Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2014
Nguyễn Hoàng Văn - Ðiệu tranh đấu li-la
Tây ban
cầm đã hát ngọng giọng Tàu và “Lorca Nguyễn Văn Trỗi” của Phạm Thị Hoài [1] làm
tôi liên tưởng đến nhiều thứ: những kép đào hát bội-chèo-cải lương, lời văng
tục của nguyên Tổng thống Mỹ Bill Clinton, cảnh hội chợ lô tô náo nhiệt ở một
tỉnh nghèo miền Trung.
Một
cảnh Tết quê giữa thập niên 80, thời đói ăn và đói cả thông tin. Cái sân khấu
giữa chợ lòe loẹt những băng rôn đỏ sậm chữ vàng, lèo tèo những giải thưởng
nghèo nàn với dăm ba chiếc xe đạp, phích nước và đồ gia dụng linh tinh nhưng o
bế thật kỹ bằng những chùm giấy bóng hay dải băng kim tuyến xanh đỏ tím vàng,
rặt một thứ thẩm mỹ chợ quê.
Cờ ra
con mấy
con số gì đây
con số 15
anh Nguyễn Văn Trỗi
đi ra pháp trường.
Cờ ra con mấy
chớ con số gì đây
con số chưa ra
hội nghị tỉnh ủy
phát triển nông lâm.
Cờ ra con mấy
con số gì đây
con số gì đây
là con số 79
chị Võ Thị Sáu
mùa lê-ki-ma..
Gã hoạt
náo viên liến thoắng ứng tác theo những vòng quay: thêm một cặp chữ số bung ra,
thêm vài ba cái tên anh hùng liệt sĩ hay diễn biến chính trị địa phương xổ ra,
bập vào lỗ tai đám đông, trớt quớt và ngang phè, miễn là vần điệu xuôi tai,
miễn sao không vi phạm chính sách lập trường. Nhưng dẻo miệng cách mấy thì cũng
đến lúc phải đơ lưỡi lại mà cũng cần phải có thì giờ để tiêu thụ càng nhiều vé
càng tốt trước khi tung ra đợt xổ mới và, vậy là, đến phiên một ban nhạc chợ
quê hay, lòe hơn, một “nhóm ca khúc chính trị”, danh xưng thời thượng của ngày
ấy, tiến lên đảm trách nhiệm vụ khoả lấp “trong khi chờ đợi”. Điệu lô tô cây
nhà lá vườn im bặt để “âm nhạc hiện đại” thay chân, chọc thủng màng nhĩ đám
đông với tiếng trống, tiếng guitar điện chát chúa, chọc đi chọc lại cho
thoả công tập dượt cái bài hát cũng khá là thời thượng của ngày ấy:
Mặt
trời hồng trên cát nóng Es-pa-nha
Là tiếng đàn ghi ta của Lor-ca [2]
Tôi
muốn vẽ lại thật rõ mấy chi tiết ấy để thấy rằng việc dạy văn hay bình văn, qua
bài thơ của Thanh Thảo viết về “tiếng đàn ghi ta” của Federico García Lorca mà
học trò trung học tại Việt Nam đang è cổ ra học, thực chất, cũng chẳng khác gì
[3]. Văn chương, và giáo dục văn chương, của thế kỷ 21, cũng từa tựa cảnh “hội
chợ lô tô” của cái thời thiếu đói thông tin, chỉ cầu sao xuôi tai, cầu sao
thuận với ý nghĩa lập trường.
Kể ra
thì cũng xuôi thuận nhưng hãy tưởng tượng phản ứng của một người Tây Ban Nha
thành thạo tiếng Việt sau khi thưởng thức hết mớ hổ lốn những thơ nhạc, những
luận điểm phê bình – giảng văn ấy. Rồi hãy tưởng tượng tiếp cảnh người đó, sau
khi lơ mơ thưởng thức dăm tác phẩm văn chương hay âm nhạc Việt Nam thôi, đã có
thể… rửa hận Lorca, xắn tay thay đổi căn cước Nguyễn Du và vài ba hậu thế đời
sau. Theo lối này thì không chừng Nguyễn Du sẽ là một ông thầy cúng “tràn trề
lòng nhân bản” với “Văn tế thập loại chúng sinh”, Huy Cận sẽ là một ngư phủ yêu
nghề với “Đoàn thuyền đánh cá” và Hoàng Vân thì, may hay rủi, sẽ là một kiến
trúc sư, một kỹ sư xây dựng hay đen nhẻm như một anh thợ lò tùy vào việc ông
khách ngoại quốc kia vớ được “Bài ca xây dựng” hay vớ nhầm “Tôi là người thợ
lò”.
