Thứ Năm, 25 tháng 12, 2014
Ngự Thuyết - Thanh Tâm Tuyền, Nhà Thơ Tiên Phong
(Đã
được tác giả thuyết trình trong cuộc hội thảo về Văn học Miền Nam 1954-1975, được
tổ chức tại Little Saigon Nam California vào hai ngày 6 và 7 tháng 12, 2014)
![]() |
Nhà văn Ngự Thuyết |
Kính thưa quý vị, tôi rất
hân hạnh trình bày đề tài “Thanh Tâm Tuyền (TTT), Nhà Thơ Tiên Phong”. TTT
tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13/3/1936 tại
Vinh, Nghệ An, viết văn, làm thơ, thỉnh thoảng viết về phê bình, và lý
luận văn học khi còn rất trẻ. Tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc (TKCCĐ), xuất bản năm 1956 tại Sài Gòn khi TTT mới 20
tuổi. Tám năm sau, năm 1964, Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy (LĐMTTT) ra đời. Theo lệnh động viên, ông nhập ngũ năm 1962,
giải ngũ năm 1966. Năm 1968 tình hình chiến sự căng thẳng, ông tái ngũ
và phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho đến khi Miền Nam thất
thủ năm 1975. Ông ở tù bảy năm dưới chế độ Cộng Sản. Năm 1990, theo diện HO, ông sang định cư tại Hoa Kỳ, cho
in tập thơ cuối cùng, Thơ Ở Đâu Xa (TỞĐX), và qua đời
ngày 22/3/2006 tại Minnesota, Hoa Kỳ.
Hôm nay tôi chỉ đề cập đến lãnh vực sở trường và
độc đáo nhất của ông, đó là thơ.
Có người cho rằng Văn Học Miền Nam đột ngột chết,
bị bức tử mà chết sau tháng 4/75. Tôi không đồng ý. Một nền Văn Học
rực rỡ như thế không thể nào mai một, nó đã được kế tục và phát
triển. Bằng chứng là trước đây và nhất là hôm nay, nền Văn Học ấy
đã và đang được vinh danh. Cũng vì thế, ngoài phần trình bày Thơ
TTT trước năm 1975 như đòi hỏi của cuộc Hội Thảo, tôi xin trích
dẫn thêm một bài thơ trong tập TỞĐX in năm 1990 ở tại Mỹ.
Trước hết, tôi xin giới thuyết hai chữ “tiên phong”
trong bối cảnh Văn Học Việt Nam. Nó không có nghĩa là “avant-garde” như
trong thuật ngữ tiếng Pháp, mà là “xông xáo, đi trước” so với tính
cách “dè dặt, thủ cựu.”
Từ năm 1954 đến năm 1975, chỉ 21 năm, văn học Miền
Nam phát triển rầm rộ, nhanh chóng, nhất là thơ. Ngoài những nhà thơ
đã nổi tiếng từ thời tiền chiến như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, rất
nhiều nhà thơ lỗi lạc khác chen nhau xuất hiện như Bùi Giáng, Tô Thùy
Yên, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Du Tử Lê,
Nhã Ca, Trần Dạ Từ v.v..., trong đó một khuôn
mặt độc đáo nhất, mạnh mẽ nhất, táo bạo nhất, cách tân nhất, đó là TTT.
Thử nhớ lại lúc TKCCĐ ra đời cách đây gần 60 năm. Đó là một chấn động
lớn trong sinh hoạt văn học Miền Nam, nó tạo nên những tranh luận sôi
nổi. Người thì cho rằng TTT điên rồ viết những câu thơ vô nghĩa, hoặc cố tình lập dị để được chú ý; kẻ thì ca ngợi trên tờ Sáng
Tạo.
