Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2014
Võ Phiến - Lại thư nhà (kỳ 5)
Một cuộc vật lộn gay go và bất lực với số mệnh kéo dài suốt
nửa đời người như thế dần dần nhuốm một tính chất bi thảm, và người chứng kiến
không còn lòng dạ nào cười cợt nữa – dẫu rằng trong đó vẫn có ít nhiều khía
cạnh đáng cười.
Nhưng về phía những người vợ anh Bốn Thôi, tại sao tất cả –
chỉ trừ chị Lộc – tất cả họ bằng lòng lấy anh ta, rồi họ đều bỏ anh trốn đi một
cách vội vàng nhẫn tâm như vậy? Người chú Bốn Thôi có điều ngờ vực mà không bao
giờ ông chịu nói ra. Còn bao nhiêu người trong làng đều thắc mắc.
Tôi chắc chắn không phải những người đàn bà ấy thất vọng về
tính nết thực thà khờ vụng của Bốn Thôi. Về điều đó họ có bị lừa gạt gì đâu.
Không phải trước khi chịu lấy anh, họ không hiểu anh là người thế nào; cả làng
còn ai lạ gì anh, tất nhiên họ không chờ đợi một người chồng lanh lợi bặt
thiệp, tình tứ tao nhã. Như thế họ lầm gì? Mỗi người con gái nọ, một khi biết
mình lầm, tự nhiên lặng lẽ, không kèn không trống bỏ ra đi. Họ không hề hé răng
nói một lời nào để răn ngừa kẻ đến sau. Người ta bảo rằng đàn bà ít kín miệng.
Nhưng khi họ tỏ ra kín miệng, thì lại không phải là vì hảo ý.
Có điều lạ lùng là dẫu bị lầm, họ cũng không oán, và mặc dầu
bị bỏ rơi, bị làm nhục, người chồng cũng không lấy làm giận. Những người vợ ra đi
như thế làm cho cuộc đời anh Bốn Thôi càng lúc càng đen tối thêm. Người này đi,
người kia lại ra đi, sự đau khổ cứ diễn đi diễn lại mãi, mỗi lần như vậy anh ta
mỗi cảm thấy rùng mình như nhà thi sĩ nghe lặp lại cái câu tuyệt vọng não nùng
từ cửa miệng con quạ quái gở trong bài thơ kỳ quặc danh tiếng nọ, mặt anh mỗi
tối đi, đầu anh mỗi gục nặng xuống thêm nữa. Thật vậy, anh Bốn Thôi như càng
ngày càng cúi gục xuống, không đủ sức cất cao đầu lên nữa. Tuy vậy, dù gục đầu
anh vẫn cứ lùi lũi tới lui thăm viếng gia đình của các người vợ cũ. Mồng năm
ngày tết, các ngày cúng quải, anh vẫn lễ mễ khăn áo đến nhà các người vợ cũ làm
đầy đủ bổn phận của người rể ngoan, đến nỗi tất cả các gia đình đều thương xót,
ái ngại, đều cảm thấy như sự phụ bạc lầm lỗi của các người con gái dần dần trút
hết lên họ một cách nặng nề.
Mùa đông năm trước khi xảy ra cuộc khởi nghĩa 1945, bà Hai Hồ
gạt lửa để dưới giường nằm cho ấm; giường gãy, bà ta ngã lên lửa, vì vướng lúng
túng mền chiếu, không vùng dậy kịp thời, bị phỏng nặng. Ban đầu Bốn Thôi lui
tới mỗi ngày vài lượt, về sau anh ta phải ở lại nhà mẹ vợ suốt nửa tháng để chăm
nom thuốc thang, nấu cơm, giặt gỵa cho bà ta. Bốn Thôi lúc nào vốn cũng buồn
rầu và nghiêm chỉnh. Bởi vậy, sự tận tụy của anh, dù là trong khi anh làm những
công việc nhỏ mọn không xứng đáng với người đàn ông, cũng có vẻ khả kính. Anh
ta mến trọng, hầu hạ mẹ vợ, bất chấp sự khinh bỉ và mối ác cảm của làng xóm đối
với bà ta từ trước đến nay. Thái độ can đảm của anh ta lần lần rồi nâng cao bà
Hai Hồ lên ít nhiều trước con mắt người xung quanh.
Tất cả năm gia đình bên phía vợ cũ đều công nhận rằng một người
rể như Bốn Thôi thật là quí báu. Và bà tôi, sau khi lục soát khắp cái xã hội
mênh mông của “mọi lần” cũng lắc đầu, chịu rằng một nhân vật như vậy khó tìm
ra.
Các người nghiên cứu về tính dục ngày nay thường khi họ nêu
lên những điều rất nhảm nhí. Thậm chí họ phát giác ra có kẻ tìm thấy khoái trá
trong sự tiếp xúc, nâng niu những vật vô nghĩa lý thuộc về người đàn bà mình
yêu thương, thí dụ như cái khăn tay cũ, sợi tóc, một mảnh “tàn y” còn lưu hương
v.v..., những gì đã gần gũi người yêu và có thể “đại biểu” cho thân thể người
yêu. Họ cho đó là một biểu lộ bệnh hoạn của dục tình, như thể là một hiện tượng
bái vật trong sự tín ngưỡng.
Hỡi ôi! bà Hai Hồ có thể đem ví với một chút tàn y, một mảnh
áo rách không thơm tho mà gợi cảm ấy sao? Và thái độ trọng vọng thành kính trên
nét mặt rầu rầu nghiêm chỉnh của Bốn Thôi ấy lại có dính líu đến dục tình sao?
– Không còn có sự suy diễn nào nhảm nhí hơn.
