Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2014
Trần Vinh Dự - Song mã què và chú ngựa thứ ba
Tại thời điểm này, mặc dù kinh tế Việt Nam có vẻ đang ổn định, phần lớn người Việt, từ các chuyên gia kinh tế, các chủ doanh nghiệp, đến người lao động, đều có cái nhìn không mấy tích cực về triển vọng kinh tế ngắn và trung hạn của Việt Nam. Điều này ít nhiều mâu thuẫn với quan điểm của giới quan sát và đầu tư quốc tế. Khác với quan điểm chung của người Việt, nhóm này có cái nhìn tích cực một cách thận trọng. Hồi cuối tháng 7 vừa rồi Moody đã nâng hạng tín dụng của Việt Nam từ B2 lên B1. Trước đó không lâu, hồi tháng 1 cùng năm, Fitch Ratings cũng nâng đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam lên mức B+ với triển vọng tích cực.
Song mã què
Khu vực doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) vẫn là khu vực gây thất vọng lớn nhất trong toàn bộ bức tranh kinh
tế Việt Nam. Trong giai đoạn nhạy
cảm của kinh tế Việt Nam hiện nay, hai vấn đề lớn
nhất về DNNN tồn tại từ trước và vẫn không có tiến bộ gì là (a) sự tồn tại của
DNNN trên diện rộng và (b) mô hình quản trị và giám sát các doanh nghiệp này.
Việc giảm bớt số lượng các
doanh nghiệp nhà nước, chỉ giữ lại một số ít thật sự “tinh” và trong các lĩnh
vực thực sự cần thiết, là nhằm giảm tải việc quản lý và giám sát của nhà nước
đối với các doanh nghiệp này, và quan trọng hơn, để hạn chế gánh nặng ngân sách
phải dùng để tài trợ các khoản lỗ của khu vực này. Thế nhưng quá trình này vẫn
hết sức ì ạch, có lẽ vì 3 lý do chính: (a) quyết tâm chính trị chưa đủ lớn để
thắng được sức ỳ quán tính của các lãnh đạo DNNN, (b) tài sản chủ yếu của các
DNNN là đất đai, hiện nay không hấp dẫn vì thị trường bất động sản (BĐS) yếu,
và (c) nợ nần của các DNNN được đem ra cổ phần hóa nhiều, lợi nhuận thấp hoặc
thậm chí lỗ;
Điểm (b) và (c) khiến cho
việc bán các doanh nghiệp này dưới dạng doanh nghiệp (bán trọn gói, bao gồm cả
nợ) là thực sự khó, ngay cả bán dưới dạng tài sản (đất đai) cũng không dễ vì
thị trường BĐS đã thừa mứa nguồn cung, việc ôm đất vào tại thời điểm này không
giải quyết được gì (trừ khi mua rất rẻ).
Đổi mới mô hình quản trị và
giám sát DNNN theo hướng hiện đại và đúng chuẩn của thế giới không khó về lý
thuyết (vì các mô hình này đã có sẵn và đã được thực tế kiểm định nhiều nên các
ưu khuyết điểm của từng mô hình đều được bộc lộ rõ). Thế nhưng điểm khó khăn
nhất là việc đổi mới mô hình quản trị sẽ là tăng trách nhiệm của lãnh đạo DNNN
và tăng tính minh bạch của hệ thống (làm giảm lợi ích của lãnh đạo DNNN). Cả
hai vấn đề này đều dẫn đến sức cản rất lớn từ lãnh đạo DNNN. Ngay cả khi việc
thay đổi này đi kèm với cơ chế thưởng theo thành tích đủ lớn theo đúng
mức trên thị trường thì khả năng rất cao là cũng vẫn phải thay phần lớn lãnh
đạo DNNN bằng những nhân tố mới, vì thế vẫn sẽ bị nhóm này chống đối quyết
liệt.