Thơ của Lê Thánh Tông (1442-1497) viết cách đây 500 năm “Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương/ Miếu ai như miếu vợ chàng
Trương” (Đề Miếu Bà Trương) so với thơ tự do của Nguyễn Đình
Thi bây giờ “Dừng chân trong
mưa bay/Ướt đầm mái tóc/Em em nhìn đi đâu/Môi em đôi mắt”(Không Nói), ta không thấy bỡ ngỡ. Xưa và nay đều quen thuộc,
đều được hiểu trọn vẹn.
Thế Thơ TTT? Nếu lấy bài Chim làm ví dụ, thì quả nó hoàn toàn xa lạ. Nó không
phải là một tiếp nối quá khứ, mà là một đột phá tận cùng, một đoạn tuyệt với truyền thống. Xin trích đoạn đầu
của bài thơ ấy:
“Đêm giao
thừa thế kỷ mưa rơi sao
mái sáng
đường nằm chiêm bao biển giận dỗi
bàn tay mây
mắt trăng môi nhiệt đới
chiến tranh
còn những khoảng đất hoang
cửa sổ
đập lên cao cánh chim én mùa xuân
ôm vào
lòng bãi cỏ vườn hoa bầy sao rụng” ...
Nhưng Thơ TTT có phải luôn luôn “xa lạ” như thế hay không? Câu trả lời là không.
Trái lại là đằng khác. Có hai lý do chính.
Thứ nhất, có nhiều đoạn, nhiều bài vô cùng giản dị, không
chút màu mè, không tô điểm, không tu từ, không thể nào đơn giản hơn
nữa, nằm rải rác trong cả hai tập thơ đầu:“Nếu đã đi
từ Hà Nội xuống Hải Phòng hay sang Bắc Ninh/Nếu đã đi từ Sài Gòn
xuống Vĩnh Long hay lên Thủ Dầu Một”(Bao Giờ)... Hay: “Anh biết vì sao cộng sản
thủ tiêu Khái Hưng/mỗi lần hoàng hôn tôi bước cùng đám đông/lòng khẩn
cầu cách mạng”(Trưởng Thành). Một số bài trọn vẹn cũng thế, rất đơn giản,như Bằng
Hữu, Một Lần Nữa ... “Bình dị, đơn sơ” và “phức tạp, khó hiểu” chen lẫn
nhau là một trong những phong cách của Thơ TTT. Tuy nhiên, ngay cả với những bài bình dị nhất, Thơ
TTT vẫn khác hẳn thơ của lớp người đi trước hoặc đồng thời.
Thứ hai, TTT không đả phá vần điệu. Nếu Thơ Lục Bát luôn luôn gieo vần âm
bằng, thơ 7 chữ, Thơ Mới v.v...cũng thường gieo vần âm bằng, thì trong Thơ TTT vần và
nhịp điệu hết sức đa dạng, sáng tạo, kín đáo, bằng trắc đều có,
và nhiều khi những chữ vần được đặt cách xa nhau. Vần âm bằng rất
nhiều, âm trắc hoặc bằng trắc xen kẽ cũng thường gặp, nhưng rất mới
lạ, TTT còn cho bằng vần với trắc
như trong bài Tình Cờ chẳng hạn:
Hai người
yêu nhau rất tình cờ
như trên
cùng một toa xe lửa
tàu chạy
qua cầu nghe tiếng sắt và tiếng nước trôi mau
nhìn về
đốm lửa yếu thành phố trên sông
thành phố
trẻ thơ tiêu điều ru dưới những bầu trời xấu ...
Lại có loại vần của nhịp điệu, của hình ảnh, của
ý tưởng trong những bài thơ rất dài như Sầu Khúc, Đêm, Bài Ca Ngợi
Tình Yêu, Mặt Trời Tìm Thấy.
Cũng có nhiều đoạn thơ hoàn toàn không vần:
Khi mặt
trời vừa thức
Đòi gặp mùa
xuân
Cho làn mi
lá ngủ
Cho khoé
mắt biển sâu
Cho đồi hoa
bát ngát...
