Thứ Ba, 23 tháng 12, 2014
NGÔ THẾ VINH - NHỚ VỀ NGƯỜI BẠN TẤM CÁM NGHIÊU ĐỀ 1939 – 1998
![]() |
Nghiêu Đề 16 tuổi trước Thương xá Tax, người xưa cảnh cũ đều không còn
Từ giữa sang phải: Nguiễn Ngu í và Nghiêu Đề
|
Bài viết chỉ là hồi
tưởng với những kỷ niệm rất riêng tư về một người bạn tấm cám Nghiêu Đề, với mối giao tình hơn nửa thế kỷ; người viết không ở trong giới hội hoạ nên cũng không dễ dàng để viết một hoạ
sĩ tài hoa, sáng tác tuyít nhưng đã để lại dấu ấn lâu dài trong lãnh vực nghệ
thuật tạo hình của Việt Nam, qua một giai đoạn đầy sáng tạo trong những năm
1960-1970 với Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam mà Nghiêu Đề là một trong những thành
viên sáng lậpvớicá tính nổi bật. Ngô Thế Vinh
Tiểu sử Nghiêu Đề
Nghiêu Đề tên thật Nguyễn Tiếp nhưng Trai là
tên gọi ở nhà,sinh năm 1939 tại Quảng Ngãi. Là con trai trưởng trong một gia đình 6 anh chị em. Học Cao đẳng
Mỹ thuật Gia Ðịnh nhưng đã tự rời trường ốc trước khi tốt nghiệp; là một trong
những sáng lập viên Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam; Huy chương bạc Hội họa mùa Xuân
1961, từng tham dự triển lãm tại nhiều quốc gia. Ngoài hội họa, Nghiêu Ðề còn viết
văn, làm thơ mà sau này Nghiêu Đề coi như hai “bước lỡ” không nên dấn thân vào.
Tác phẩm đã xuất bản: Ngọn
Tóc Trăm Năm (Sài Gòn 1965 ). Nghiêu Ðề cùng gia đình đến Hoa Kỳ năm 1985 và mất
vào ngày 09 tháng 11 năm 1998 tại San Diego, California khi chưa tới tuổi 60.
Vào tháng
8 năm nay, 2014 khi Trịnh Cung còn ở Mỹ, tôi
gợi ý anh nên có một bài viết về “cố tri” Nghiêu Đề. Trịnh Cung đồng ý
là sẽ có bài viết vào tháng 11, nhân ngày giỗ thứ 16 của Nghiêu Đề. Nhưng rồi đến
tháng 11, chỉ có đôi dòng giới thiệu ngắn trên Da Màu và hai bức tranh trích từ
cuốn Nghiêu Đề của Viet Art Society, Trịnh Cung cho biết không đủ tư liệu nên đành
botay.com.
Tôi
đã không ngạc nhiên về “khoảng trống” Nghiêu Đề, một người bạn mà hình như suốt
đời không ham muốn sở hữu một điều gì. Sự nghiệp của anh chỉ là những dấuchân chim
trên cát mau chóng bị xoá nhoà bởi lớp sóng thời gian. Anh không có đức tính của
một người rất sớm bền bỉ vun đắp và tích luỹ cho sự nghiệp của mình. Điển hình
cho đức tính ấy là bạn anh, hoạ sĩ Đinh Cường, anh ấy có cả một kho tư liệu như
một viện bảo tàng cá nhân mà ít ai có thể sánh kịp.
Với
bài viết này, nói theo hoạ sĩ Khánh Trường thì tôi chỉ như một người chuộng “cố sự” đanglàm
công việc góp nhặt cát đá, tìm lại thời gian đã mất với người bạn tấm cám Nghiêu
Đề.
