Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014
An Phú Vang - Rơi trái ấu thơ
Nguyên một khu đất rộng mọc toàn
cỏ lau. Bên này là đường Nguyễn Du, bên kia Lý Thường Kiệt. Nơi đường Đống Đa,
dọc theo đường rầy xe lửa người ta họp lại mua bán và biến thành chợ từ lúc
nào. Buổi sáng có những gánh hàng rong, gánh chè, xôi bắp, bún mắm. Khoảng gần
chín giờ sáng, những người bán cá biển mới đánh về mang đến những cá những tôm
còn tươi rói lên từ hải cảng. Bốn năm giờ lại có cá chợ chiều. Thế đó chợ họp
suốt ngày. Thế đó chợ có tên là chợ Đống Đa từ hồi nào.
Nhà
ba mẹ tôi ở xóm Thuận Lập B, gồm những gia đình nằm trong khu vực bao bởi đường
Nguyễn Du, Đống Đa, Gia Long, và Lê Lợi. Vào trong xóm có mấy con hẻm, nối liền
đường này với đường kia. Hẻm lại chia những ngõ cụt. Nhà bác tôi ở cuối cùng
một ngõ cụt như thế bên cạnh nhà ba mẹ tôi.
Có
hôm đang học bài, bác bảo chị Út sang kêu tôi ra giúp ai đó. Tôi đi ra thì bác
chỉ hai cô nhỏ, mặc áo dài trắng, đang cố nổ máy chiếc xe Honda. Hai cô đi lộn
đường nên dính vào cái ngõ cụt. Chiếc xe gắn máy không thương lại dở chứng. Thế
là hết cô này đến cô kia thay nhau mà trị chiếc xe.
Bác tôi chỉ hai người đó, nói tôi
ra giúp. Tôi đâu biết gì về xe với cộ nên gọi tôi làm cho chiếc xe nổ máy là
trật đường rầy. Tôi đứng ngó hai cô. Họ đứng ngó tôi. Tuổi mới lớn tôi cù lần
thế đó.
Một lần ai đó chạy xe sang nhà
tôi. Cũng xe gắn máy nhưng chiếc xe này ngoan. Nó không nằm vạ làm khổ chủ
nhân. Chủ nhân đây là cô nhỏ có mái tóc demi-garcon, từ lớp sáu đã nổi tiếng
xinh. Hôm nay người đã học lớp chín. Người dừng xe trước sân, hỏi có em người
sang chơi. Tôi ngu như gì. Gặp người mừng lắm nên quên hết mỗi ngày mình vẫn
chạy ngang con đường nhà người ở để mong gặp mặt. Dì tôi thấy tôi đứng ngớ ra,
nhắc nhỏ con mời bạn vào chơi. Tôi bỏ vở bước ra hiên nhà. Vừa đi vừa trả lời
câu hỏi của người: “Cu không có ở đây.” Nghe xong người cám ơn rồi quay đầu xe
đi về.
Tôi
đứng ngó theo mong sao cho xe tắt máy như chiếc Honda của hai cô nhỏ đi lạc.
Nhưng không, xe của người chạy ngon ơ. Mới vài phút đã khuất khỏi căn nhà cuối
ngõ cụt.
“Ai vậy con ?”
Dì tôi hỏi dò.
“Dạ bạn con.”
“Dễ thương quá hí.”
Điều này tôi biết mà. Đi học trên
trường tôi nghe tụi nó to nhỏ hoài.
Thuở
trung học miệng tôi như bị ai dán băng keo. Thường ngày tôi vốn ít nói nay lại
càng nói ít những khi có dịp gặp cô nhỏ. Tôi biết người học lớp nào, biết thời
khóa biểu, và biết để không có cảm tình mấy với những tên học lớp lớn hơn vẫn
theo người. Tôi cù lần tập tễnh làm thơ, phải vần phải luật loạn cả lên nhưng
chẳng là gì cả. Những bài thơ mà nay đọc lại chính tôi cũng chẳng hiểu nổi tôi
muốn nói gì lúc đó. Cũng may tôi không ở trong thi văn đoàn nào để bạn bè xúm
lại khen nhau. Nghe khen mãi rồi tưởng thật để coi trời bằng cái cốc cà phê!
Thuở đó nếu tôi dám gởi cho người đọc
những gì viết nắn nót trên giấy mà chữ không được đẹp, không biết số phận những
bài thơ quờ quạng đó cũng như tác giả sẽ đi về đâu. Đi về đâu cũng được nhưng
lạy trời đừng bị chuyền tay đám con gái trong lớp học. Tụi nó mà đọc rồi ghi
chú là tôi hết đường “đi vào văn học sử.” Mà vào đó để làm gì mà sao người ta
quan trọng đến thế.