(Bài Thơ Của Tháng Giêng)
hoặc thơ văn xuôi:
“Hồn nhiên
tôi trở thành thi sĩ ca dao nhẹ những nhát cuốc đầu xới lần áo mỏng
ruộng đồng.
Những
chuyến đi xa theo mưa về ngủ mái rạ. Đem hiền lành, có lẽ từ một
cửa bể bến sông quán
rượu. Những người bạn hứng mưa vào lòng tay, giọt mưa đẹp như mắt ngủ, rất xa không hề cách. Tôi sẽ đưa em về ngủ bên sông, tâm hồn là cánh
đồng chưa khai phá. Tôi sẽ mời anh về nghe mưa trên vừng trán vô tư,
giác quan mở từng ngõ lạ xuống linh hồn. Chúng ta ngủ ngoài mưa như mơ ngủ.” ...
(Mưa Ngủ)
Khác hẳn hầu hết những nhà thơ trước ông rất hạn
chế về đề tài, thơ TTT mở rộng ra nhiều lãnh vực của cuộc sống. Ông đề cập đến tình yêu nam nữ; tình bằng hữu; tình yêu quê hương, đất nước; những
khát vọng về tự do; nhữngquan tâm đến
cách mạng, đến tình hình ở nhiều nơi trên thế giới, đến những thành
phố còn sống trong ngục tù Cộng Sản; những ưu tư về thân phận con
người, những băn khoăn siêu hình; những truy lùng tiềm thức, vô thức.
Một điều đáng chú ý là TTT không tả cảnh. Thiên
nhiên chỉ được nhắc đến rất vắn tắt khi cần minh họa cho những dòng
ý thức. Nói cách khác, con người với tư duy của hắn được chú ý hơn
ngoại cảnh. Mưa trong “Mưa Ngủ” vừa được trích dẫn
đã biến thành con người rồi, nó về
ngủ mái rạ, nó về rơi trên vừng
trán vô tư, nó ngủ
cùng những kẻ cô đơn. Điều này làm tôi nhớ trong cuốn The Brothers
Karamazov của Dostoevksy mà TTT rất mến, gần 1000 trang mà chỉ có mấy
dòng nhắc nhở đến thiên nhiên, thời tiết.
Hơn một lần TTT bày tỏ quan điểm của mình về thơ.
Trong
Định Nghĩa Một Bài Thơ Hay, ông viết: “một câu thơ hay tự nhiên như lời nói”, hay trong Một Bài Thơ: “không đa đa siêu
thực/thẳng thắn/khởi từ ca dao sang tự do.” Tuy nhiên ngay khổ đầu của bài Chim được trích dẫn bên trên lại khiến ta nghĩ đến những hình ảnh đột
ngột xuất hiện đặt bên nhau không theo một thứ tự logic nào cả, những
khơi dậy của tiềm thức, vô thức, những giấc mơ, vân vân, tức là những đặc trưng được André Breton trình
bày trong Tuyên Ngôn của Trường Phái Siêu Thực (Manifestes du
surréalisme) ra đời năm 1924. Đúng
ra Bài Chim không xa Siêu Thực, không gần Ca Dao như tác
giả
của nó mong muốn.
Có thể nói rằng Thơ TTT là phối hợp của Truyền Thống Dân Tộc (Ca Dao)
với Chủ Nghĩa Hiện Đại Phương Tây.