Nghiêu Đề và những
người bạn
Bước vào năm đầu y khoa, thay vì như các bạn đồng khoá tập trung
vào học tập, tôi đã không được gương mẫu như vậy, sớm say mê chuyện viết lách
làm báo và cả rong chơi với giới nghệ sĩ nhóm bạn Nghiêu Đề. Rất khác nhau nhưng không hiểu sao tôi và Nghiêu Đề
lại có thể thân nhau đến như vậy. Nghiêu Đề có nếp sống lang bạt, có nhiều bạn
tấm cám từ thời còn rất trẻ, xóm
Bùi Viện gần ngã tư quốc tế là khu giang hồ nơi chúng tôi thường lui tới lúc
đó, họ
tiềm ẩn tài năng nhưng còn như những “viên ngọc ẩn thạch”, giới hội hoạ như
Nguyễn Trung, Cù Nguyễn, Lâm Triết, Nguyên Khai; nhóm thơ văn Trần Dạ Từ, Nguyễn
Đức Sơn/ Sao Trên Rừng, Trần Tuấn Kiệt, Trần Đức Uyển/ Tú Kếu, Nguyễn Nghiệp
Nhượng, Nguyễn Thuỵ Long, mỗi người một vẻ với khao khát nghệ thuật là mẫu số
chung mà họ hướng tới. Sức sáng tác của họ mạnh mẽ, sớm có tác phẩm và họ đều
trở thành những tên tuổi. Nghiêu Đề còn có cả những người bạn vong niên mà tôi
được biết từ toà soạn Bách Khoa như Lê Ngộ Châu, Nguyễn Ngu í, Võ Phiến, Vũ Hạnh…
Tiếng Hót của Chim
Nguyệt
Trả lời nhà báo Nguiễn Ngu í trên Tạp chí Bách Khoa số 137 ngày
15-9-1962, Nghiêu Đề kể chuyện như người đi trên mây:
“... Ở quê tôi, có một
giống chim lạ, sắc trắng, và dáng mong manh lắm, thường bay một mình trong đêm
trăng. Người ta bảo rằng nó bay mãi lên cao, và tan vào mặt trăng, không bao giờ
trở lại. Tên nó là ‘Nguyệt’ Tiếng hót hay vô cùng. Không biết vì sao tôi iêu nó.
Chỉ biết mỗi lần nó bay ngang cùng tiếng hót đã làm tôi xúc động. Bây giờ tôi
nghĩ Nghệ Thuật tôi muốn là một cái gì hết sức tự nhiên như tiếng hót của chim
Nguyệt vậy.”
Khi hỏi nhà thơ Luân Hoán và những người bạn cùng quê xứ Quảng với
Nghiêu Đề, thì cũng chưa ai thấy hay được nghe tiếng hót của chim Nguyệt. Nhưng
đâu có hề gì, vẫn có đó con chim Nguyệt sắc trắng dáng mong manh bay một mình
trong đêm trăng, cũng như mãi mãi có đó một Chú Cuội ngồi gốc cây đa trên Cung
Hằng. Chim Nguyệt thì vẫn cứ bay mãi lên cao, và tan vào mặt trăng, không bao
giờ trở lại… phải chăng đó chính là thế-giới-thanh-thoát và cũng là giấc mộng
trăm năm của Nghiêu Đề.
Một nhà in Trường
Sơn
Trước những năm 1960, kỹ thuật in ấn ở Miền Nam chủ yếu là Typo.
Những trang sách báo thời ấy được sắp từ các bát chữ với từng con chữ đúc chì.
Thợ Typo thường là gốc Hoa Chợ Lớn không rành tiếng Việt nhưng tốc độ sắp chữ
thì nhanh đến dễ nể. Thời kỳ đó, kỹ thuật offset còn hiếm, cơ sở tư nhân có
Cliché Dầu, nơi tôi và Nghiêu Đề thường tới đặt các bản kẽm cho bìa sách báo hoặc
các tranh phụ bản. Phạm Ngũ Lão vẫn được coi như con đường báo chí của Sài Gòn
nhưng nhà in Trường Sơn của nhà văn Nguyễn Thị Vinh lại nằm trên đường Nguyễn
An Ninh, gồm hai giàn máy Typo khổ lớn một trang báo, không kể mấy chiếc máy in
nhỏ cả máy pedal / đạp chân. Báo sinh viên Tình Thương của Y Khoa, báo Đất Sống
của Dược Khoa cùng với báo Văn Học của Dương Kiền đều được in ở nhà in này.
Nghiêu Đề và tôi thường có dịp gặp nhau nơi nhà in này, nhất là khi có mẫu bìa
báo Xuân được Nghiêu Đề trình bày.
