Thứ Tư, 3 tháng 9, 2014
Phạm Cao Dương - Dựng Tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon: Một Quyết Định Hợp Với Truyền Thống Lịch Sử, Tín Ngưỡng và Hoàn Cảnh của Người Việt Hải Ngoại
![]() |
Photo by Giang Du Dong |
Quyết định mà tôi nói tới
ở đây là quyết định dựng tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon. Tôi không rõ trên
giấy tờ liên lạc với Toà Thị Chính Thành Phố Westminster ban tổ chức đã dùng
danh xưng của tượng là gì nhưng ở đây tôi vẫn dùng danh xưng là Tượng Đức Thánh
Trần. Tôi dùng danh xưng Đức Thánh Trần là vì đây là danh xưng mà quảng đại dân
gian Việt Nam từ Bắc chí Nam và bây giờ ở Hải Ngoại dùng để vừa tôn kính vừa yêu
thương, gần gũi hơn thường gọi Ngài thay vì các danh xưng Hưng Đạo Vương và
ngay cả Trần Hưng Đạo dùng nhiều hơn trong học đường và trong sách vở. Có nhiều
lýdo tôi xin được trình bầy trong bài viết này.
Đức
Thánh Trần là nhân vật lịch sử duy nhất được dân gian coi là đã hiển linh che
chở giúp đỡ mọi người, chống lại tà ma quỷ quái, từ đó được mọi người coi như một
vị Thánh của cả dân tộc.
Các nhân vật lịch
sử như Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Triệu Quang Phục, Lý Thường Kiệt, Lê Thái Tổ,
Quang Trung …, tất cả đều có đền thờ và được dân chúng địa phương quanh năm hương
khói, đến ngày kỵ đều được các quan lại địa phương hàng năm chính thức đến tế.
Chỉ riêng có Trần Hưng Đạo ngoài đền thờ còn được coi là đã hiển linh để phù hộ,
giúp đỡ đồng bào của mình, che chở mọi người chống lại tà ma, quỉ quái. Đức Thánh
Trần với các con trai và các gia tướng của Ngài như Yết Kiêu, Dã Tượng luôn luôn
được truyền tụng là đã hiển linh trong các công tác này. Những chuyện như Phạm
Nhan chuyên môn tìm ăn máu dơ của phụ nữ làm cho họ mắc bệnh, mảnh chiếu lấy từ
đền thờ của ngài là những chuyện phổ thông trước đây ai cũng biết.
Một sự kiện liên hệ khác ít ai biết tới là sự hiển linh của
Đức Thánh Trần và sự tin tưởng của quần chúng vào sự hiển linh này đã đưa tới sự
hình thành của một tôn giáo mới của người Việt gọi là Nội Giáo. Nội Giáo là tôn
giáo từ bên trong để phân biệt với Ngoại Giáo du nhập từ bên ngoài mà ngài là vị
thần chính được thờ. Nội Giáo là tôn giáo riêng của người Việt Nam, của nước Việt
Nam độc lập. Sự xuất hiện của Nội Giáo với Thánh Địa là Đền Kiếp Bạc đã nói lên
tinh thần độc lập của người Việt cho tới thời Ngài chưa có. Cùng với Thánh Mẫu
Liễu Hạnh, một trong “Tứ Bất tử”[i] của
người Việt, ngài được thờ như vị Cha chung của cả dân tộc:
Tháng
Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ.
Tháng Tám âm lịch
từ ngày 16 đến ngày 18 là ngày giỗ Đức Thánh Trần và trong 10 ngày từ 1 đến 10
Tháng Baâm lịch là Ngày hội Phủ Giầy ở làng Tiên Hương, huyện Vụ Bản tỉnh Nam định
là ngày giỗ Chúa Liễu Hạnh, hai ngày hội lớn được rất đông người tới dự trước
kia, trước thời chiến tranh và luôn cả hiện tại. Hội Phủ Giầy được tổ chức hàng
năm là hội lớn nhất, vui nhất, có nhiều trò chơi nhất của người Việt. Con số
người tham dự càng ngày càng gia tăng, gia tăng gấp bội so với thời Pháp thuộc,
trong đó có rất đông các cán bộ Cộng Sản đi xe con tới dự.