Thời còn rất trẻ, dưới 20 tuổi, ông viết: “Tôi không ca ngợi tình yêu, tôi nguyền
rủa tình yêu (Nỗi buồn trong thơ
hôm nay 1955). Đấy chẳng qua là
cái sôi nổi, bồng bột của tuổi trẻ. Thật ra TTT từng viết một bài thơ
tình rất dài,
rất hay, một thứ tình yêu không nước mắt, không
than thở không bi lụy, nhưng đầy thương nhớ, trăn trở. Yêu nhau như “nụ hôn đầu” thì tiếp theo ngay đó là “ôm mái
tóc lang thang”. Xin trích dẫn hai đoạn trong bài ấy, Liên Những
Bài Thơ Tình Thời Chia Cách trong
TKCCĐ:
“Sự vắng
mặt của em và bãi biển mùa đông
thành phố
đau từ mỗi cột đèn
mỗi bực
thềm cửa đóng
em đi không
nón không áo choàng
mưa tầm tã
những cửa
sổ đêm muốn hé ra
nổi loạn
và mắt em
mặt trời cỏ hoa với môi anh đằm thắm
và rực rỡ
nhớ thương
Nét cong
môi hồng mắt tình cờ
ngực hoa
yếu đuối
những miền
không gian được gọi qua
tình yêu
không thẹn thùng
đâu phải
một thứ mưa ô buy vào thành phố
năm cửa ô
hồi sinh trên xác năm cửa tù
mưa nắng
cùng rủ nhau xuống Sinh Từ ngõ Hội Vũ
bao nhiêu
đường tình tự ga hàng cỏ
nụ hôn đầu
ôm mái tóc lang thang” ...
Ở tập thơ thứ hai LĐMTTT tình yêu vẫn còn, khá
tươi sáng, trong Bài Ca Ngợi Tình Yêu:
Em là lá
biếc là mây cao là tiếng hát
sớm mai
khua thức nhiều nhớ thương
em là cánh
hoa là khói sóng
đêm màu
hồng
Tuy nhiên thường xuyên hơn, kể cả trong tình yêu, là
những ám ảnh, trăn trở, những độc thoại nội tâm ảo não, những tiếng
nói trong cơn mê:
“Anh xé tóc
em cùng những cành lá chết
Mùa thu
Ghi thương
tích nơi cườm tay
Khóa chặt
Anh xô ngã
em từ chóp đỉnh hạnh phúc
Khuôn mặt
vỡ tan
Như cẩm
thạch
Như nước
mắt
Như muôn
đời
Không hối
hận
Con đường
anh phải đi một mình
Trần truồng
dã thú
Đón anh ở
cuối đường
Hố sâu
vĩnh viễn
Không có em
...
“Những bài thơ
tình không viết được
Những hồn
ma hoang đầu ngọn cây
Xác chết
rữa nát
Trong kẹt
rừng khô
Đêm thức
dậy mở mắt mắt đã mù
Hai con sâu
nằm trên chân mày đang khoét lỗ
Con quạ hôi
hám mở lồng ngực bay lên
Mỏ ngậm
quả tim đựng hình ảnh đời người
Đời người
thản nhiên như tên gọi” ...
(Đêm)
hoặc những khắc khoải về thân phận con người tha hóa, chỉ mong còn chút tự do:
“Trong đầu
là hư vô
Trong mắt
là hoang đảo
Trên môi là
thần chú
Trên tay là
trống không
Cả đời là
sa mạc
Cả tôi là
tự do”...
(Đêm)
Nhưng có tự do hay không, hay là đi đâu nhà tù cũng
đi theo vây hãm:
“Phiêu lưu
mãi là một nhà tù
Dãy tường
câm chuyển động
Trên một
triền vực sâu”
(Sầu Khúc)
Nói chung, Thơ TTT không dễ đọc. Trước hết, nếu thơ
của ta từ xưa cho đến thời Thơ Mới và cả giai đoạn 1945
– 1954 là tiếng nói của tình cảm, của biểu đạt, nhằm gây xúc động – Xuân
Diệu xôn xao trước thời gian: “Mau
với chứ, vội vàng lên với chứ!” (Giục Giã), Huy
Cận bâng khuâng trước không gian: “Sông
dài, trời rộng, bến cô liêu” (Tràng Giang)– thì thơ trong giai đoạn 1954-1975, đặc biệt Thơ
TTT, là những dòng ý thức, nhận thức, nhằm đặt vấn đề. Cũng không còn cả cái “Nao nao dòng nước uốn quanh” như trong Kiều mà là những thao thức, trăn trở “dù
tôi đang đứng bên bờ sông, nước đen sâu thao thức”.