Nghiêu Đề và mẫu
bìa sáchNhà văn Võ Phiến đặc biệt rất quý Nghiêu Đề. Một giai thoại về
cuốn Giã Từ: Võ Phiến nhờ Nghiêu Đề vẽ bìa sách; thời kỳ đó các mẫu chữ đẹp để
làm bìa rất hiếm, đôi khi phải tìm trong mấy tờ báo Mỹ mua được nơi các Kiosksách
báo trên vỉa hè đường Lê Lợi và sau đó là cắt dán từng mẫu tự và thêm dấu. Do
chỉ quan tâm tới một mẫu bìa đẹp, nên Nghiêu Đề quyết định “không thêm râu ria”
không bỏ dấu trên nhan sách và cũng để mở ra cho độc giả “tuỳ nghi” với bao
nhiêu cách đọc: Gia Tư, Giả Tu, Giả Tù, Giã Tự… Sách do Thời Mới xuất bản, sau
đó Nghiêu đề được Võ Phiến tặng cho một ấn bản đặc biệt với lời đề tặng thật
trân trọng: “là cuốn sách ưng ý nhất về
hình thức của tác giả.”
Ai có sách hoặc tập san sắp xuất bản cũng muốn được Nghiêu Đề vẽ
bìa. Anh chưa hề nói không với ai, nhưng bao giờ thì có được mẫu bìa đem in là
vấn đề hoàn toàn khác. Nhà thơ Luân Hoán viết:“Anh hết lòng với bạn
bè, thường không từ chối những việc làm có liên quan đến nghệ thuật. Nhưng để
anh hoàn tất nhanh chóng một mẫu bìa không phải là chuyện dễ dàng. Với phong
thái làm việc thong dong, tùy hứng, Nghiêu Đề không muốn bị ràng buộc, thúc dục.”
Bìa
báo Xuân cho Tạp chí Bách Khoa của anh chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, hay cho Nguyệt
san Tình Thương của Sinh viên Y khoa cũng đều kinh qua những chờ đợi và cả đôi
lúc lỡ hẹn.
![]() |
Mấy mẫu bìa của Nghiêu Đề: Mây Bão (1963,1993), Bóng Đêm (1964),
Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng: tranh Nghiêu Đề,
mẫu bìa Khánh Trường (2000)
|
Riêng 4 cuốn sách của tôi: Mây Bão (1963), Bóng Đêm (1964), Gió
Mùa (1975), và Vòng Đai Xanh (1971) đều được người bạn tấm cám Nghiêu Đề trình
bày theo lối thủ công.
Có một
giai đoạn ngắn, rất hiếm Nghiêu Đề làm việc nhiều, ngoài vẽ tranh anh giữ phần
trình bày và minh họa cho các cuốn sách quý của nhà xuất bản Cảo Thơm, trong đó
có cuốn “Vang Bóng Một Thời”, và sau
1975, khi Nguyễn Tuân vào Sài Gòn đã rất tâm đắc và trân trọng khi được cầm tác
phẩm rất mỹ thuật của chính mình nhưng lại được xuất bản từ Miền Nam.
Đại Học Xá Minh Mạng và tranh
Nghiêu Đề
Trước
1975, tranh Nghiêu Đề là sơn dầu, khổ tranh khá lớn, khi mới vẽ xong sơn còn ướt,
nếu không bị xếp úp mặt vào đống tranh cũ đã bám bụi bặm, thì thường được bạn
bè khuân
đi. Đôi khi có nhu cầu vẽ mà không có tiền mua
khung vải, Nghiêu Đề đã lấy một bức tranh cũ và vẽ trồng lên đó. Căn phòng 3/7 trong Đại Học Xá của tôi cũng là
nơi treo tranh của Nghiêu Đề (Trăng, sơn dầu phụ bản 1), ít lâu sau đó bức
tranh này được Nghiêu Đề đem bán, không biết nay ai hiện là sở hữu bức tranh
mang nhiều nhiều kỷ niệm như vậy. Và đây cũng là một trong 3 phụ bản mà sau này
bạn tôi, anh kỹ sư Nguyễn Công Thuần đã sao chụp lại được từ cuốn tiểu thuyết Gió
Mùa còn lưu trữ trong Thư viện Đại học Cornell.