Chưa hết, song song
với truyền thống thờ Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh, người Việt Nam còn có tục
lên đồng. Nếu Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh chỉ được chính thức thờ ở các đền
thì trong dân gian, các ngài được thờ ở rải rắc khắp nơi qua các đền miễu do các
cộng đồng địa phương lớn nhỏ, do tư nhân xây dựng và được các ông bà đồng coi
giữ. Nơi đây các cuộc lên đồng thường xuyên được thực hiện, kể cả hiện tại ở Westminster,
ở Garden Grove ở Hải Ngoại mà người viết đã có dịp nhiều lần tới dự và rất vui
khi thấy một tín ngưỡng xưa, có thời bị bài bác, nay lại sống lại ở Hải Ngoại. Chính
ở những nơi này, lịch sử của dân tộc Việt Nam, đúng hơn những bài dã sử, đã được
gìn giữ xuyên qua những bài hát chầu văn, một thứ văn chương, âm nhạc vô cùng
phong phú cho tới nay chưa được sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ và tường tận.
Người
Tàu và người Hy Lạp khi dời bỏ quê hương ra đi tị nạn cũng đã mang theo thần
linh của họ.
Cuối cùng, sự kiện các dân di cư tị nạn khi ra đi đã mang
theo các thần của mình là một sự kiện đã xảy ra từ lâu trong lịch sử nhân loại.
Dân Hy Lạp trong các thế kỷ thứ bảy và thứ tám kéo dài đến hết thế kỷ thứ năm
trước Thiên Chúa, khi có những cuộc tranh chấp nội bộ ở các đô thị-quốc gia, những city-states, những
polis, của họ, điển hình là hai đô thị
Athens và Sparta, các phe bại trận bị loại trừ (ostracized, ostracism) phải bỏ
xứ mà đi. Họ đã tạo nên một đường viền Hy Lạp chung quanh Địa Trung Hải với những
quốc gia-đô thị, những polis mới ở
nam Âu, ở Tây Á và luôn cả ở Phi Châu. Khi ra đi họ đã mang theo văn minh Hy Lạp
và đặc biệt là các thần linh Hy Lạp của họ. Với những yếu tố văn minh, văn hóa
và đặc biệt là tín ngưỡng này, những đô
thị-quốc gia mới của họ, mặc dù vẫn giữ được những liên hệ lịch sử,văn minh
và văn hoá, đã trở thành hoàn toàn độc lập với các đô thị-quốc gia mẹ, đã tự mình đứng vững và phát triển, không còn bị
các quốc gia-đô thị mẹ chi phối về phương diện chính trị và sinh hoạt hàng ngày
nữa.
Người Tầu khi di cư ra khỏi quê hương của họ cũng làm những
việc tương tự. Bằng chứng là các “chùa Tầu” đã hiện diện ở khắp thế giới và ở miền
Nam Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là ở Saigon. Tất cả đã trở thành nhũng nơi thăm
viếng mà du khách khi tới Saigon đều phải biết và ít nhiều ghé qua. Chính người
viết bài này hồi trước năm 1975, khi dẫn sinh viên đi du khảo quanh vùng Thủ Đô
Saigon, cũng đã ghé thăm những nơi này. Điều
đáng để ý là những nơi này luôn luôn có nhiều khách hành hương tới viếng trong đó
rất đông là người Việt. Nơi đây khói hương ngày đêm nghi ngút, không bao giờ tàn
lạnh.
Dựng
tượng Đức Thánh Trần không chỉ là để tôn vinh một vị anh hùng có công ơn bậc nhất
của cả dân tộc mà còn biểu lộ tinh thần độc lập của Người Việt Hải Ngoại là chỗ
dựa tinh thần của người Việt
Cho tới nay, Cộng
Đồng người Việt ở Hải Ngoại đã được gần tròn 40 tuổi, đã trải qua giai đoạn sống
còn, đã mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh về đủ mọi phương diện để trở thành thành phần
thứ hai độc lập với thành phần thứ nhất của dân tộc Việt Nam.
Cộng Đồng Hải Ngoại của chúng ta trẻ trung hơn, năng động hơn,
có tiềm năng hiểu biết cập nhật hơn, có nhiều khả năng phát triển hơn nhờ đã hình
thành và phát triển trong những quốc gia tân tiến nhất trên thế giới, so với thành
phần thứ nhất mỗi ngày già cỗi hơn, mòn mỏi hơn, kiệt lực hơn, không còn đủ khả
năng nhận thức và ngay cả sử dụng những khả năng trí tuệ vẫn còn không ít của mình.
Tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại có thể vào và đã vào bất cứ một đại học danh tiếng
nào nếu các em mong muốn và được cha mẹ khuyến khích. Rất đông các em đã đạt được
điều này. Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại đã tự mình hội đủ mọi điều kiện để tự đứng
vững. Chúng ta đã có đầy đủ nếu không nói là khá đông các chuyên viên trí thức
thượng thặng từ các khoa học gia, các giáo sư đại học, các học giả tốt nghiệp từ
các học viện lớn và hiện đang phục vụ trong các trung tâm, các viện nghiên cứu
bậc nhất trên thế giới để góp sự hiện diện của mình với các sắc tộc khác. Chúng
ta cũng đã có những chỉ huy cao cao cấp trong quân đội, kể cả tướng lãnh. Hãy
tưởng tượng hình ảnh một vị chỉ huy dẫn đầu nhiều ngàn sĩ quan, binh sĩ dưới
quyền, thuộc đủ mọi thành phần, chủng tộc, dẫn đầu các cuộc thao diễn, dẫn đầu
họ chạy bộ hàng ngày hay nghiêm chỉnh chào cờ trong căn cứ của đơn vị mình. Vị
chỉ huy đó là người Việt. Anh là vị tướng đi sát với binh sĩ của mình, tướng của
trận mạc, không phải tướng của phe phái, nói cách khác, tướng cảnh. Con em của
chúng ta đó! Hãnh diện biết là chừng nào! Chúng ta cũng có những chỉ huy trưởng
khu trục hạm tối tân nhất của Hải Quân Hoa Kỳ, những nữ đại tá người nhỏ thó chỉ
đứng đến nách những đồng sự hay thuộc cấp của mình nhưng vẫn được họ chào kính
một cách trịnh trọng. Họ cũng là con em của chúng ta đó. Hãnh diện biết là chừng
nào! Họ thuộc thế hệ một rưỡi, luôn cả thế hệ thứ hai của tị nạn Việt. Tất cả đều
vẫn còn thông thạo tiếng Việt, đã trả lời dễ dàng, trôi chảy các cuộc phỏng vấn
bằng tiếng Việt. Tất cả đều đã trở thành “người”, đã “nên người”, đã lập được sự
nghiệp trên quê hương mới mà không cần tới sự trợ giúp của các “đỉnh cao trí tuệ
của loài người”. Chưa hết! Bây giờ thì họ đã ngồi lại với nhau để trở thành
một lực lượng quân nhân gốc Việt trong quân đội Hoa Kỳ và sẽ dẫn đường cho thế
hệ thứ ba. Cầu mong các em sẽ thành công
mỹ mãn. Trong địa hạt chính trị, người Việt nay cũng đã đi rất sâu và rất cao
trong hệ thống chính quyền của nhiều nước, ở đủ cả ba ngành, ngay cả ở cấp
trung ương. Nhiều người trẻ cũng đã xuất hiện và đã thành công xuất sắc. Họ thông thạo ngôn ngữ, được học, được sống và
hiểu biết về xã hội nơi họ đang cư ngụ. Họ bắt đầu thay thế cho thế hệ cha anh đã
đến tuổi xế chiều, nhưng vẫn hiểu biết về Việt Nam và thông thạo tiếng Việt.
Trong tương lai, các em sẽ còn đi xa và lên cao hơn nữa.
Sang một địa hạt khác gần gũi với mọi người hơn là địa hạt giáo
dục. Ở đây tôi chỉ nói vế các cấp trung tiểu học và mẫu giáo, những cấp học cơ
bản liên hệ trực tiếp tới các em nhỏ của chúng ta trong cộng đồng. Con số những
thày cô giáo người Việt hiện diện trong
các trường địa phương mỗi ngày một nhiều. Nghề làm thày cô giáo không còn bị chê
so với các nghề khác như trong những thập niên đầu. Nhiều người tỏ ra đã yêu mến
nghề dạy học ngay từ khi còn học ở bậc trung và luôn cả tiểu học. Họ đã đạt được
ước vọng và sau nhiều năm hành nghề vẫn tỏ ra yêu nghề hơn bao giờ hết. Nhiều
người đã chuyển sang cấp chỉ huy làm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường khi
chán phụ trách lớp. Nên nhớ là, ít ra là ở Mỹ, dạy ở cấp nào cùng được coi là
quý, là trọng, không nhất thiết là ở bậc đại học, nơi kiếm được một chỗ làm rất
khó vì rất hiếm, cạnh tranh giữa các sắc dân Á Châu rất nhiều, bè cánh phe phái
rất nhiều. Điều quan trọng là ở chính mình và hạnh phúc của chính mình.