Tuy vậy có một chút sự thực cần phải nói ra là quả tình Bốn
Thôi thường thường viếng thăm những gia đình vợ cũ không phải vì ân nghĩa, vì
tôn trọng những nề nếp lễ nghi phong tục đẹp đẽ. Sự thăm viếng chuyên cần mà
trịnh trọng như những cuộc hành hương ấy đối với tất cả năm gia đình nọ, có mục
đích ích kỷ. Nó xoa dịu sự khoắc khoải cô đơn của anh ta. Ra vào nhà cửa của
các người con gái đã mất ấy, tiếp xúc thưa gởi với mẹ cha chị em họ, tiếp tục đóng
vai trò người chồng họ, tẩm mình trong cái không khí thuộc về thế giới những người
vợ cũ như thế, Bốn Thôi cảm thấy mặt mũi mình bớt bị tối sầm lại, đầu óc bớt bị
trĩu gục xuống; anh ta cảm thấy một sự an ủi, anh ta như được thư thái hơn,
bình tĩnh hơn.
Thật là khắc nghiệt và thô lỗ nếu gán cho thái độ của anh
những danh từ đại loại như bệnh hoạn, dục tình v.v... khi anh chỉ muốn yên lặng
tìm một cảm tưởng an tĩnh. Người đời thiếu sáng kiến thường hiểu được thái độ
của những kẻ lánh đời bằng cách lênh đênh khắp ngũ hồ, mà không chịu hiểu cho
kẻ lánh đời bằng cách lẩn quẩn trong khoảng năm gian nhà vợ cũ.
Nhưng điều gì mà không ai chịu cảm thông với mình, Bốn Thôi
vẫn tin rằng nếu chị Lộc còn ở đời, chị sẵn sàng thông cảm. Sao chị lại không
biết đến tâm trạng của kẻ lẩn quẩn ở nhà vợ khi chị đã từng thấu hiểu được cả
cái tâm trạng của kẻ lẩn tránh sự cô đơn ngay trong lỗ mũi mình! Bốn Thôi tin
rằng nếu chị Lộc còn ở đời anh không đến nỗi thành một hiện tượng bí hiểm.
Nhưng ngoài chị Lộc ra, những người vợ khác, họ đối với anh
cũng như mọi người đối với anh. Họ không có sự thông cảm. Có lạ chăng chỉ là họ
đã xa bỏ Bốn Thôi mà trước sau vẫn không tỏ một ác cảm gì, một sự giận dỗi nào
cả. Một năm nọ, người vợ đầu tiên của Bốn Thôi trở về làng. Chị ta kể rằng đã đi
làm công ở một đồn điền trà trên Biển Hồ, chị đã có chồng khác và có con. Tôi
có được gặp người đàn bà nhỏ vóc, răng đen, và nước da vàng ấy, gặp vào hôm chị
ta tới thăm nhà Bốn Thôi.
Mọi người trong gia đình chị ta đều bảo là chị cần phải đến
thăm người chồng cũ. Chị ta nghe theo, thản nhiên. Khi họ gặp nhau, chị ta
nhoẻn cười, như thể là để làm lành, xin lỗi, mà cũng như thể là để khích lệ Bốn
Thôi. Tuy vậy, anh này vẫn cứ bẽn lẽn. Anh bẽn lẽn, khiến người ngoại cuộc có
thể nghĩ là trong việc người vợ bỏ nhà trốn đi trước kia, phần lỗi thuộc về anh
chứ không phải về người vợ.
Rồi người đàn bà bạo dạn chào hỏi chú thím Bốn Thôi. Họ hỏi
thăm nhau về sức khỏe, về tình hình mùa màng, về công chuyện làm ăn. Người đàn
bà lại kể với Bốn Thôi chuyện chị làm công ở đồn điền trà trên Biển Hồ, chị có
chồng khác, có con... Như thế, một lúc sau, họ vui vẻ, đề huề, tưởng không có
gì ngăn cản họ lại sum họp mãi mãi bên nhau.
Ðến một lúc, tự nhiên người đàn bà nhìn về phía bàn thờ, có ý
tìm kiếm một cái gì. Bà thím của Bốn Thôi nói:
– Năm ngoái ông ấy trông thấy bộ bình phong tam sơn này,
thích quá, nhất định mua về. Bộ cũ bán rồi.
Bà tưởng người cháu dâu cũng chú ý đến bộ đồ thờ bằng gỗ mới.
Ông chú nghe nói đến mình, tủm tỉm cười. Nhưng ông ta trông lại, và hiểu rằng
người cháu dâu không để ý đến bộ đồ thờ. Quả nhiên, chị ta vừa cười vừa hỏi:
– Cái đó... ở đâu?
Người thím hỏi:
– Cái gì?
Chị ta cười lớn hơn:
– Cục đất đó?
Trước khi chị nói ra câu ấy, Bốn Thôi đỏ mặt như gấc. Anh
hiểu sự tò mò của chị ta. Chị đã nghe người ta nói về cục đất có in vết chân
chị Lộc! Nhưng mà còn đâu nữa: lâu năm quá rồi, vết chân chị Lộc cùng với những
vết ngoe cua đã tan rã, trở về đất bụi rồi, còn đâu!
Người đàn bà nước da vàng vàng cười ngắc nga ngắc nghẻo. Rồi
chị ta vừa nói chuyện vừa giúp bà thím nấu dọn bữa ăn. Ba hôm sau, chị lại đi
Biển Hồ.
Ngay đến người đàn bà toe toét, dễ dãi ấy cũng vẫn cứ kín
miệng về chỗ lý do khiến họ xa bỏ Bốn Thôi. Vì vậy mà sau đó một người đàn bà
thứ sáu lại đến làm vợ anh ta nữa!