![]() |
Trăng, tranh sơn dầu, phụ bản 1 trong tiểu thuyết Gió Mùa,
Sông Mã xuất bản 1965[Label: Wason PL 4389, N473, G4]
|
Khách
ngoại quốc hay người Việt tha hương lâu năm khi về thăm quê nhà, thường rất chuộng
và tìm mua cho được tranh Nghiêu Đề. Hoàn toàn không có khả năng sáng tạo theo
đơn đặt hàng, gallery của Nghiêu Đề
là những bức tranh thất tán nơi đám bạn hữu.Nghiêu Đề vẽ rất ít không đủ tranh
bán và giá tranh thường rất cao. Và mỗi lần bán được một bức tranh, trong ít
ngày sau đó là một Nghiêu Đề hoàn toàn khác, không chỉ chiếc Mobilete cũ kỹ hiếm
khi được đổ đầy một
bình xăng, bạn bè thì được Nghiêu Đề tìm tới và chiêu đãi liên miên cho tới đồng
bạc cuối.
Cũng vẫn Nghiêu Đề trả lời nhà báo Nguiễn Ngu í trên tạp chí
Bách Khoa ngày 15-9-1962:“Tôi không thích
tranh tôi được quá một giờ khi vẽ xong. Chúng thường bị úp một xó cho buị...Tôi
mang ơn những thằng bạn thường đến và lấy đi biệt tăm, như thế tôi yên tâm hơn.
Mỗi lần bán được một bức tranh, tôi thấy như số tiền đó từ trời rơi xuống. Cho
nên tôi vội vung tay quá trán mà không tiếc. Nhiều khi thấy tiền nó quá nhiều,
mình không đáng được! Như một vụ lường gạt. Tôi cảm ơn hết những người iêu
tranh tôi về sự rộng lượng của họ, rộng lượng quá sức!”
Matière tranh
Nghiêu Đề
Hai chữ “tạo hình” có lẽ không hoàn toàn đúng với ý niệm hội hoạ
của Nghiêu Đề. Tạo hình không là giai đoạn quan trọng trên mỗi bức tranh sơn dầu
của Nghiêu Đề. Theo anh, tài năng hoạ sĩ là nơi vẻ đẹp chất liệutrên khoảng trống hay là nền của bức tranh ấy. Có
ngồi hàng giờ, im lặng theo dõi những nét cọ của Nghiêu Đề, để thấy là từ những
tảng sơn dầu dầy cộm màu thô sượng, khi được cây cọ Nghiêu Đề miết lên mặt bố
thoáng chốc trở thành một nền xanh ngọcửng sáng mềm mại, cho dù chuyển sangvùng
xanh đậm mảng tranh vẫn không hề thiếu nét long lanh của ánh sáng, chất liệu
thì mượt mà, bố cục vững chắcmà vẫn thanh thoát, rất Nghiêu Đề.
Nghiêu Đề thường nhắc tới chữ matière trên mỗi bức tranh,tôi chưa tìm được một thuật ngữ hội hoạ
nào để dịch sang tiếng Việt. Nguyên Khai thì gọi đó là gamme màu,Huỳnh Hữu Uỷ,
thì đơn giản gọi đó là “chất” như chất tranh của Nguyễn Trung, Cù Nguyễn, Lâm
Triết… Trở lại với đường nét tạo hình,theo Nghiêu Đềthì đó không phải là một
sao chép từ cuộc sống, “hoạ sĩ là người
tìm được một nét đúng giữa hai nét sai của thực tại.”
Gần đây khi bànvề vẻ đẹp của một tác phẩm hội hoạ, Trịnh Cung đã
phân tích ra 5 yếu tố: ý tưởng, bố cục,
đường nét, màu sắc ánh sáng, vẻ đẹp chất liệu / matière. Có thể nói yếu tố thứ
năm:“vẻ đẹp chất liệu / matière” đã tạo
nên sự thanh thoát và cũng là phong cách tranh của Nghiêu Đề.
Sau 1975, có giai đoạn Nghiêu Đề chuyển qua tranh sơn mài, cùng
với Nguyễn Lâm, Hồ Hữu Thủ mà sau này chính anh cũng công nhận là nặng phần kỹ
thuật, và anh nói sau khi phủ các lớp sơn lên để mài thì vẻ đẹp chất liệu của bức
tranh nhiều khi rất tình cờ ngoài tầm kiểm soát của hoạ sĩ. Nghiêu Đề khi sang
định cư ở Mỹ năm 1984, có đem theo được một số tranh sơn mài rất đẹp, tuy thành
công về tài chánh nhưng chính anh tự biết giai đoạn hội hoạ thực sự nghệ thuật
của Nghiêu Đề là tranh sơn dầu được vẽ vào những năm 1960-1970, như những bức: Đêm, Tỏ Tình, Vùng Thanh Thoát, và điển hình là cả bức
Chân Dungđoạthuy chương bạc Hội hoạ
Mùa Xuân 1961.