Có thể
vậy lắm, bởi nhân vật Lorca “nồng nhiệt cổ vũ nhân dân đấu tranh” trong sách
giáo khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam cũng được sản xuất tương tự,
không hơn không kém [4]. Nói như Phạm Thị Hoài thì Lorca đã là một thứ Nguyễn
Văn Trỗi Tây Ban Nha. “Anh Trỗi ta” ôm mìn, “anh Trỗi Tây” ôm guitar. “Anh Trỗi
ta” vang lừng khẩu khí “Hãy nhớ lấy lời tôi”, “anh Trỗi Tây” đau đáu ước nguyện
“chôn tôi với cây đàn”!
Là
thiên tài văn chương lỗi lạc của Tây Ban Nha trong thế kỷ 20, những biển núi
tài liệu về Lorca cho chúng ta biết rất nhiều điều về nhà thơ nhưng hoàn toàn
không hé mở một tí ti ánh sáng nào về “cây đàn tranh đấu” mà thế hệ học sinh
hiện tại của chúng ta đang gồng mình ra học.
Lorca
là một nhà thơ, một kịch tác gia mà, thuở ban đầu, có lẽ, từ ảnh hưởng của mẹ,
đã đến với thế giới nghệ thuật như một nhạc sĩ dương cầm và, cuối đời, giữa
đỉnh cao danh vọng, đã bị lực lượng phát xít Francisco Franco thủ tiêu, không
chỉ vì là nhân vật tiếng tăm có lập trường thiên tả mà còn vì cái giới tính thứ
ba. Như bất cứ một người Tây Ban Nha nào khác, Lorca có thể rất yêu và bày tỏ
tình yêu của mình với cây đàn guitar “quốc hồn”; thế nhưng, cả cuộc đời nhà
thơ, qua những tài liệu ngồn ngộn nói trên, không ai tài nào tìm thấy một
khoảnh khắc ở đó nhà thơ đã ôm cây đàn ấy, ôm như một nghệ sĩ guitar thực thụ
hay ôm như một chiến sĩ đấu tranh [4]. Xem ra, nếu xưa bọn phát xít, một cách
tàn bạo, lôi Lorca ra bãi bắn thì nay họ, những nhà văn chương – giáo dục Việt
Nam, đã, liều mạng, lôi Lorca vào… lò cải tạo.
Chỉ
bằng chút tài vặt, bằng một số vốn liếng hò vè cùng hiểu biết chính trị rất… cơ
bản của mình, gã hoạt náo viên lô tô có thể thoải mái nhét vào tai đám đông hội
chợ những thứ hầm bà lằng xuôi tai, miễn sao không vi phạm lập trường. Ca khúc
hay bài thơ viết về Lorca cũng vậy, cũng hình thành từ một vốn liếng văn hoá
rất cơ bản và một vốn liếng chính trị – lập trường cũng rất là… cơ bản. Phát
xít từng tấn công Liên Xô: rõ ràng, phát xít là kẻ thù của ta. Lorca bị phát
xít xử bắn: rõ ràng, trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai” này, Lorca là chiến sĩ cùng
phía với ta. Lorca lại là người Tây Ban Nha, xứ sở của môn đấu bò và, vậy là,
với những kiến thức rất ư là… đố vui để học, tha hồ mà… sáng tạo, hết “mặt trời
hồng – cát nóng” thì “vũ nữ Digan”, hết “áo choàng đỏ thắm” thì “áo choàng đỏ
gắt”, dễ dàng và thoải mái, chỉ miễn sao xuôi tai, chỉ miễn sao thoả đáng với
những tiêu chí cơ bản về chính trị lập trường.