Trong khi đó, mặc dù kinh
tế vĩ mô tương đối ổn định trở lại trong gần 3 năm qua, khu vực tư nhân vẫn
chưa có những tiến bộ đáng kể. Tình trạng chung ở phần lớn các doanh nghiệp tư
nhân vẫn khá ảm đạm. Đây là giai đoạn không thể tránh khỏi vì các sai
lầm chết người của khu vực tư nhân trong các năm trước (giai đoạn phát triển
quá nóng), thể hiện chủ yếu ở: (a) vay nợ quá nhiều, cơ cấu nợ trên tổng tài
sản quá lớn, quá rủi ro, vì thế cần thời gian để deleverage (giảm nợ)
và thời gian này chắc chắn không nhanh được; và (b) mở rộng công suất bừa bãi,
dẫn tới tình trạng thừa công suất trong nhiều ngành (với những ngành
xuất khẩu thì không đáng lo, nhưng những ngành hướng vào tiêu dùng nội địa thì
cần nhiều thời gian để nhu cầu tiêu dùng nội địa bắt kịp).
Các cam kết quốc tế về tự
do thương mại sắp đến giai đoạn phải triển khai (thí dụ như AFTA 2015) sẽ còn
làm môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam khắc nghiệt hơn rất
nhiều so với hiện nay. Đáng tiếc là nhà nước có rất ít dư địa chính sách để giúp
được khu vực tư nhân trong ván bài khó khăn này.
Chú ngựa thứ ba
Theo Tổng cục Thống
kê,
khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là khu vực giữ được sự tăng
trưởng ổn định ở hầu hết các lĩnh vực. Số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên
phạm vi toàn quốc thời điểm 31/12/2013 là 9093 doanh nghiệp, gấp 6 lần năm
2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 mỗi năm tăng xấp xỉ 16%. Tổng số vốn của
khu vực doanh nghiệp FDI sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh thời điểm
31/12/2013 là 3411 nghìn tỷ đồng, gấp 14,2 lần năm 2000, bình quân giai đoạn
2000-2013 tăng 22,4%/năm. Doanh thu thuần năm 2013 của khu vực doanh nghiệp FDI
là 3138 nghìn tỷ đồng, gấp 19,4 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013
tăng 25,3%/năm.
Cũng theo Tổng cục Thống
kê,
lợi nhuận trước thuế năm 2013 của khu vực FDI đạt 248 nghìn tỷ đồng, gấp 11,5
lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 tăng 15,4%/năm. Đóng góp vào ngân
sách Nhà nước của khu vực này năm 2013 là 214,3 nghìn tỷ đồng, gấp 9 lần năm
2000, bình quân giai đoạn 2000-2013 tăng 18,1%/năm.
Khu vực FDI được coi là khu
vực năng động và hiệu quả nhất. Chỉ số quay vòng vốn (tính bằng doanh thu trên
vốn) của khu vực FDI cao hơn các khu vực còn lại, chỉ số này của khu vực FDI
năm 2013 đạt 0,9 lần (năm 2000 là 0,7 lần), trong khi khu vực DN ngoài nhà nước
là 0,7 lần và thấp nhất là các DNNN chỉ có 0,5 lần. Hiệu suất sinh lợi trên vốn
và trên doanh thu của khu vực FDI cao hơn nhiều so với các khu vực còn lại, cụ
thể hiệu suất sinh lời trên vốn và trên doanh thu của khu vực FDI năm 2013 đạt
7,3% và 7,9% trong khi khu vực DNNN đạt 3,2% và 6%, thấp nhất là khu vực DN
ngoài nhà nước với 0,8% và 1,2%. Thu nhập bình quân một lao động một tháng năm
2013 đạt 6,6 triệu đồng, thấp hơn mức 9,6 triệu đồng của khu vực DNNN, nhưng
cao hơn mức 5,1 triệu đồng của khu vực DN ngoài nhà nước.
Mặc dù khu vực doanh nghiệp
FDI chiếm tỷ trọng không cao trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp về các chỉ tiêu
như số doanh nghiệp, lao động, vốn và doanh thu, nhưng khu vực này lại chiếm tỷ
trọng cao về lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước. Năm 2013 các doanh nghiệp FDI
chiếm tới 45,4% tổng lợi nhuận và 30,5% tổng số nộp ngân sách nhà nước của toàn
bộ khu vực doanh nghiệp.
Như thế, xét về tương quan
không khó hiểu tại sao khu vực nước ngoài đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam
lạc quan hơn khu vực trong nước. Tuy nhiên, cỗ xe tam mã sẽ không thể chạy tốt
khi 2 trong 3 chú ngựa kéo xe đang là những chú ngựa què. Việt Nam không thể
chỉ dựa vào khu vực nước ngoài để kéo nền kinh tế hồi phục.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét