và
những sinh hoạt như chính cuộc hội thảo này giúp nền văn học này không bị rơi
vào quên lãng. Hơn thế nữa, họ còn mong muốn Văn học miền Nam được công khai
trở về với tổ quốc, được đặt vào một vị trí xứng đáng với tầm vóc của mình
trong dòng lịch sử của văn học dân tộc. Tuy nhiên, đường về của Văn Học Miền
Nam 54-75 nói chung và của mỗi tác giả/tác phẩm thuộc giai đoạn này nói riêng
là con đường gian nan, đầy những chông gai. Những chướng ngại trên con đường
về, theo tôi, trực tiếp hoặc gián tiếp đến từ chính sách bôi nhọ, trù dập,
khủng bố của chính quyền Cộng sản trong nhiều thập kỷ qua. Trong bài nói chuyện
hôm nay, tôi xin phép điểm qua một số các chướng ngại này cùng với các sự kiện
văn học có liên quan đến chúng.
Dĩ Bắc
vi trung tâm?
Trong bài
phỏng vấn “Ðặt lại giá trị văn
học miền Nam 1954-1975 trong lịch sử văn học Việt Nam” (7) do báo Người
Việt thực hiện, nhà văn Phạm Phú Minh đã có một phát biểu quan trọng. Ông phát
biểu như thế này:
Nói
chung đảng Cộng Sản có một đường lối văn nghệ [khác] được chỉ thị từ Liên Xô và
Trung Cộng, và tất cả những gì không phù hợp với đường lối này thì đều bị phê
phán là lạc hậu, phản động, bị cấm đoán và tiêu hủy; các nhân vật văn hóa như
Phạm Quỳnh, Nguyễn Tường Tam đều bị miệt thị nặng nề. Ngay bài “Bình Ngô Ðại
Cáo” của Nguyễn Trãi khi in lại trong cuốn Lịch Sử Việt Nam cũng bị Trường
Chinh và Tố Hữu gạch bỏ một câu vì không phù hợp thế giới quan của đảng Cộng
Sản. Họ không cần những gì dân tộc Việt Nam hãnh diện là những “thành tựu” của
mình về văn hóa, họ chỉ cần những gì phù hợp với đảng Cộng Sản để xây dựng một
thế giới khác theo trí tưởng tượng (bệnh hoạn) của họ. Và đó là thảm họa cho
văn hóa nước Việt Nam của chúng ta.
Nói cách
khác, các nền văn học “không cộng sản” không được phép có mặt trong một đất
nước bị thống trị bởi đảng Cộng sản. Sau tháng 4 năm 75, Văn Học Miền Nam giai
đoạn 54-75 hoàn toàn bị loại ra khỏi sinh hoạt văn học của cả nước. Với sự vắng
mặt của Văn Học Miền Nam từ sau 1975, văn học miền Bắc trong cùng giai đoạn,
còn được gọi là văn học “Cách mạng,” đương nhiên lên ngôi chính thống, trở
thành dòng văn học trung tâm của cả nước.
Không có
đối tượng để so sánh, cái tư thế múa gậy vườn hoang dễ đưa đến tâm lý vô địch,
và cái mặc cảm tự tôn này lâu ngày trở thành một thứ tâm lý chung, được chấp
nhận một cách tự nhiên bởi phần đông những người làm văn học “chính thống”
trong nước. Với họ, Văn học Việt Nam đồng nghĩa với hoặc có xuất xứ từ nền văn
học “Cách mạng” của miền Bắc. Trên thực tế, sự nhập nhằng trong cách sử dụng
các cụm từ “Văn học Cách mạng” (tức là Văn học miền Bắc) và “Văn học Việt nam”
của đa số tác giả thuộc giới phê bình văn học chính thống trong nước là một dấu
hiệu của tâm lý kể trên.
Những điều
như thế không thoát khỏi sự lưu ý của các người cầm bút gốc gác miền Nam hiện đang
sinh sống trong nước hoặc hải ngoại. Trong thời gian gần đây, tôi nghe được hai
cụm từ thú vị từ hai người bạn văn để diễn tả cái “hội chứng” này, “Dĩ Bắc vi
trung (tâm)” và từ thứ hai, một cách rắc rối hơn, “Bắc kỳ Chủ nghĩa.”