Lorca
là người đồng tính, sinh thời người Tây Ban Nha đã biết điều đó và, cuối đời,
khi bị hành quyết, không chỉ bắn bằng súng mà cả bằng lời nguyền rủa “đồ đồng
tính”. Không biết có phải tuân thủ theo cái kim chỉ nam “KẾT QUẢ CẦN ĐẠT” mà Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã nêu trong sách giáo khoa là để “Thấy được vẻ đẹp bi
tráng của hình tượng Gar-xi-a Lor-ca” hay không, những nhà sư phạm văn chương
của chúng ta không chỉ uốn nắn giới tính nhà thơ mà còn phởn lên với cái yếu tố
“bi” rất tuồng qua việc bế vào tiểu sử của nhà thơ một “thiếu phụ Nam Xương”,
một vai nữ thủ tiết thờ… liệt sĩ:
tiếng
ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
(“Đàn
ghita của Lorca”, Thanh Thảo)
Thanh
Thảo chỉ lửng lơ “cô gái ấy”, nhưng các nhà sư phạm thì liều mạng hơn với bản
khai sinh đính kèm tấm bằng “tiết hạnh khả phong”: “Cô gái ấy: ở đây có thể chỉ
An-na Ma-ri-a, người yêu của Lor-ca. Sau cái chết của Lor-ca, An-na Ma-ri-a ở
vậy, không một lần lên xe hoa” [6].
Nghe
cảm động quá thế nhưng có lùng sục toàn bộ những biển núi tài liệu về Lorca
chúng ta cũng không thể nào tìm ra một bóng dáng mờ nhạt nào của người yêu thủ
tiết ấy. Bất quá chúng ta chỉ có thể nhận diện người bạn trung thành Anna
Maria, em gái của Salva dor Dalí, hoạ sĩ từng phụ trách mỹ thuật sân khấu cho
một số vở kịch của Lorca: sau khi được anh trai giới thiệu vào năm 1925, Maria
đã trở thành người bạn của Lorca cho đến khi nhà thơ bị hành quyết. Thế thôi,
và nếu có một “tình yêu” thì, oái ăm thay, đó lại là “tình trai” giữa chính anh
cô, Dalí, với bạn cô, Lorca.
Thật
không thể khôi hài hơn. Và không thể có một trò đùa nào… mô phạm hơn, đùa
nghiêm trang trịnh trọng trong sách giáo khoa. Từ các thư khố tối tăm, từ trong
các thư viện hay tài liệu cá nhân phủ bụi, mấy nhà “Lorca học” có thể… có
thể thế này, có thể thế kia với những giả thuyết khác nhau về mấy
hình bóng mập mờ lưu lại trong bản thảo, trong nhật ký, trong ghi chép lặt vặt
hay thư từ để lại. Đằng này thì một nhà thơ Việt Nam, với một vốn hiểu biết rất
lơ mơ về Lorca, phởn lên với một “cô gái” trong thơ và, thế là, những nhà giáo
dục của chúng ta đã vồ lấy như vồ một sử liệu mới được giải mật.
Những
tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la-li-la-li-la
(“Đàn
ghita của Lorca”, Thanh Thảo)
Bài thơ
mà các nhà sư phạm liều lĩnh đang nhét vào đầu học trò đã bắt đầu như thế để
rồi cũng kết thúc bằng tràng âm thanh li-la-li-la-li-la như thế nhưng lẽ
nào lại thế? Bắt học trò học những thông tin sai bét là một lẽ nhưng còn một lẽ
khác, quan trọng hơn, ở cách cảm thụ…. ngang phè.
Có thể
có nhiều mục đích khác nhau trong việc dạy văn mà, trong đó, quan trọng hơn cả,
là hướng học trò đến những cách cảm thụ tinh tế đối với thế giới tạo vật quanh
mình. Điều kiện cần của sự tinh tế là tính chính xác và điều kiện đủ là độ nhạy
của tâm hồn. Nếu sự chính xác là phạm vi của lý tính thì sự rung động của tâm
hồn thuộc về cảm tính. Nếu những lứa trẻ, từng bước và từng bước, được hướng
vào ngả đường cân bằng giữa lý tính và cảm tính, từng bước và từng bước thể
hiện những khả năng cảm thụ tinh tế trước những lay động trong âm thanh và sắc
màu của tạo vật, trong những va đập chan chát hay hòa quyện êm ái của ngôn ngữ
thì, dần dà, chúng cũng sẽ, từng bước và từng bước, hướng đến những nhận thức
xác đáng và hướng thiện đối với những biến động xã hội trước mặt mình. Cái lẽ
khác muốn nói ở đây là đó, là cách thẩm âm khó mà xem là chính xác và cách cảm
thụ khó mà gọi là tinh tế với “tiếng đàn” được thiết kế trong chương trình như
một bài ca bi tráng nhưng lại yếu xìu, lại mướt mát li-la li-la như một
tiếng sáo thanh bình.