![]() |
Thiếu nữ, tranh sơn dầu: phụ bản 2 và 3 trong tiểu thuyết Gió Mùa
Sông Mã xuất bản 1965
|
Nghiêu Đề và Ngọn Tóc Trăm Năm
Truyện
của Nghiêu Đề như những bài thơ xuôi. Cũng như tranh, Nghiêu Đề chưa bao giờ tỏ
ra ưng ý một sáng tác nào. Nhưng rồi cuối cùng vẫn có được một tuyển tập Ngọn Tóc Trăm Năm được Sông Mã xuất bản (1965).
Cuốn sách đẹp, cho dù in theo lối thủ công từ nhà in Nguyễn Trọng rất nhỏ, khuất
lấp trong một ngõ hẻm phía sau Lăng Ông bên Gia Định. Sách được in từng 2 trang
trên đĩa xoay của một máy pedalvới bộ
chữ thì đã mòn cũ. Chủ và cũng là thợ nhà in thì rất quý Nghiêu Đề, nên chỉ
tính tiền giấy và công in rất tượng trưng, nhưng thời gian in xong cuốn sách
122 trang kể cả phụ bản thì khá lâu do sách chỉ được in xen kẽ khi máy rảnh
công việc. Thường mỗi cuối tuần, hai anh em chở nhau xuống nhà in, cầm trên tay
những trang sách còn thơm mùi giấy mực. Sách in rất ít nên có lẽ không được nhiều
người biết hay còn lưu giữ được. Có một chi tiết tưởng cũng nên ghi lại ở đây: năm
1985, khi gặp lại Nghiêu Đề trên đất Mỹ tôi mới được biết ông chủ nhà in Nguyễn
Trọng năm xưa là một cán bộ VC cấp cao nằm vùng và nhà in thủ công ấy có lẽ chủ
yếu là nơi in ấn những truyền đơn và tài liệu nội thành của Mặt Trận.
Thật
xúc động khi tìm lại được một ấn bản đặc biệt Ngọn Tóc Trăm Năm có lẽ là duy nhất in trên giấy croquis còn trong tủ sách của Bé Búp con
gái Nghiêu Đề ở San Diego. Sách đóng bìa cứng bọc da, in chữ Nguyễn Toản mạ
vàng nơi gáy sách, là tên của thân phụ mà Nghiêu Đề hết lòng yêu mến. Ông mất
khá sớm khi gia đình Nghiêu Đề còn sống trong một chung cư nhiều tầng trên con
đường Duy Tân. Sau đó gia đình mới dọn về địa chỉ 19B Lý Trần Quán, Sài Gòn.
Đây cũng là địa chỉ mà hai anh em chọn cho Nhà Xuất bản Sông Mã. Ngọn Tóc Trăm
Năm, gồm 4 truyện ngắn và 4 phụ bản tranh, đã như cơ hội họp mặt của bằng hữu.
Nguyễn
Xuân Hoàng biết Nghiêu Đề là tác giả của Ngọn Tóc Trăm Năm, nên đã đôi lần hỏi
xin một truyện ngắn cho báo Văn, nhưng anh chỉ cười và Nguyễn XuânHoàng kể lại:
“Thỉnh thoảng Nghiêu Đề gửi cho Văn một
bài thơ và tuyệt nhiên không thấy một truyện ngắn mới nào. Nhiều lần tôi hỏi anh và anh nói: màu sắc đủ
rồi, thơ cũng là quá một bước, truyện ngắn là lỡ bước thứ hai…” (Một Chút Kỷ
niệm với Nghiêu Đề, NXH San Jose,16/11/1998)
![]() |
Ngọn Tóc Trăm Năm, truyện nghiêu đề
Bìa nguyễn trung
Phụ Bản: lâm triết, cù nguyễn, nguyễn trung, nghiêu đề;
Trình Bày trần dạ từ
songmaxuatbanmotchinsaulam
|
Mục Lục
7 nai, lâm triết sơn dầu
9 VÙNG CỎ XANH
37 thảo và hoa, cù nguyễn sơn dầu
39 NGƯỜI ANH EM CỦA ĐẤT
67 vùng thanh thoát, nghiêu đề sơn dầu
69 NGỌN TÓC TRĂM NĂM
93 chân dung, nguyễn trung sơn dầu
95 KHOẢNG RỢP CỦA BIỂN
Khi
Nghiêu Đề lâm
trọng bệnh, Giang và các con kết hợp với Viet Art Society, chuẩn bị ra một cuốn
sách về Nghiêu Đề, tôi không ngạc nhiên khi biết ngoài phần hội hoạ bạn mình đã
không muốn đưa Ngọn Tóc Trăm Năm vào cuốn sách như một tổng
kếtcuối đời. Cho dù
Nghiêu Đề phủ nhận tác phẩm của mình thì những trang sách ấy tự nó vẫn là một
giá trị của văn học của Miền Nam trước 1975.