Xung
đột của những thế giới bịa đặt
Chính sách
nhằm hủy diệt các thành tựu văn hóa, văn học “không Cộng sản” ở miền Nam không
phải chỉ bắt đầu sau tháng 4/75. Ngay từ những năm 50, nhà cầm quyền Hà nội đã
phát động nhiều chiến dịch nhằm bôi nhọ văn học miền Nam, trong đó có việc phân
vùng văn học với những tên gọi đầy ác ý. Về lâu về dài, những tên gọi này trở
nên quen thuộc và được sử dụng rộng rãi trong cả nước, gây ảnh hưởng tiêu cực
lên cách nhìn của giới cầm bút nội địa, ngay cả những người có cảm tình và
thiện chí với nền văn học miền Nam.
Trao đổi giữa nhà văn Nhật Tiến và nhà thơ Hoàng Hưng của văn đoàn Độc Lập gần đây là một thí dụ điển hình. Vào khoảng tháng 7 năm 2014, nhà thơ Hoàng Hưng đại diện văn đoàn Độc lập trong nước gởi điện thư mời nhà văn Nhật Tiến (và một số các ngòi bút của Văn Học Miền Nam ở hải ngoại) tham gia một tiết mục mới có tên “Văn học Đô thị Miền Nam 1954-1975.” Hoàn toàn dị ứng với cụm từ “Văn học Đô thị Miền Nam,” nhà văn Nhật Tiến đã phản ứng một cách mạnh mẽ. Trích điện thư của nhà văn Nhật Tiến:
Cái từ
ngữ “Văn Học Đô Thị Miền Nam” khiến tôi không khỏi nhớ đến guồng máy tuyên
truyền của miền Bắc ở vào thời kỳ cuộc chiến VN chưa chấm dứt. Họ đã gọi các
sinh hoạt trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa là “ trên các tỉnh và Đô thị Miền
Nam”, với ý nghĩa là “bọn Mỹ Ngụy chỉ co cụm trong các thành phố và không thể
lui tới các các Nông thôn ở miền Nam, vì tất cả đã đồng loạt nổi dậy và đã đứng
dưới ngọn cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”.
Qua cái
từ ngữ được quý anh sử dụng “Văn Học Đô thị Miền Nam”, chúng tôi như đã bị đánh
thức dậy bởi cái mùi vị khinh bỉ, miệt thị, kể cả những hận thù do chính rất
nhiều thành phần có tính cách văn hóa đến từ miền Bắc mang lại… (8)
Không muốn
đổ dầu vào lửa, nhưng thật tình mà nói, cụm từ “Văn học Đô thị Miền Nam” không
có một hậu ý tử tế nào hết. Cho đến gần đây, trường Đại học Đà lạt vẫn còn
tuyển sinh cho một khóa học mang tên “Văn học đô thị miền Nam” với phần tài
liệu học tập gồm đến 9 cuốn trong danh sách “Đả ngụy thập lục thư,” 16 cuốn
sách đấu đá Văn Học Miền Nam dữ dội nhất. Một vài cuốn tiêu biểu:
- Văn
hóa văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy – nhiều tác giả, NXB Văn hóa Hà
Nội
- Nọc độc
văn học thực dân mới Mỹ – Trần Trọng Đăng Đàn, NXB TP. HCM
- Cuộc
xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam - Lữ
Phương, NXB Văn hóa, Hà Nội
- Những
tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng –
Nhiều tác giả, NXB Văn hóa, Hà Nội
Cách phân
vùng văn học mang tính thù nghịch, đầy ác ý của nhà cầm quyền Cộng sản không
chỉ phổ cập trong nước mà còn được xuất khẩu qua trung gian một số trí thức
thiên tả ở các trường Đại học trên thế giới, đặc biệt ở Mỹ. Xin giới thiệu cùng
quý vị bài viết bằng tiếng Anh “The Long Road Home: Exile, Self-Recognition,
and Reconstruction” của nhà thơ, học giả Nguyễn Bá Chung trên đặc san Manoa
Journal số 14 của trường Đại học Hawaii, ấn hành năm 2002. Học giả Nguyễn Bá
Chung là một trong những người điều hành trung tâm William Joiner thuộc viện
Đại Học Massachusetts ở Boston, một tổ chức có ảnh hưởng lớn trong giới hàn lâm
Mỹ, đặc biệt về các khía cạnh văn học liên quan đến chiến tranh Việt Nam. Bài
viết nói trên của ông đã được Ban biên tập Da Màu dịch và phổ biến dưới cái tựa
“Đường Về Diệu Vợi:
Tha Hương, Tự Kiểm và Tái Thiết” (9) để bạn đọc tiện đường tham
khảo.