Nơi
tôi sinh ra: “Thành phố có con sông không
chạy vòng mà thẳng. Có nắng đoản hậu mùa hè, gió bấc lạnh thấu... mùa đông. Đạp
xe vòng vòng mười lăm phút hết. Nhưng anh theo em về xưa cũng mệt quá chừng. Em
đạp xe mini chiều đi đâu chở gió. Cho áo lộng đôi tà thiên hạ rớt xa xa. Em tóc
demi-garcon của thời anh rất lạ...” giờ chắc đổi rồi như trường trên đường
Lê Lợi, trường bên kia Thống Nhất.
Thuở đó người đâu biết người là
số một. Kết quả bầu cử ngầm của đám mới lớn. Thế nào đó tụi trường nam biết rồi
chuyền tai nhau. Tôi nghe và biết đường mình theo dài cả dặm. Số một ở trường
nữ kéo sau lưng thêm những hàng dài áo trắng. Số một đúng nghĩa chứ không phải
số một mà đàng sau chẳng có ai là số hai!
Thi lục cá nguyệt xong, thầy giao
cho đứa đứng đầu đem kết quả về làm vị thứ. Tôi bị dính. Thằng nhỏ trịnh trọng
mang xấp bài thi Lý Hóa của thầy Nguyễn Tòng cùng Thành Tích Biểu cả lớp về
nhà. Trước khi sắp hạng tôi sẽ khoe với mẹ và dì tôi để vòi tiền thưởng. Rạp Kinh Đô đang chiếu
Đường Sơn Đại Huynh. Được tiền tôi sẽ rủ bạn bè đi coi thằng Lý Tiểu Long. Có
“chai mặt” lắm tôi cũng không dám mở miệng hỏi người vì đối với đám con gái,
lúc đó Lý Tiểu Long hay Lý Tam Cước đâu là cái quái gì. Ham chơi bóng rổ tôi gởi
thằng Cu em người xấp học bạ và bài thi của lớp. Nó có cái cặp to chứa không
hết đồ lẩm ca lẩm cẩm của tuổi mới lớn. Không biết sao thằng này lại khoái để
trái cây dầm chua và ô mai trong cặp. Chắc chắn không dành cho nó rồi mà để cho
người nào đó. Mục này tôi chưa biết vì... của mình chưa đến mức đó. Đi học về
mới thấy bóng dáng người bên kia đường là tôi mừng. Mừng lắm! Chuyện khác...
thằng nhỏ chưa dám nghĩ đến. Tôi lại ngại nhờ bạn bè thân làm quân sư. Biết đâu
có thằng cũng thương thầm trộm nhớ người thì “ô hô ai tai.”
Chơi xong bóng rỗ thằng em người
quên gởi lại tôi xấp học bạ. Nó mang luôn về nhà. Thế đó có người tò mò coi thử
cái lớp này nó ra sao? Kéo nhau đi đánh lộn thì bên Phan Chu Trinh thầy giám
thị đã nhẵn mặt. Thôi để coi hình, coi vị thứ và coi luôn lời phê của giáo sư
phụ trách môn học. Cái hình chụp từ những ngày bắt đầu thi đệ thất tôi còn dùng
cho bốn niên học sau! Tôi nhìn thấy ngố lắm nhưng kệ miễn sao thầy phê ngon
lành trong thành tích biểu là ăn tiền... của mẹ và dì! Tiểu sử học đường của
đám lớp tôi và những tên hay qua lại trước ngõ nhà người vì thế được soi dưới
kiếng hiển vi của đôi mắt đẹp. Có đứa con nhà giàu, đẹp trai, học giỏi và không
giỏi. Có đứa “thông minh” nhưng không chăm chỉ. Có đứa sao nhìn hình không
giống bên ngoài. Hy vọng tôi không bị
phán “hắn hay theo... hoài”.
Về sau tôi để ý đến Việt Văn hơn
toán. Tên người bắt đầu bằng chữ B. Tên tôi là A. Ngày nào tôi viết được thư,
trong đó có đoạn “a cọng b bình phương thành... [ (a + b)2 = a2 + 2ab + b2 ] có lẽ tôi
chọn ban văn chương khi lên trung học đệ nhị cấp. Tôi sẽ gởi bài cho Tuổi Hoa
hay Tuổi Ngọc rồi thừa thắng xông lên lập luôn thi văn đoàn xóm nhỏ! Cũng may,
thầy dạy Việt Văn của lớp, một nhà thơ nhà văn có bài đăng ở các tạp chí Sài
Gòn đã “dìm” tôi xuống, để hôm nay tôi mới “nổi” lên được với cái truyện chẳng
ra đầu ra đuôi này! Thầy cũ của tôi mà đọc được bài viết hôm nay chắc tôi ăn
hai con “trứng vịt” tròn vo.