Để hướng về các con
em nhỏ trong cộng đồng, riêng ở miền Nam California hàng trăm trung tâm Việt Ngữ
đã được thành lập ở các chùa, các nhà thờ hay các lớp mượn của các trường địa
phương trong những ngày cuối tuần do các thày cô đã về hưu hay các sinh viên đại
học phụ trách. Hàng ngàn thày cô đã tham gia công tác này với hàng chục ngàn trẻ
em được cha mẹ mang tới dự. Hãy tưởng tượng các vị này đã kiên trì, cố gắng như
thế nào để cứ tình nguyện mỗi cuối tuần mỗi đến, tuần này qua tuần khác, tháng
này qua tháng khác, năm này qua năm khác, thường xuyên dạy các em, không nửa chừng bỏ dở. Họ âm thầm
làm công việc của mình và dường như ít được cộng đồng biết đến, thăm viếng và
khích lệ.
Cộng đồng của chúng ta đã độc lập, đã tự đứng vững và phát
triển trong suốt 39 năm qua không hề phải nhờ vã vào chính quốc. Trái lại, hàng
chục tỷ đô la hàng năm đã được gửi về làm giàu cho các cán bộ và các đại gia ở
trong nước. Có điều thay vì để yên cho
thành phần thứ hai của dân tộc này phát triển để hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau
song song phát triển, cùng hưởng thì các “đỉnh cao trí tuệ” ở trong nước đã coi
nó như một con gà đẻ trứng vàng, tìm cách ảnh hưởng tới nó, bắt nó đẻ nhiều hơn,
thậm chí bắt và giết nó. Riêng trong phạm vi dạy tiếng Việt có người còn cổ võ đưa
các thày ở trong nước ra dạy ở các trường hải ngoại. Cổ võ nhưng vị này không hề
quan tâm đến tình trạng suy đồi thậm tệ của tiếng Việt ở ngay chính trong nước
mà rất nhiều bài thuyết trình, khảo cứu đã được phổ biến trong nhiều cuộc hội
thảo ở khắp nơi trên thế giới, ở Mỹ. ở Canada, ở Úc, ở Pháp, trên báo chí, truyên
truyền thanh, truyền hình, trong những năm qua. Tiếng một thời được coi tiêu
chuẩn là tiếng của người Hà Nội bây giờ không còn nữa. Người Hà Nội bây giờ nói
thứ tiếng gì, khó mà định nghĩa hay ít ra là kiếm một tên gọi. Người ta bảo đó
là tiếng Kẻ Noi, do các lãnh đạo Cộng Sản
ít học từ Nghệ An, Thanh Hóa ra, mang theo đồng hương của họ, tràn ngập Hà Nội hồi
sau năm 1954. Họ nói tiếng nói của họ và vì họ có quyền, có lực nên mọi người bắt
chước. Giải thích này chẳng biết có đúng hay không nhưng có một điều là người
viết bài này trong một dịp nói chuyện với các sinh viên Đại Học Cornell đã được
hai nữ sinh viên từ Hà Nội sang học lấy bằng tiến sĩ tới nghe. Cuối buổi thuyết
trình, hai cô lên nói cho người viết biết là “Lâu lắm chúng cháu mới được nghe
người Hà Nội nói”. Câu nhận xét làm tôi ngạc nhiên vì tôi là người gốc Nam Định
chứ không phải là người Hà Nội, nhất là người Hà Nội của thời các cụ Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn hay
các nhà văn khác…, đã mài mòn gót giày trên các đường phố của thủ đô thanh lịch
này hồi đầu thế kỷ trước hay thời trước năm 1954. Gần đây hơn nữa là ở ngay
trong nước, chỉ ít năm trước đây, nhà cầm quyền giáo dục đã đưa ra quyết định
huấn luyện lại các thày cô không phân biệt được hai phụ âm “l” và “n” mà trong nước
gọi là “lờ” “nờ”. Người viết bài này cũng được Đài Quốc Tế Pháp, RFI, phỏng vấn
về vấn đề này. Nên nhớ rằng không chỉ có chuyện phát âm mà ngay cả trong ngữ vựng
và cách đặt câu, tiếng Việt ở trong nước “có rất nhiều vấn đề”. Nó đã càng ngày
càng trở nên nghèo nàn, thiếu chính xác, thiếu trong sáng, thiếu lịch sự, thiếu
thanh nhã của tiếng Việt thời xưa. Không
biết rằng khi cổ võ cho việc đem thày cô ở trong nước ra Hải Ngoại dạy hay đem