Dưới đây
là một vài trích đoạn trong tiểu mục “Xung đột của các thế giới và thế giới
quan” của tác giả Nguyễn Bá Chung mà tôi cho rằng có khả năng giải thích phản
ứng của nhà văn Nhật Tiến như ở trên:
Tại làm
sao văn chương của miền Nam Việt Nam chỉ phản ánh suy tư và quan tâm của chỉ
20% dân số — những người sống an toàn trong đô thị, cách ly những bom những
pháo và những đe dọa thường xuyên của lằn đạn réo? Sài gòn và nhiều thành thị
khác của miền Nam vào thời điểm đó [trước 1975] giống như những hòn đảo thanh
bình và tiện nghi trong một biển lửa mà chúng [những hòn đảo] ngoảnh mặt làm
ngơ.
Được
bảo vệ bởi lực lượng quân sự Hoa Kỳ và nuôi sống bởi viện trợ hào phóng của Mỹ,
những thành phố này mang dáng dấp của những tô giới thượng lưu trong vùng đất
nghèo khổ của những đất nước kém mở mang. Phần lớn văn giới thành phố chỉ quan
tâm đến những vấn đề thích hợp với một xứ sở không chiến tranh, hoặc ít nhất,
không phải chiến đấu cho sự sống còn của mình. Không giống như đồng bào của họ
ở thôn quê, sinh mạng của những nhà văn nghệ sĩ này chưa bao giờ bị đe dọa. …
Trong
nhiều phương diện, tác giả thành thị bị sập bẫy bởi một lịch sử không do chính
họ lựa chọn: họ không thể toàn tâm ủng hộ những người tuyên bố đang chiến đấu
nhân danh họ [chính quyền Sài Gòn] hoặc họ hoàn toàn cách ly với [chính quyền
Sài Gòn]. Họ cũng không thể rời bỏ sự an toàn của đô thị để tham gia lực lượng
du kích trong rừng, mà cũng không thể thẳng thừng chối bỏ và lên án những người
vào bưng chiến đấu bởi vì không một ai có thể phủ nhận được nhiệt tình, cống
hiến, và hy sinh của phía bên kia hay sự đồi trụy của phe họ! …
Xin lưu ý
cách tác giả gán ghép những giá trị thấp kém cho “văn giới thành phố,” cách dàn
dựng các thế giới nông thôn và thành thị với những phẩm chất đối nhau chan chát
giữa các thế giới bịa đặt này: nhiệt tình, cống hiến, hy sinh của một bên so
với đồi trụy, thậm chí hèn nhát của phía bên kia! Chỉ còn thiếu mỗi từ “phản
động!”
Không chỉ
có hậu ý chính trị, tôi tin rằng cụm từ Đô thị trong “Văn Học Đô Thị Miền Nam”
còn được dùng để đặt nền văn học này vào một vị trí thứ yếu so với nền văn học
Cách mạng của miền Bắc. Bằng cách đóng khung địa bàn hoạt động của Văn Học Miền
Nam vào bên trong ranh giới các thành phố, họ muốn biến nó trở thành dị dạng,
teo tóp như mảnh da lừa của Balzac! Trong khi đó, văn học miền Bắc cùng thời kỳ
được mô tả như là một khối văn học Cách mạng nguyên vẹn cộng thêm các mảng văn
học vệ tinh ở phía Nam, văn học Giải phóng và văn học yêu nước ở Đô thị miền
Nam. Một bản đồ văn học sử vẽ theo cách sắp đặt không mấy lương thiện này nhất
định sẽ cho thấy vị trí áp đảo của VH cách mạng, tức Văn Học miền Bắc so với
Văn Học Miền Nam.