Trên
phương diện âm học thì, cũng như bao nhiêu nhạc cụ khác, cây đàn của người Tây
Ban Nha cũng có những cung bậc căng chùng khác nhau của nốt La và những
chệch âm thăng-giáng, thế nhưng âm sắc đặc trưng âm sắc của nhạc cụ ấy khó mà li-la
li-la vần “L”. Cây đàn đó có thể t’rừm ‘trừm sôi động theo những
ngón Flamenco của Paco Peña, có thể rí ra rí rắc hoài niệm và suy
tư trong ngón trémolo của Francis Taréga hay Agustín Pío Barrios và, rộn
rã sôi động hay bồi hồi suy niệm, những hoà âm của guitar, khi rung ở tai người
thưởng thức, bao giờ cũng đọng lại ở chủ âm “R”. Mà, như tác giả bài thơ đã
tưởng tượng, tiếng đàn “bi tráng” đó còn gắn chặt với “áo choàng đỏ gắt”, là
tiếng đàn “ròng ròng / máu chảy”, tiếng đàn với “cô gái Digan”, nghĩa là đầy đủ
những yếu tố bắt chúng ta phải nghĩ đến âm hưởng bi ai và dữ dội của những tấu
khúc Flamenco t’rừm ‘trừm.
Kiểu
cảm thụ ấy, xem ra, cũng ngang phè như sân khấu hát bội giữ những tình huống bi
phẫn nhất, lúc người cầm chầu đã xắn tay sẵn sàng cho những hồi trống hùng
tráng giục giã như trống trận, lúc khán giả nín thở chờ đợi lời khẳng định “Như
ta đây” sang sảng trong khoảnh khắc phút chiến thắng oai hùng hay phút tuẫn
tiết không kém phần lẫm liệt anh hùng thì chỉ nghe lả lơi câu chèo ai oán tình
đời hay nhừa nhựa xuống sề câu cải lương với niềm đau hận tình trường.
Hát bội, như là sản phẩm của vùng đất của thời khai phá mở mang với âm sắc chắc
nịch Quảng Nam và Bình Định, cái thời phải chường mặt ra đối phó với những thử
thách chực nhấn mình chìm xuống nên, bất cứ giá nào, cũng phải ngửng mặt lên
khẳng định mình, dứt khoát, rắn rỏi “Như ta đây” chứ không lả lơi câu thái nhân
tình hay nhừa nhựa câu phẫn hận tình trường. Qua cái mục tiêu “thấy được hình
tượng bi tráng” nói trên, các nhà sư phạm văn chương nói trên vẫn tiếp tục cái
truyền thống “dĩ-chiến-đấu-vi-trung” của bộ môn văn học trong nhà trường xã hội
chủ nghĩa thế nhưng, ngay trong chính bài thơ li-la li-la nói trên, họ
đã nhét vào miệng kép chánh trên tuồng hát bội câu ai oán sụt sùi của vai đào
bi lụy trên tuồng chèo hay tuồng cải lương.
Bắt học
trò phải cảm nhận rằng cây đàn guitar hát giọng li-la li-la, mà lại li-la
li-la một cách bi tráng, là bắt các em cảm nhận sai. Sai về lý tính và sai
cả về cảm tính. Học những thông tin sai là học để dốt thêm. Học để cảm thụ và
nhận thức sai là học để ngu thêm. Học để dốt và ngu thêm như thế, quả là một
đường lối giáo dục khiến chúng ta, dẫu nhã nhặn đến mấy, cũng phải văng tục.
Và tôi
lại nghĩ đến lời văng tục của nguyên Tổng thống Mỹ Bill Clinton, bật ra trong
chuyến viếng thăm chính thức Trung Quốc năm 1997, cũng từ sự hoán chuyển trái
khoáy “L/R” [6].
Nhưng
tôi phải minh xác ngay rằng ông Clinton không hề văng tục mà đó chỉ là một
trong muôn vàn chuyện cười, những dirty jokes về ông giữa những ngày mà
cái tên Monica Lewinsky vẫn còn là một đề tài câu khách. Lời ấy, trong chuyện
cười, bật ra với phụ tá của mình trong chỗ riêng sau cuộc nhàn đàm với nguyên
Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân. Ông ta hầm hầm “Mẹ kiếp” và ông ta cáu bẳn
“Thằng nói láo khốn khiếp”. Ông ta tức giận vì cho rằng vị nguyên thủ nước chủ
nhà đã xem thường mình, đã bố láo bố toét với mình cái điều cả trẻ con cũng
không thể nào tin được là Trung Quốc dân chủ hơn cả Mỹ: nước Mỹ bốn năm mới bầu
cử một lần nhưng Trung Quốc của hắn thì, tối nào, cũng chuyện ấy một lần.