Miền Trung đã có những tháng mưa
dầm mưa dề. Đứng dưới mái hiên lợp bằng tôn, nghe mưa dồn dập tôi chẳng muốn đi
đâu; chẳng muốn làm gì mà cầu sao cho mưa ướt hết đầu tóc được hớt ba phân để
làm ... thi sĩ. “Chiều mưa bay nghiêng
chút niềm riêng đây đó...” hay “Có
con chim sẻ trên đầu ngọn cây. Vỗ cánh chim bay qua cái nóc nhà. Mái thấp lợp
tôn mưa ồn thức giấc. Có gì tràn đầy như đất nước xa...” Qua nhà người tìm
mượn cuốn tập chỉ là cái cớ. Tôi đứng dưới mái hiên nhìn mưa và nói gì đâu.
“Mưa Sài gòn, Mưa Hà Nội” không biết sao chứ mưa thành phố tôi lúc đó vui lắm.
Ít ra khi mưa trúng ngay bữa lang thang mà không biết đi đâu. Qua lại con đường
quen, tìm cớ ghé vào để mong gặp mặt... Em người cho mượn cái áo che mưa của ai
đó trong gia đình. Cái áo màu trắng, chắc chắn không phải của nó vì tôi bận vào
ngắn trên đầu gối, hai tay áo bám sát lấy tay mình. Áo của con gái rồi. Về đến
nhà cởi ra mới biết áo của người. Tôi mừng run, mất ăn mất ngủ rồi nấn ná không
muốn mang trả áo sớm như dự định. Đến khi em người sang đòi áo “để chị đi học”
tôi định nói mất rồi. Để mua đền cái khác nghe! Cái áo đó có gì đâu mà theo tôi
đi gần hết vòng trái đất sau này dầu rời trường rời lớp rời thành phố chưa lần
trở lại. Có gì mà khi “Áo ai cho mượn
không đủ che hạt nước trời nên rét lạnh ngày sau.”
Chiến trận đã xoay chiều. Lệnh
đôn quân được thông báo hàng ngày trên đài phát thanh. Tôi gần đi rồi. Đi lính!
Lần cuối qua thăm người đứng ở cửa sau hỏi nhỏ.”... Học như rứa mà răng phải
đi!” Thì ra người biết hết. Thằng Cu là gián điệp. Học bạ gởi nó ngày nào là
bằng chứng. Tự nhiên tôi nghe nao nao trong lòng. Tôi đứng nhìn con bé. Ánh
điện vàng phía sau không soi rõ mặt nó nhưng tôi tìm được đôi mắt sáng, đẹp
nhưng buồn. Tôi không trả lời được câu hỏi. Xa xa là cánh đồng cỏ lau tôi từng
lăn lộn những ngày ấu thời. Khi đó người còn ở đâu ngoài Huế, chưa thả những
giọt nắng vàng nhẹ xuống hồn tôi. “Gọi em
là mưa trên đầu ngọn núi. Nước mát lòng khe uống nhé yêu thương. Gọi trên
Trường Sơn tên trong trí tưởng. Nay núi mai rừng đi giữ quê hương...”
Thằng bạn còn ở nhà báo tin người
chết! Thư còn nhiều nữa những trách móc thân tình nhưng tôi không can đảm đọc
hết. Đôi lần có phép trở lại thành phố cũ, ở tuổi mười chín, tôi thấy mình lạ
hẳn với đời sống. Gia đình còn lại của người cũng xuôi về Nam. Mấy đứa trong
đám bạn càng ngày càng xa. Tôi ở tác chiến chỉ có một đường về như thơ của người
thầy dạy Việt Văn: “Thưa me, thưa me con
đã trở về. Nằm trên xe lăn từng vòng xót xa. Thưa me, thưa me con đã về gần.
Dầu chẳng còn đôi chân. Thưa me, thưa me con đã về thăm. Xin giữa quê hương một
chỗ yên nằm. Xin một bóng cây lên trên phần mộ. Một lần là trăm năm.” * Cũng may
không chết.
Thôi chào xa thành phố thân yêu
chào xa nơi người yên nghỉ. Ngày em đi xe tang chạy ngang đường Thống Nhất,
chết máy trước cổng trường. Người ta nói em nuối thầy cô bạn cũ. Em đâu biết
tôi nuối em những ngày nắng núi mưa rừng. Những tối nhìn xa xa thấy đèn vàng
thành phố. Những lần bâng khuâng nghe ai nhắc đến Nam Ô. “Đà Nẵng nhớ về thấp thoáng có người hỏi lần cuối bên hiên. Sao bỏ mà
đi, bỏ lớp, bỏ trường, bỏ ngày nắng mới.”
Thôi chào căn nhà có ai tóc ngắn
nơi tôi một lần rơi trái ấu thơ.
Tháng Giêng,
2001
* Thơ Đông Trình