Xin nói
thêm là văn đoàn Độc Lập sau đó đã phản ứng một cách tích cực, hai chữ “Đô thị”
trong mục “Văn học Đô thị miền Nam” được gỡ bỏ để chính thức trở thành “Văn học
miền Nam 1954-1975” trên trang mạng của văn đoàn này. Đây là một điều đáng
khích lệ, nhưng một con én khó làm thành mùa Xuân. Ảnh hưởng tiêu cực của chính
sách bôi nhọ Văn Học Miền Nam của nhà nước CS, cho đến nay, vẫn xuất hiện nhan
nhản trong các sinh hoạt văn hóa và giáo dục trong nước.
Không
có chỗ cho Tự do học thuật
Trong vòng
mươi năm trở lại đây, có một số thay đổi nhỏ trong cái nhìn của giới làm văn
học trong nước, đặc biệt về những thành tựu trong lãnh vực dịch thuật và phê
bình nghiên cứu của văn học miền Nam. Trích dẫn dưới đây từ bài viết “Dấu ấn phê bình văn
học phương Tây trong văn học sử miền Nam giai đoạn 1954 – 1975” (10) của Lý Hoài
Thu và Hoàng Cẩm Giang thuộc viện Văn học Việt Nam cho thấy một cái nhìn tuy
khái quát nhưng khá chính xác về nền văn học nhân bản của miền Nam:
… văn
học miền Nam dưới chế độ Việt Nam cộng hoà… lại đào sâu vào hình ảnh con người
tự do cá nhân… đồng thời đã tiếp xúc với những trường phái mới mẻ nhất của văn
học Tây Âu như trường phái Tiểu thuyết mới, Phê bình mới, Hiện sinh chủ nghĩa…
Mặt tiêu
cực, tuy vậy, vẫn còn hiện diện hầu như ở khắp mọi nơi. Cho đến nay, đa số sinh
viên đại học/cao học vẫn tiếp tục áp dụng cụm từ “Văn học Đô thị” và cách phân
vùng văn học bất lợi cho miền Nam trong các luận văn tốt nghiệp của mình. Gần
đây, một bộ sách gồm hàng ngàn trang có tựa “Văn học Việt nam nơi miền đất mới”
đã cố tình nêu sai tên/bút hiệu của một số tác giả tiêu biểu của miền Nam bên
cạnh các sai lầm đáng nghi ngờ khác mà nhà nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh đã chỉ ra
trong bài viết “Văn học miền Nam
qua một bộ ‘văn học sử’ trong nước” (11). Nói chung, tiếng nói của những
người có thiện cảm với Văn Học Miền Nam vẫn chưa đủ mạnh để khiến cán cân dư
luận nghiêng về phía họ.