Nhưng
thực ra, trong câu chuyện chỉ để cười chơi đó, ông Clinton đã lầm. Cũng như cái
thời cha ông chúng ta phải tìm hiểu văn minh phương Tây qua sách vở Trung Hoa
nên đành phải nói ngọng “R/L” để nhà vật lý học (Maria) Curie phải đóng vai
“Cổ-lí phu nhân”, nhà tư tưởng (Jean-Jacques) Rousseau phải khăn đóng áo dài là
“Lộ Đức tiên sinh” và kinh thành Paris chết tên Ba Lê suốt một thời dài v.v…
Như bất cứ người Trung Quốc nào khác, họ Giang không thể nào thoát khỏi cái
ngọng của dân tộc mình nên “R” và “L” đồng một giọng như nhau và, vô hình
trung, câu hỏi về sinh hoạt dân chủ election của nhà lãnh đạo Mỹ lại bị
ông ta, giữa những tác động của truyền thông về một Clinton rất playboy,
đã tiếp nhận, đã hiểu như là hiện tượng sinh lý erection. Election là
bầu cử còn erection thì, nói văn hoa là “hứng tình”, nói nôm na là
“cương cứng” hay “ngỏng lên”, còn nói một cách thông tục là… “nứng cặc”. Nước
Mỹ dân chủ bốn năm “bầu cử” một lần và ông Giang Trạch Dân độc tài – cũng như
tuyệt bất cứ gã đàn ông Á Đông nào khác trừ… Hồ Chí Minh, luôn có khuynh hướng
phóng đại khả năng chăn gối của mình như một chứng chỉ của khí chất đàn ông –
đã tuyên bố không suy nghĩ rằng gì chứ chuyện ngỏng đầu lên đó thì ông ta rất
khỏe, đêm nào cũng khỏe.
Nếu election
là sức mạnh của nền dân chủ thì erection là sức chiến đấu của chuyện
sinh họat trên giường. Mười bảy năm trước chúng ta có thể cười sảng khoái, cười
văng nước miếng khi nghe chuyện “hiểu lầm” chỉ để cười chơi ấy nhưng bây giờ,
sau bao nhiêu sự kiện ngoại giao có thật và những chuyện tréo ngoe “R/L” có
thật, chỉ có thể cười đau, cười ngấn nước mắt với những niềm đau và nỗi nhục
rất thực với những lãnh tụ chính trị lẫn lộn dân chủ với chiếu giường.
Trước
khát vọng dân chủ election của nhân dân họ hành xử như những ông trùm
rất thạo việc… erection. Vênh váo, ngạo nghễ, họ dí buồi vào mặt hay mồm
của của nhân dân, dí như là kép chánh hát bội với vở tuồng “Như ta đây thắng
Pháp” và “Như ta đây thắng Mỹ”, xem như một thứ sắc phong có thể vượt qua và
giẫm lên trên ý nghĩa election. Nhưng khi đối mặt với những thử thách
đang chực nhấn cả đất nước mình chìm xuống, đối diện với những đối thủ nói
ngọng “R/L” thì thậm thụt, mềm nhũn như thể thứ đàn ông không thể… ngỏng lên,
không thể cương cứng cái giọng hát bội “Như ta đây” mà chỉ có thể ai oán, nỉ
non cáo giọng chèo – cải lương, hết ỉ ôi “bát nước đầy” Dương Lễ nỡ lòng xử tệ
Lưu Bình thì nhừa nhựa câu tình nghĩa chòm xóm anh em sao nỡ phụ phàng [7].
Trở lại
với bài thơ về Lorca. Như một nhà thơ, Thanh Thảo có quyền khác người, có thể
bắt cây guitar hát giọng li-la li-la và chúng ta có thể thấy ngược tai, có thể
không thích, có thể chê bai đủ kiểu nhưng đó là chữ của ông, là quyền của một
nhà thơ. Vấn đề ở đây là các nhà giáo dục. Vô tình hay cố ý, khi bắt học trò
phải cảm nhận cái tiếng sáo thanh bình li-la li-la ấy như một thứ “tráng
ca”, họ đã hướng các em vào một ngả đường cảm thụ sai, ngả đường ở đó các em sẽ
dần dà cảm nhận rằng những giọng chèo ỉu xìu than trách tình đời hay cải lương
bi hận tình trường cũng chẳng khác gì giọng hát bội lúc phải cương lên với lời
hịch “sơn hà nguy biến”.