Một thoáng Nghiêu
Đề và Vòng Đai Xanh
Triết nhân vật chính trong tiểu thuyết Vòng Đai Xanh, một hình
tượng văn học, nguyên gốc hoạ sĩ sau trở thành phóng viên chiến trường có bóng
dáng Nghiêu Đề trộn lẫn với cái tôi của tác giả.
![]() |
Tiểu thuyết Vòng Đai Xanh, Ngô Thế Vinh, Nghiêu Đề trình bày,
Thái Độ xuất bản (1971) [Label: Wason PL 4389, N473, V9]
|
… Rồi cũng như mọi buổi sáng khi
tờ báo lên khuôn là lúc tôi có thể rời toà soạn xuống tán dăm ba câu chuyện gẫu
với cô thư ký hay ra đầu ngõ kêu một ly cà phê bít tất đắng, ngồi nói chuyện tầm
phào với bất kỳ người nào có mặt ở đó, thường là đám công nhân nhà in hay thợ sắp
chữ. Cái còn lại của một ngày là tất cả sự vắng lặng êm ái. Từ một cầu thang xoắn
ốc và mờ tối, không khí căn phòng như ngưng đọng lạnh lẽo. Những chiếc bàn máy
đen
sẫm im ngủ. Bàn ghế cũng có những
tương quan chỗ đứng của chúng.
Đôi khi sự quen thuộc cũng nhuốm
vẻ xa lạ như ngày mới tới. Nếu còn vẽ chắc tôi có thể làm việc với những cảm
giác đầu tiên như vậy. Bỏ xa khung vải tôi không tránh được những cảm giác nhớ
nhung. Sau vụ cháy thiêu huỷ tất cả, tôi đã dứt khoát từ bỏ giá vẽ chưa biết đến
bao giờ. Dù vậy mà ở lần triển lãm mới nhất tôi vẫn góp mặt với bốn bức tranh lớn,
những bức tranh còn lại rải rác trong đám bạn hữu. Sự kiện có thêm tên tôi cũng
không có gì để phản đối và thêm ý kiến. Nhưng điều ngạc nhiên là ngay trong buổi
đầu, tôi là người đầu tiên có tranh bán được, ba trong số bốn bức. Riêng bức
Mèo Đen Trên Thảm Hồng do một người đàn bà tên Như Nguyện hỏi mua, còn hai bức
kia do một người khách Mỹ mà sau này tôi được biết là nhà báo Davis. Tranh tôi
thuộc loại khó được ưa thích và vì khó bán nên giá thường rất cao. Cũng bởi vậy
lần này tôi đủ tiền để trả những món nợ lớn, sắm thêm một bàn máy đánh chữ nhỏ
và một ống ảnh thật tốt. Như một nhà nông hưởng vụ gặt trái mùa, tôi dứt khoát
từ bỏ hội hoạ với những ưu đãi thật trễ muộn của nó.[VĐX, Chương1, Nxb Thái Độ 1970]
Một Nghiêu Đề Khác
Không
tự ràng buộc vào những quy ước thông tục của đời sống, dễ nhìn Nghiêu Đề như một người phóng giật hay buông thả bất
cần đời, anh hoà nhập với mọi người nhưng lại hàm chứa vẻ cao ngạo với chính
anh chứ không với ai khác.Là người bạn đôn hậu, không hề cay độc nhưng lại rất
cynical, Nghiêu Đề vẫn hồn nhiên gọi chólà đồng loại. Nói như Oscar Wilde: “Anh là mẫu người biết giá của mọi thứ,
nhưng không có gì giá trị đối với anh / A man who knows the price of everything
and the value of nothing”.