Về phía
chính quyền Cộng sản, trong khi không còn công khai “đuổi tận giết tuyệt” tác
giả và tác phẩm của miền Nam như trước, vẫn có những động thái cho phép chúng
ta hoài nghi động cơ của những thay đổi trong cung cách đối xử của họ với Văn
Học Miền Nam. Có nhiều phần là chúng chỉ nhằm phục vụ nhu cầu chính trị theo
từng giai đoạn của nhà cầm quyền. Một trong những sự kiện văn học gần đây, được
biết đến dưới cái tên “luận văn Nhã Thuyên” cho thấy họ vẫn chưa thật sự thay
đổi chính sách văn hóa hà khắc của mình. Xin trích và rút gọn vài đoạn từ bài
viết “Nhân ‘Trường hợp Võ Phiến’ nhìn lại
sự kiện ‘Luận văn Nhã Thuyên’” (12) của tác giả đã đăng trên tạp chí Da
Màu:
Một
cách ngắn gọn, câu chuyện bắt đầu với loạt bài của Chu Giang Nguyễn văn Lưu
trên báo Văn Nghệ TP HCM cuối tháng 5/2013 nhằm lên án luận văn thạc sĩ “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng
từ góc nhìn văn hóa" (13) của Đỗ thị Thoan tức nhà văn Nhã Thuyên và
chuỗi tiểu luận “Những tiếng nói
ngầm”
(14) đăng trên tạp chí Da Màu của cô. Luận điệu truy chụp của Chu Giang nhắm
vào Nhã Thuyên và nhóm Mở Miệng (gồm Bùi Chát, Lý Đợi, Khúc Duy, Nguyễn Quán),
bắt đầu với cái tựa "Một luận văn kích động sự phản kháng và chống
đối," được nhanh chóng phụ họa bởi các bài viết khác trên các báo Nhân
dân, Quân đội nhân dân, và hàng loạt những cái loa tuyên truyền khác của nhà
cầm quyền. Vào đầu tháng 11 năm 2013, hiệu trưởng Nguyễn Văn Minh ra quyết định
thu hồi bằng thạc sĩ khoa học ngữ văn của Nhã Thuyên và buộc Phó Giáo Sư Tiến
sĩ Nguyễn thị Bình, người đỡ đầu cho bản luận văn phải về hưu non.
Theo
tôi, ban tuyên giáo và các quan chức văn hóa giáo dục của nhà nước đứng trong
hậu trường đã thắng lớn trong vụ này. Bằng cách trừng phạt thầy trò Nhã Thuyên,
họ đã gởi ra một tín hiệu không thể lầm lẫn về những hậu quả nghiêm trọng mà
những kẻ toan tính “xé rào” sẽ phải gánh chịu. Hành động mang tính răn đe, dọa
dẫm này xem ra vô cùng hiệu quả, và nạn nhân, bên cạnh Nhã Thuyên và phó giáo
sư Nguyễn Thị Bình còn có các cây bút của văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975.
Văn
chương miền Nam giai đoạn 54-75, qua những tên tuổi như Nguyên Sa, Thanh Tâm
Tuyền, Dương Nghiễm Mậu… trong vài năm sau này đã được xuất hiện trong một số
những luận văn hậu đại học của sinh viên khoa văn trong nước. Sau vụ “luận văn
Nhã Thuyên” việc lựa chọn tác phẩm của các cây bút từng “có vấn đề” của Văn Học
Miền Nam thời kỳ 54-75 làm đề tài trở thành một hành động mạo hiểm và dính líu
đến quá nhiều người để có cơ may trót lọt. Trong một tình thế như vậy, Tố Hữu,
Lưu Trọng Lư, hoặc một nhà văn cung đình nào đó là một lựa chọn thông minh và
an toàn.
Để loại bỏ
các tác giả, tác phẩm, và trào lưu văn học đại diện cho những giá trị ngược lại
với văn học “cách mạng,” nhà cầm quyền đã không ngần ngại chà đạp lên các quyền
căn bản nhất của ngành giáo dục, trong đó có “tự do học thuật.”
Nội
dung chính trị sai lầm
Đã có một
số các sáng tác văn học của miền Nam giai đoạn 1954-1975 được phép đến với độc
giả trong nước qua hệ thống xuất bản dưới sự kiểm soát của nhà nước Việt Nam.
Những tác phẩm này đều phải trả một cái giá nhất định, đó là chấp nhận đánh mất
sự toàn vẹn của tác phẩm khi cho phép đứa con tinh thần của mình trải qua quá
trình “kiểm duyệt.”