Bài Phục Sinh, bài thơ đầu tiên trong
TKCCĐ là một ví dụ của những dòng ý thức, của những
tra vấn, trăn trở về thân phận con người. Ta thử xem khổ thứ nhất:
Tôi buồn
khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy
tinh
tôi gọi tên
tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm
tuyền
buổi chiều
sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi xin một
chỗ quỳ thầm kín
cho đứa
trẻ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói
không màu
tôi buồn
chết như buồn ngủ
dù tôi đang
đứng bên bờ sông
nước đen
sâu thao thức
Ba chữ đầu của bài thơ đầu trong tập
thơ đầu của TTT xuất hiện mới lạ: “Tôi
buồn khóc”. Xưa nay ta chỉ nói buồn cười, buồn ngủ, buồn mửa, vân vân. Và ta sẽ gặp trong hầu
hết Thơ
TTT rất nhiều sáng tạo chữ nghĩa như thế: hy vọng thổn thức, lòng tin phủ tro, quá khứ đăm đăm, buổi
chiều vội vã đêm, mây đục đậu lên bờ cửa sổ, bước ai thánh thót, ngực
gọi đêm về, mắt kín mưa đêm, trên chúm môi lá biếc/ những chòm hôn
vội vàng, v.v. Nhiều vô số kể. Chữ nghĩa mới lạ là một trong
những đặc điểm nổi bật của thơ ông.
Xin
trở lại với bài Phục Sinh. Câu đầu tiên đầy ray
rứt được nối tiếp bằng hai câu thật ngắn, thật đột
ngột, ngoài phố/nắng thủy tinh,
tạo nên sự đối nghịch lớn - tôi trong căn gác cô đơn khắc khoải, muốn
tự hủy, tên tôi cũng sẽ chỉ còn là một nỗi nhớ, trong khi ngoài kia cuộc
đời vẫn còn đó trong veo nắng.
Câu thứ sáu lại là chuyển biến mới mang nhiều
hình ảnh, ẩn dụ, đa tầng, đa nghĩa:
buổi chiều
sao vỡ vào chuông giáo đường
Sao trên trời là tướng tinh của con người, và một
ngôi sao tắt có nghĩa là một người sắp qua đời chăng? Vâng, chiều nay có
một ngôi sao vỡ, giáo đường gióng lên tiếng chuông cầu hồn. Mà câu thơ
ấy cũng gợi lên hình ảnh chiếc linh hồn nhỏ chạm vào chuông giáo
đường làm tóe ra những hình sao vỡ. Cho nên “đứa trẻ linh hồn” vội tìm
chỗ ẩn nấp trốn tránh con chó dữtrong tôi đóng vai bà già đánh lừa
em bé quàng khăn đỏ mà nhà thơ sẽ nhắc lại trong đoạn kế tiếp.
Trong suốt hai tập thơ TKCCĐ, LĐMTTT, và khá
nhiều bài thơ khác đăng trên các báo, ta thường gặp những cách phô
diễn đầy ẩn dụ và tra vấn như trên. Xin trích thêm vài câu trong bài thơ
văn xuôi Khúc Tháng Chạp viết vào cuối năm 1969:
“Nội không
quạnh quẽ như ngàn cõi chiêm bao vượt. Đập vỗ, đập vỗ hoài con mắt
buốt, con mắt vi ty rụng trụi lớp mi che, không động thức. Con mắt khờ
câm căng chống. Tưởng dáng mùa hè chín ối. Tưởng nét mùa thu lung
linh. Đã bay qua, bay qua nghìn mệt mỏi. Như điệu ngân hụt hẫng”...