Giữa
cuộc chiến tranh khốc liệt, nhiều bạn thân của anh là nhà văn nhà thơ nơi tuyến
đầu, anh không phê phán và chọn đứng ngoài cuộc tranh chấp ấy. Anh sống với màu sắc, trong an nhiên tự tại, Nghiêu Đề chính là hình ảnh con chim Nguyệt trong thế
giới mộng ảo nơi quê anh rất mong manh, bay thật cao hót thật hay và tan vào
trong đêm trăng. Nghiêu
Đề khiến tôi liên tưởng tới nhân vật Sơn Ca của Vũ Khắc Khoan trong vở kịch Thành
Cát Tư Hãn.
Rất tình cờ khi giở những trang sách Ngọn Tóc Trăm Năm, thấy rơi ra một tấm hình không rõ năm nhưng rất cũ đã hoen màu thời gian, nhưng tôi vẫn còn nhận ra đôi lãng tử Nghiêu Đề và Lâm Triết với chiếu manh túi xách trên dọc đường gió bụi, có khoảng thời gian họ đã cùng thuê căn gác xép để vẽ vời và cả tụ hội với bạn bè,nơi mà chủ căn nhà còn có nuôi thêm gà và heo, nặng mùi khó thở ngày đêm, nhưng họ vẫn ở đó lâu năm với giấc mộng dài. Rồi Nghiêu Đề đoạt huy chương bạc với bức Chân Dung trong triển lãm Hội họa mùa xuân 1961; sau đó Lâm Triết huy chương vàng với bức Ngựa trong Triển lãm Hội họa mùa xuân 1962. Nghiêu Đề thì nay đã mất, Lâm Triết đã dừng cơn gió loạn,giã từ Sài Gòn để về “cõi an bình”sống lặng lẽ với cỏ cây nơiBình Định quê nhà.
Thay lời kết: 3 bức tranh sơn dầu
cuối của Nghiêu Đề trên đất Mỹ
1986: Bố cục Sen, một thiếu nữ thanh thoát vươn lên từ những búp sen. Được hoàn tất sau ngày gia đình Nghiêu Đề đặt chân trên đất Mỹ. Tiền bán bức tranh lúc đó đủ mua một cây đàn piano cho tụi nhỏ. Hành trình của bức tranh này cũng khá kỳ lạ, từ San Diego theo chủ nó về Việt Nam, sau một thời gian bức tranh ấy lại sang tay một người khác, sau đó bức tranh lại sang tay một người thứ ba và nay trở lại đất Mỹ. Hình bức tranh do người viết mới chụp từ trong một ngôi nhà vùng Huntington Beach.
1988: Vườn chuối 1988, một cô gái nhỏ nép bên vườn chuối mướt xanh. Khác các chân dung thiếu nữ có nét già dặn chín mùi của những người yêu Nghiêu Đề trước 1975, nay chỉ còn là những cô gái nhỏ mang dáng nét thơ ngây của mấy đứa con Nghiêu Đề. So với trước 1975, tranh sơn dầu của Nghiêu Đề trên đất Mỹ vẫn có màu xanh nhưng nay có thêm những mảng màu vàng đỏ như phản ánh một giai đoạn có thoáng hạnh phúc.
Bức
tranh này đã có người từ Los Angeles xuống nhà San Diego để mua vàkhông
còn nhớ tên là ai là chủ nhân nữa.
1998: Bé
Sài Gòn, Nghiêu
Đề khi biết mình ngã bệnh, xuống sắc rất mau, cả vật vã đến xanh
xao với những cơn
đau nhưng anh vẫn gượng dậy vẽ bức chân dung con gái út Bé Sài Gòn lúc
ấy 19 tuổi. Có lẽ đây
là tác phẩm sơn dầu cuối cùng, còn dở dang của Nghiêu Đề mấy tháng trước khi
anh mất. Bức tranh hiếm hoi ấy nay còn được treo nơi nhà Nguyễn Nghiêu Ngung,
Cu Bi con trai Nghiêu Đề dưới San Diego.
Bài viết
tháng 11 muộn màng này để tưởng nhớ người bạn tấm cám và cũng gửi
tới chị Giang, Cu Bi, Bé Búp và Bé Sài Gòn nhân ngày giỗ thứ 16 củaNghiêu Đề.
NGÔ
THẾ VINH
Sài Gòn 1958 – California
2014