các thày cô ở ngoài này về học thêm ở trong nước, nhân vật đang là đề tài bàn tán
trong Cộng đồng Hải Ngoại, vị này, một
giáo sư dạy ở hai đại học trong vùng, có hiểu và theo dõi kỹ thường xuyên và đầy
đủ tình trạng tệ hại của tiếng Việt ở trong nước, nói riêng hay tình trạng bi thảm của nền giáo dục ở
trong nước hay không mà lại vội vã như vậy. Không lẽ ông làm như vậy là để làm
vừa lòng những người đã đón tiếp ông và giúp đỡ ông trong những chuyến về Việt
Nam của ông? Nhưng có nhiều phần ông đã
không theo dõi và không hiểu vì ông chỉ yêu thích và lo dạy học trò của mình mà không làm công việc này. Nếu thế thì ông đã
quên hay không biết là dầu cho đã được huấn luyện theo đúng quy mô trong ngành
của mình, các giáo sư đại học ở đâu cũng vậy phải luôn luôn cập nhật hóa các kiến
thức chuyên môn và điều mình dạy, không thể cứ lập đi lập lại những bài đã dạy khóa
này qua khóa khác, năm này qua năm khác. Chỉ nhìn vào các syllabi và bản tiểu sử các vị
giáo sư hay giảng viên cập nhật hoá hàng năm hay cả hàng mỗi khoá là người ta
thấy được điều này. Họ đã dạy cả đời và đã học cả đời. Lý tưởng của họ là nghiên
cứu và dạy học không phải là quyền lực hay tiền bạc, danh vọng.
Trong một bài viết trước đây, nhằm kỷ niệm một ngàn năm Lý
Thái Tổ từ Hoa Lư thiên đô ra Thăng Long, đăng trong Tập San Thế Kỷ 21, số 1, số ra mắt, người viết có đưa ra cái nhìn hơi bạo về lịch sử của dân
tộc Việt Nam. Đó là lịch sử phải được tính bằng ngàn năm với ba dấu mốc chính: 111 trước Tây Lịch, 1010 sau Tây Lịch và những
năm hiện tại của thiên niên kỷ thứ ba mà chúng ta đang sống, chứ không thể chỉ
bằng chục năm, bằng trăm năm như lịch sử bình thường. Nhìn như thế để chúng ta có thể thấy những điều
vô nghĩa mà nhiều người đã và đang làm. Nhìn như thế đế chúng ta có thể lạc
quan về tương lai của dân tộc Việt Nam qua sự hình thành của Cộng Đồng Người Việt
ở Hải Ngoại trong hai thế kỷ 20 và 21 này.
Sự hình thành của Cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại coi như thành
phần thứ hai của dân tộc là một cơ hội ngàn năm một thuở chúng ta có được, sau
khi người dân Việt Nam đã phải trải qua nhiều chục năm dài đầy chiến tranh, đau
thương, chết chóc và bất hạnh. Biến cố bi
thảm 1975 đã bẩy tung bà con chúng ta ra khắp thế giới để rồi sau ngót bốn mươi
năm bà con Người Việt Hải Ngoại đã định cư và thành công ở khắp năm châu, không
nơi nào là không có. Chúng ta đã không có được một lãnh thổ duy nhất, một chính
quyền chung nhưng chúng ta có những con người, có chung một lịch sử, một nguồn
gốc, đã ra đi trong cùng một hoàn cảnh, một thời điểm. Nói một cách khác, chúng
ta đã có một Siêu Quốc gia Việt Nam không có lãnh thổ, không có chính quyền, không
có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong lòng mọi người dân của nó. Một siêu
quốc gia như vậy thích hợp hơn với sinh hoạt quốc tế trong thời hiện tại, thời
mà biên giới giữa các nước đã mờ dần trước sự phát triển chung của cả nhân loại. Cũng nói cách khác, nếu trong thế kỷ 19, một
học sinh người Anh được học rằng “Mặt trời
không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh” thì khác đi một chút, kể từ thế kỷ 20,
một học sinh Việt Nam phải được học rằng “Từ
sau năm 1975, mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam
cư ngụ.” Người Tầu cũng có thể nói câu tương tự. Họ cũng hiện diện ở khắp nơi