Nhưng,
thực ra, nói là nói vậy bởi không cần phải gióng lên lời hịch, vì sự thể đã là
một thực tế rành rành. Có lẽ chưa bao giờ đất nước “nguy biến” như lúc này,
nguy với một hiện tại và một tương lai bấp bênh khi vận hành và phát triển trên
nền móng rất… liều. Chỉ qua bài thơ bi tráng li-la li-la này thôi đã
thấy rõ bóng dáng của một nền văn chương viết liều rồi một nền giáo dục dạy
liều. Mà, xét cho cùng, viết liều hay dạy liều, cũng là sản phẩm tất yếu của
một hệ thống cầm quyền với những chủ trương chính trị cực kỳ liều, liều đến mức
cực đoan, từ sự cực đoan của đầu óc hoang tưởng đến mức cực đoan của toan tính
thực dụng. Nó, như đã thấy, đã liều với cuộc phiêu lưu chiến tranh, ở đó sinh
mạng và tương lai của 30 triệu người bị mang ra đánh đổi cho mục tiêu thế giới
đại đồng của “ba ngàn triệu trên đời”. Và nó, như đang thấy, lại liều với cuộc
phiêu lưu mệnh danh “ổn định và phát triển”, cái cuộc phiêu lưu chẳng hề vì dân
số trên 90 triệu người mà chỉ phục vụ cho một phân số rất nhỏ, cực kỳ nhỏ, một epsilon
mang tên “nhóm lợi ích” đang ngồi xổm trên đầu, đang erection và
đang dí buồi vào mặt và vào mồm của 90 triệu người [9]!
24.9.2014
Chú
thích
[1]
Phạm Thị Hoài, “Lorca
Nguyễn Văn Trỗi”, pro&contra 19/7/2014[2] Bài
hát “Nếu tôi
chết, hãy chôn tôi với cây đàn”. Nhạc: Thanh Tùng. Lời:
Huỳnh Phước Liên[3]
“Đàn Ghi Ta của Lor-Ca -Thanh Thảo”, trong “Ngữ văn lớp 12 – tập một”, NXB Giáo
dục: 2009 trang 163-166. Tổng chủ biên cuốn sách này là Phan Trọng Luận, chủ
biên phần văn là Trần Đăng Suyển. Bài viết này dựa theo sách giáo khoa in năm
2009 (lần tái bản thứ nhất). Có thể tham khảo nguyên văn bài thơ “Đàn ghita của
Lorca” của Thanh Thảo trong bài “phê bình” của Bùi Công
Thuấn hay phát biểu của Thanh Thảo.[4]
Edward F. Stanton, “García
Lorca and the Guitar”, Hispania 58
(1), 1975[5]“Đàn
Ghi Ta của Lor-Ca – Thanh Thảo”, bđd, trang 163, chủ thích số 2.[6]
Bđd, trang 165, chủ thích số 1.[7]
Chuyện kể: Bill Clinton hỏi Giang Trạch Dân: “How often do you have election?”
(Bao nhiêu lâu thì ông tổ chức bầu cử một lần?). Nghĩ rằng Clinton là tay chơi
vì vụ tai tiếng Monica Lewinsky còn nóng hổi, Giang tưởng Clinton nhắm đến
chuyện phòng the, nghe “election” hiểu “erection”, nên trả lời: “Every night!”
Sau Bill Clinton chửi thề với phụ tá của mình: “Mẹ kiếp, thằng cộng sản khốn
khiếp, nước Mỹ chúng ta dân chủ nhất thế giới mà bốn năm mới bầu cử một lần,
độc tài như nó mà dám láo toét rằng đêm nào cũng bầu cử một lần.”[8]
Giọng điệu than trách khi xảy ra vụ giàn khoan, thí dụ: “Ai đang
hắt đi bát nước đầy?” (Kim Tuấn, Tiền Phong
28/5/2014) hay diễn văn của Đại tướng – Bộ trưởng Quốc phòng Phùng
Quang Thanh tại Diễn đàn An ninh Á châu Shangri-la tại
Singapore ngày 31.5.2014.[9] Thơ
Tố Hữu: “Ta vì ta ba chục triệu người / Cũng vì ba ngàn triệu trên đời” (Trích
“Miền Nam”, viết ngày 14.12.1963, in trong tập Ra trận)
© 2014
Nguyễn Hoàng Văn & pro&contra