Nói đến
kiểm duyệt thì không thể không nhắc đến một vài sự cố náo nhiệt gần đây có liên
quan trực tiếp đến việc xuất bản sách ở VN. Nổi bật là vụ Thomas Bass, tác giả
của The Spy who Loved Us,
một cuốn sách về điệp viên Phạm Xuân Ẩn, người hùng của chế độ Cộng sản. Phải
mất đến gần 5 năm trời, cuốn sách nhằm đánh bóng Phạm Xuân Ẩn mới qua lọt được
cửa ải “biên tập” để ra mắt độc giả Việt Nam với đầy dẫy thương tích, ngay cả
cái tựa cũng bị đổi thành Điệp
viên Z21. Kẻ thù Tuyệt vời của Nước Mỹ trong khi đúng ra phải dịch
là Điệp viên yêu chúng ta.
Chiến tranh Việt Nam và trò chơi nguy hiểm của Phạm Xuân Ẩn. Cũng
chính trong quá trình biên tập dài dằng dặc này, Thomas Bass đã thu thập khá
đầy đủ tài liệu để lột trần bộ mặt thật của hệ thống kiểm duyệt/tự kiểm duyệt
trong nước qua loạt bài phóng sự điều tra “Swamp of the assassins” (15) với giọng
văn tinh quái nhưng đầy thuyết phục của ông. Bài viết được chuyển ngữ và đăng
trên mạng Pro&Contra của nhà văn Phạm Thị Hoài gần đây.
Ngoài ra,
mạng Pro&Contra còn đi xa hơn, thiết lập một bảng đối chiếu (16) giữa bản dịch
không cắt xén và bản được “biên tập” bởi các biên tập viên trong nước. Từ bảng
đối chiếu, chúng ta có thể phân biệt giữa biên tập mang tính học thuật/chuyên
môn và kiểm duyệt chính trị. Phần biên tập thật ra không có gì đáng than phiền.
Những tranh cãi về sự chính xác giữa các từ ngữ “khí tài/quân cụ,” “chiến tranh
qui ước/chiến tranh thông thường,” v.v… là điều bình thường trong quá trình làm
tốt hơn một dịch phẩm. Vấn đề nằm ở chỗ “nội dung chính trị sai lầm” của những
phần bị sửa đổi hoặc cắt bỏ, vốn chiếm hơn 80% tổng số. Nếu định nghĩa của “nội
dung chính trị sai lầm” là tất cả những gì không có lợi cho Cộng sản, chế độ
kiểm duyệt của Cộng sản được dựng lên là để bảo đảm “nội dung chính trị sai
lầm” không bao giờ được lọt vào mắt người đọc. Và trong khi guồng máy kiểm
duyệt nằm sờ sờ ra đó, nhà cầm quyền, một cách khôi hài, luôn tìm cách phủ nhận
sự hiện diện của hệ thống này.
Trong bài
viết của Thomas Bass nhắc đến ở trên, ông có nói đến luật xuất bản trong nước
như sau:
Ông
Long gửi kèm cho tôi Luật Xuất bản của Việt Nam dày khoảng 22 trang, trong đó
có Điều 5.2 quả thật qui định rất rõ ràng và bình dị thế này: “Nhà nước không
kiểm duyệt các tác phẩm trước khi xuất bản.” Phần còn lại của luật thì lại dành
để qui định ngược với Điều 5.2 vừa nói, ví dụ như liệt kê những thứ bị cấm
trong hoạt động xuất bản.
…
“Về mặt
luật pháp, ở Việt Nam không có kiểm duyệt,” ông Long tiếp tục, “nhưng các giám
đốc, các tổng biên tập các nhà xuất bản đôi khi được yêu cầu phải loại những
chỗ nhạy cảm hoặc thậm chí họ rụt rè đến mức không dám xuất bản (như trường hợp
của chúng ta đây). Hành động kiểu đó chúng tôi gọi là tự-kiểm-duyệt, và đây
chính là nút thắt rắc rối nhất của ngành xuất bản tại Việt Nam.”