trên thế giới nhưng vẫn không thể so sánh với người Việt. Lý do là vì người Tầu
bỏ nước ra đi là họ chọn tha phương cầu thực, do họ chọn lựa còn người Việt thì
không được chọn lựa. Sau ba chục năm triền miên đầy đau thương giết chóc với ít
ra là bốn năm triệu người đã bị hy sinh, nước mắt tràn ngập khắp Trường Sơn ra
tận Biển Đông. Họ đã bất đắc dĩ phải ra đi mà không biết sẽ đi đâu. Đến bây giờ
thì tự mình và với sự giúp đỡ của chính quyền và người địa phương, bất chấp những
sự dè bỉu, mỉa mai của nhà cầm quyền ở trong nước trong những năm đầu, các cộng
đồng Việt Nam ở khắp nới trên thế giới đã trở thành vững mạnh thực sự so với thành phần còn lại ở trong nước. Bổn
phận của chúng ta là phải bảo vệ và phát triển nó. Chúng ta không thể để cho những
người đang nhận sự giúp đỡ vô cùng to lớn của cộng đồng chúng ta, coi cộng đồng
chúng ta là con gà mái đẻ trứng vàng bắt nó đẻ nhiều hơn, đẻ mãi, lợi dụng và
giết nó. Chúng ta cũng phải lo cho chính chúng ta và con cháu chúng ta. Chúng
ta đang sống ở đây và sẽ chết ở đây. Con cháu chúng ta cũng vậy. Những thế lực luôn luôn gây bất ổn từ non bảy
mươi năm qua sẽ không tha chúng ta, không để cho chúng ta yên. Họ luôn luôn muốn làm chủ chúng ta rồi làm chủ
con cháu chúng ta như họ đã làm ở trong nước, bây giờ là Cộng Đồng Người Việt ở Hải Ngoại, cơ hội
ngàn năm một thuở của chung cả dân tộc, cơ hội sẽ đưa dân tộc ta thoát khỏi tình
trạng nhỏ bé và chậm tiến. Bất cứ hành động nào phá hoại Cộng Đồng Việt Nam Hải
Ngoại đều là một tội đại ác đối với dân tộc. Có điều họ sẽ bất cần, sẽ tiếp tục
như họ đã làm trong quá khứ như các năm 1954, 1975. Nhưng họ sẽ không làm gì được chúng ta. Chiêu
bài độc lập thống nhất không còn hiệu nghiệm nữa. Cộng Đồng của chúng ta đã vững mạnh và luôn
luôn được các nhà cầm quyền bản xứ che chở.
Chúng ta cũng đã có đủ mọi khả năng để tự mình đứng vững, nhất là kể từ
bây giờ, với sự phù hộ ngày đêm của Đức
Thánh Trần và bên cạnh Ngài là Chúa Liễu Hạnh. Chúng ta không cần phải có sự giúp
đỡ từ bên ngoài, nói trắng ra là từ những người này. Phạm Nhan đã bị chém đầu từ
bảy thế kỷ trước tuy vẫn còn lảng vảng khắp nơi để kiếm máu dơ của phụ nữ nhưng
y sẽ không làm gì được chúng ta vì chúng ta đã có Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh
luôn luôn hiển linh và che chở cho chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau giữ cho tượng
ngài quanh năm sạch sẽ và nếu có, hương khói lúc nào cũng nghi ngút, để trở thành
một thắng tích bất cứ ai ghé Little Saigon đều phải ghé qua để tỏ lòng tôn kính
ngài.
Để kết luận, tôi mượn chữ và ý của Nhà Văn Ngô Nhân Dụng[ii].
Chúng ta đã đứng vững ít ra là hai
ngàn năm và chắc chắn sẽ còn đứng vững
thêm nhiều ngàn năm nữa. Vấn đề là
do chúng ta. Chúng ta đã khơi lại được mạch sống của bảy trăm năm trước. Chúng ta có sống lại được với sức sống do tiền
nhân truyền lại cho chúng ta hay không? Điều
này tùy thuộc ở chính chúng ta. Chúng ta sẽ coi quyền lực, danh lợi tiền bạc của
cá nhân hay phe nhóm là trọng hay sự tồn vong của cả dân tộc là trọng. Đó là tùy thuộc chúng ta. Những người đang sống trên đất mẹ của chúng
ta xem ra khó mà làm được điều này vì dù có muốn họ cũng không làm được và không
được phép làm và cũng vì tất cả đều đã quá mòn mỏi, khô cằn,
nếu không nói là kiệt lực. Tất cả chỉ còn
trông cậy ở chúng ta và con cháu chúng ta.
Little Sàigòn những ngày chớm thu 2014
Phạm
Cao Dương