Thơ TTT, do đó, đòi hỏi sự tham gia của người đọc. Sự tham gia ấy
sẽ phát hiện ý nghĩa và giá trị của văn bản. Người đọc đến từ
những nguồn gốc khác nhau, trình độ khác nhau, cảm thụ khác nhau,
nhận thức khác nhau, do đó phát hiện cũng khác nhau.
Chẳng hạn trong bài Dạ Khúc khá đơn sơ, người thì
cho rằng hai câu đầu, Anh
sợ những cột đèn đổ xuống/Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta, là
vớ vẩn, kẻ thì thích lối ẩn dụ ấy đã nói lên
được một nhân sinh quan không bình yên trong một thế giới đổ vỡ. Franz
Kafka cũng đã từng “vớ vẩn” hơn để nhân vật Gregor Samsa hóa thân thành
con sâu gớm ghiếc (Metamorphosis) sau một đêm
nằm ngủ đầy mộng mị. Hoặc với bốn câu thơ dưới đây, có người bảo thiếu
trau chuốt, kẻ khác lại cho rằng viết như thế mới gây ấn tượng mạnh:
Sao tuổi
trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi
trẻ quá buồn
như bàn
ghế không bày
Nhưng có lẽ ai cũng phải thừa nhận rằng “Dạ
Khúc” là tiếng nói của tuổi trẻ cô đơn, bơ vơ, buồn chán, nổi loạn, tuổi
trẻ của ai mà chả thế, trong một quê hương tương tàn, một đất nước tan
tác!
Tôi xin đọc nguyên bài Dạ Khúc[1].
Đối với bài Chim mà ta đã trích dẫn trên chẳng hạn, việc tham gia của người đọc
lại không dễ. Chữ nghĩa tinh khôi, hình ảnh dồn dập, lung linh, đa
dạng, nhạc điệu phong phú, nhưng bài thơ muốn nói gì? Kiếp ngườiví
như kiếp chim chăng, con người trong cuộc lữ có khác gì cánh én cô đơn
bay mải miết trong thời gian và không gian, thời gian là đêm giao thừa
của thế kỷ, không gian là vô vàn hình ảnh, sự kiện, xuất hiện ngổn
ngang, là bão tố, là “mưa rơi sao”.
Và kết cục, như được mô tả trong dòng cuối cùng của bài thơ, “chim bay vào trận mưa sao”.
Về sau, khi cuộc chiến khốc liệt vượt lên trên mọi
nỗi băn khoăn, khắc khoải của thời đại, Thơ TTT lại chuyển biến:
Ta nhớ sau
lưng núi thanh thản
Biếc mây
như lệ của đêm điên
Ta nhớ
rằng ta không nhớ nữa
Như cây trơ
trụi mùa hưu miên
Như phiến
gỗ nặng thả theo nước
Bập bềnh
trôi nổi ta về xuôi
Như lau
lách mọc chen bờ bãi
Phất phơ
tóc bạc lả theo trời
(Đỉnh Non Xa, Giai Phẩm
Văn 9/1974)
Phải chăng TTT đang “về xuôi”, về với các thể thơ dễ dãi đã có, về với những sôi nổi
của tuổi trẻ đang lắng dần, những giấc mơ đang tan vỡ, về với đám đông lau lách dưới kia, khi mái tóc không còn xanh, khi “tóc bạc lả theo trời”. Nhưng dù với thể thơ nào, TTT vẫn
tỏ ra có biệt tài. Xin dẫn một đoạn ngắn của bài Ngôi Nhà Đỏ, Trăng Hồng thật dài làm ví dụ,
trong đó những chấm câu bất ngờ, những ngôn từ quấy động, vần thì âm
trắc, hình ảnh đa dạng, dữ dội, ý
tứ cuồng nộ, khiến lời thơ trở nên dồn dập, khúc khuỷu, gắt gỏng:
Ngôi nhà
đỏ trên đồi trăng hồng khỏa.