Như vậy,
quyền sinh sát nằm trong tay công an văn hóa nhưng công việc “tùng xẻo” tác
phẩm thì chính tác giả hoặc các biên tập viên chuyên nghiệp của nhà xuất bản
phải đảm nhiệm. Tuy vậy, ngay cả một dàn biên tập viên kinh nghiệm, mẫn cán
nhất cũng không thể bảo đảm một cuốn sách được biên tập cẩn thận, được cấp giấy
phép, được in ra và bày bán ở các hiệu sách KHÔNG bị tịch thu vài ngày, vài
tuần, hoặc vài tháng sau đó vì bỗng nhiên công an văn hóa cảm thấy cuốn sách trở
nên “có vấn đề.”
Một cuốn
sách ngoại ngữ nhằm ca tụng một người hùng của chế độ mà còn phải trải qua
những truân chuyên như thế, việc những tác phẩm của Văn Học Miền Nam và cả Văn
Học Hải ngoại được lọt lưới kiểm duyệt mà không bị trầy trụa gì hết là chuyện
khó thể xảy ra.
Có thể
nói, hệ thống kiểm duyệt/tự diểm duyệt hiện hành ở Việt Nam là một trong những
chướng ngại lớn nhất trên đường về lại quê hương của Văn Học Miền Nam theo ngả
“chính thống.”
Văn Học
Miền Nam là một di sản, tất cả những gì chứa đựng trong đó đến từ quá khứ và
cần được giữ nguyên trạng bởi vì chúng thể hiện tri thức, tư duy, tình cảm,
phong cách diễn đạt của người viết trong một khung không gian và một khung thời
gian nhất định. Bên cạnh giá trị văn chương, chúng còn mang giá trị lịch sử.
Bằng cách thay đổi nguyên bản, ngay cả chỉ là những tiểu tiết, có thể gây nên
những thiệt hại không nhỏ cho việc tiếp nhận và đánh giá tác phẩm bởi độc giả
và các nhà nghiên cứu văn học. Càng có nhiều tác phẩm xuất bản trong nước qua
hệ thống kiểm duyệt nêu trên, khả năng các tác phẩm mà “nội dung chính trị sai
lầm” đã được lọc bỏ này được sử dụng như là tài liệu chính thức cho mục tiêu
phê bình/nghiên cứu càng lớn thêm. Lý do khá đơn giản: các tác phẩm đã bị kiểm
duyệt này được phát tán rộng rãi trong nước, được lưu trữ tại các thư viện
trung ương và địa phương, và do đó, có thể được xem là bản chính thức, tin cậy
được. Nguy cơ Văn Học Miền Nam được đánh giá dựa trên các tác phẩm bị đẽo gọt
theo tiêu chí của nhà cầm quyền Cộng sản trở nên thật hơn bao giờ hết.
“Về hay
không về” theo ngả “chính thống,” trong trường hợp này, có thể là một câu hỏi
không dễ trả lời!
Về một
bản đồ văn học
Xin nói
thêm một điều trước khi chấm dứt bài nói chuyện.
Trong cuộc
trao đổi giữa nhà văn Nhật Tiến và nhà thơ Hoàng Hưng về danh xưng “Văn học Đô
thị miền Nam” mà tôi nhắc đến trước đây, nhà thơ Hoàng Hưng có băn khoăn về vị
trí của giòng “văn nghệ ở rừng” (tức là “mảnh văn học Giải phóng miền Nam” theo
cách gọi của nhà cầm quyền Cộng sản) trong toàn cảnh văn học ở miền Nam. Ở phần
phản hồi, nhà văn Nhật Tiến lý luận rằng ngay cả Mặt trận Giải phóng miền Nam
cũng chỉ là công cụ của Cộng sản Bắc Việt, và “sự kiện này đã chứng tỏ rằng
trên mọi phương diện dù là văn hóa hay giáo dục, quân sự hay chính trị, và có
xuất xứ từ những con bài do chính họ đẻ ra, khi cần, tất cả cũng vẫn bị sổ
toẹt. Như thế, làm gì có một thứ văn học trung thực ở vùng MTGPMN, cần phải
được gìn giữ.” (8)
Sự phủ
nhận rất dứt khoát, rất mãnh liệt cái mảnh văn học “ở rừng” và “không trung
thực” này của nhà văn Nhật Tiến khiến tôi khâm phục nhưng đồng thời… băn khoăn.