Trời sương
lam. Núi ngây rừng gió lạ.
Cây ngà
say. Đêm heo hút lặng khơi.
Mùa trở
gió. Rười rượi buồn cỏ lá.
Mùa ngã
độc. Nhà nín hơi lẩn lút
Đồi sượng
sần. Cây lìa cành, lá trút.
Đừng ngoái
nhìn. Phơ phất khói sương thu.
Đừng ngoái
nhìn. Trăng khỏa thân xanh mướt
Sau Tháng tư 1975, trong nhà tù Cộng Sản, TTT vẫn
làm thơ. Khi định cư tại Mỹ, ông gom góp những bài thơ làm trong tù in
thành tập thơ cuối cùng, Thơ Ở Đâu Xa rất giá trị.
Xin trích trong tập thơ cuối cùng ấy bài chiều cuối năm qua xóm nghèo viết vào năm 1978 mà bất cứ một ai từng ở tù
cải tạo của Cộng Sản đều tìm thấy mình trong đó. Bài thơ hắt hiu,
chữ nghĩa buồn tênh từ đầu đến cuối như một bức tranh sử dụng toàn
gam màu lạnh mà dưới lớp băng giá đó âm ỉ vài tia lửa ấm, vài giao thoa
của đời sống tối tăm. Đây một chút nhớ, đâu lũ trẻ co ro đứng trông
tù qua thôn; kia một chút thương, nhà ai lạnh lẽo khiến lòng ta ảm
đạm. Vâng, lũ trẻ không theo lời xúi giục của người lớn ném đá vào
đoàn tù đi qua
như đã xẩy ra, mà đứng co ro nhìn; đoàn tù thì
nhớ lũ trẻ
cũng là nhớ lũ con của mình không biết hiện ở
phương trời nào. Và nhà ai năm hết Tết đến tuy ở bên ngoài nhà tù
cũng thê lương tăm tối không đèn lửa chẳng khác gì bên trong trại tù. Đây
không phải so sánh để tự an ủi, mà là thương cảm. Bài thơ làm theo
lối 7 chữ 8 câu, cách tân, chia thành hai đoạn:
“Mưa bay
lất phất gió căm căm
Đường lầy
trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu
lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng
xem tù qua thôn
Vác bó
cuốc nặng bước loạng choạng
Về trong
xây xẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo
nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm
lòng ta chiều cuối năm”
KTQV, những đóng góp của TTT cho văn học Việt Nam
thật lớn lao. Ông là nhà thơ tiên
phong mở ra những chân trời mới lạ cho thơ Việt Nam, mang lại nhiều khám
phá độc đáo, và đạt được những thành quả ít ai sánh kịp. Cho đến
nay, nói như Báo Mạng Tiền
Vệ
khi ông vừa mới qua đời (22-3-2006), Thơ TTT “vẫn còn là một nguồn cảm hứng lớn đối với nhiều nhà thơ có khát vọng đổi
mới”.Trong thời kỳ
cực thịnh
của văn học Việt Nam, TTT vượt lên như một trong
những đỉnh cao nhất. Có thể nói rằng TTT là một trong một số ít
nhà thơ lớn nhất không phải chỉ riêng đối với Miền Nam mà cho cả
nước.
Chú thích:
[1]Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy
chúng ta
Bóp chết mọi hy vọng
Nên anh dìu em đi xa
Đi đi chúng ta đến công
viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắt thương đau
Đi đi anh đưa em vào quán
rượu
Có một chút Paris
Để anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà Nội
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ
em ngày sắp tới
Tiếng kèn đồng cứ mãi than van
Điệu nhạc gầy níu nhau
tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bày
Thôi em hãy đứng dậy
người bán hàng đã ngủ
sau quầy
anh đưa em đi trốn
những dày vò ngày mai