Bởi vì tôi không cảm thấy yên tâm phán xét công trình văn học của bất cứ cá
nhân hay tập thể nào dựa trên những tiêu chí chính trị đối nghịch. Đây chính là
điều mà người Cộng sản đã áp dụng để xua đuổi Văn Học Miền Nam ra khỏi biên
giới đất nước trong quá khứ và tiếp tục cho đến bây giờ.
Không biết
quý vị nghĩ sao, riêng tôi thường nghĩ về Văn Học Miền Nam 54-75 như là một
thực thể văn học bao gồm tất cả những gì bị nhà cầm quyền Cộng sản chối bỏ, xua
đuổi, thậm chí tìm mọi cách để hủy diệt. Nghĩ cho cùng, những điều bị chối bỏ
này chính là những giá trị đáng ganh tị của Văn Học Miền Nam, không phải hay
sao?
Tuy nhiên,
tôi không chắc lắm là Văn Học Miền Nam 1954-1975 KHÔNG bao gồm những gì được
người Cộng sản tiếp nhận. Nền văn học này sinh ra và lớn lên dựa trên những giá
trị tự do, nhân bản mà chúng ta trân trọng. Ở vào thời vàng son của nó, Văn Học
Miền Nam đã có đủ tự tin và bao dung để chứa chấp không chỉ Võ Phiến mà còn cả
Vũ Hạnh!
Vâng, Võ
Phiến và Vũ Hạnh.
Xin cám ơn
tất cả.
Phùng
Nguyễn
12.07.2014
Ghi
Chú:
(1). Nhiều
Tác giả: Văn Hóa Văn Nghệ Miền Nam dưới Chế Độ Mỹ Ngụy. Nhà xuất bản Văn
Hóa, Hà Nội Việt Nam 1977
(2) Phùng
Nguyễn: Đôi Điều Về Những Hoạt Động Văn Học
Của Tuổi Trẻ Hải Ngoại Trên "Liên Mạng.” - Tạp chí Văn Học số 120 tháng tư 1996
(3) Tủ
sách talawas: Sách xuất bản tại
miền Nam trước 1975
(4) Trần
Doãn Nho: Trò chuyện cùng
Trần Hoài Thư về Thư Ấn Quán & Thư Quán Bản Thảo
(5) tạp
chí Da Màu: Chuyên đề “Nguyễn
Xuân Hoàng, Trong và Ngoài Văn chương”
(6) Nguyễn
Hưng Quốc: Về Văn Học Miền Nam
1954-1975
(7) Phạm
Phú Minh: Ðặt lại giá trị văn
học miền Nam 1954-1975 trong lịch sử văn học Việt Nam
(8) Nhật
Tiến: Có hay không một
nền văn học đô thị miền Nam
(9) Nguyễn
Bá Chung: The Long Road Home: Exile,
Self-Recognition, and Reconstruction. Manoa Journal – Volume 14, Number 1, 2002. Có thể đọc thêm bài
phản biện ‘Đọc "The Long
Road Home: Exile, Self-Recognition, and Reconstruction" của Nguyễn Bá
Chung”’
của tác giả trên mạng Da Màu
(10) Lý
Hoài Thu và Hoàng Cẩm Giang: Dấu ấn phê bình văn
học phương Tây trong văn học sử miền Nam giai đoạn 1954 – 1975
(11)
Nguyễn Vy Khanh: Văn học miền Nam
qua một bộ ‘văn học sử’ trong nước
(12) Phùng
Nguyễn: Nhân ‘Trường hợp Võ
Phiến’ nhìn lại sự kiện ‘Luận văn Nhã Thuyên’
(13) Nhã
Thuyên: “Vị trí của kẻ bên
lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa”
(14) Nhã
Thuyên: “Những tiếng nói
ngầm”
(15)
Thomas Bass: “Swamp of the
assassins”
(16)
Pro&Contra: “Những
chỗ bị kiểm duyệt sửa đổi và cắt bỏ trong bản dịch cuốn Điệp
viên Z21. Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ của Thomas A. Bass”