Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014
Võ Phiến - Thương Hoài Ngàn Năm (Tiếp theo và hết)
Nửa
đêm hôm đó trời mưa to. Bạch nằm trên chiếc chõng nhỏ dựa sát vách, cách bếp
lửa ba bốn thước. Chỉ có mình nó ngủ ở gian nhà bếp. Mưa ào ào vây bọc xung
quanh, làm tắt câm hết những tiếng động của sinh hoạt gia đình, làm cho mỗi người
trong nhà cảm thấy hoàn toàn cách xa, tách biệt với những người khác.
Ðêm nay nằm giữa nước mưa tuông xối bốn bề, người con gái
chợt để ý và thích sự cách biệt đó. Cảm thấy thực sự hoàn toàn riêng cách, nó
lại thấy yên tâm và ấm cúng hơn lúc nào hết. Bạch vẹt những sợi tóc hai bên má,
nghiêng mình yên lặng nằm nhìn ngọn lửa chập chờn xung quanh cái nồi bầu nấu
cháo cho heo ăn. Ánh sáng rung rinh nhảy múa trên thân hình nở nang của người
con gái. Bạch vẫn không chú ý đến một đôi chỗ hở hang: ống quần tụt cao lộ hai
cổ chân no tròn, nút cổ bật khuy... Miệng nó hé ra lơ đãng, hai mắt ươn ướt.
Tiếng mưa bên ngoài càng ồn ào dồn dập bao nhiêu, Bạch càng
thấy tăng thêm rõ ràng cái cảm tưởng được che chở yên tĩnh bấy nhiêu. Nước đã
chảy tràn lan khắp vườn, quanh hè. Không có gió thổi nhưng các dòng nước đổ
mạnh nghe ồ ồ khắp tứ hướng, thoạt mới nghe tưởng như có gió thổi rất gấp.
Bạch quay nhìn hàng nước mưa tuôn như một bức rèm sáng từ mái
tranh buông xuống để ngăn đón cảnh mưa gió bên ngoài khỏi lấn tràn vào. Nó kéo
chiếc chiếu quật đắp lên mình, không phải vì lạnh mà để có cảm tưởng được kín
thêm.
Cho đến ngày thành một thiếu nữ được yêu thương, Bạch vẫn cứ
lẻ loi. Chỉ những lúc được ở riêng một mình nó mới thấy yên dạ, và hưởng một
cảm giác gần như sung sướng. Chỉ những lúc bị bỏ rơi, nó mới cảm thấy mình thực
sống trong không khí quen thuộc, trong cái không khí của mình. Thường mỗi tối
bà Nghĩa vẫn nằm một nơi, ông Nghĩa một nơi riêng, và từ ngày bị Hồng chỉ trích
Bạch ngủ một mình duới nhà bếp. Mỗi người vẫn không ngó ngàng đến cảnh sống của
nhau. Nhưng trong đêm mưa, Bạch có cảm tưởng càng được đưa lui tách ra ngoài
cuộc sống chung lộn với kẻ khác, đưa xa hơn những ngày thường. Và cuộc sống tâm
tình của Bạch thức dậy như những con ốc chỉ chờ khi nước hết xao động mới dám
dần dần hé miệng thò chân ra cử động.
Ban chiều, khi khập khiễng về nhà, Bạch chỉ nhớ các sự khó
chịu: bực mình, xấu hổ, bối rối..., và những câu chế giễu:
– Bà con trông thấy ra sao? Cô ôm cậu ngồi trên tảng đá, tình
tứ lạ!
– Thằng Ðang coi vậy mà khôn: chỉ ngã một cái mà nên chuyện.
Bây giờ mới lần lần hồi lại trong trí Bạch những xúc động
luống cuống tê mê lúc người con trai áp sát đầu vào ngực nó. Lần đầu tiên đứa
con gái bị động chạm tới chỗ thân mật. Cho đến bây giờ, đêm khuya, Bạch tưởng
như đầu anh con trai vừa mới rời mình tức thì. Bạch vừa nôn nao những rung động
ham muốn, vừa thấy dạt dào mối cảm thương dịu dàng. Nó nhớ cặp mắt mở ngơ ngác
hoảng hốt nhìn lên mắt nó, những giọt nước đọng trên hai hàng lông nheo, trên
hai bên mép có lông măng lún phún. Nó nhớ cặp môi mỏng và đỏ, cười vụng về.
Ðang không phải là một gã con trai đẹp đẽ. Trong khi cúi đầu
liếc nhìn lên, Bạch lại còn thấy gã có vài nét ngớ ngẩn, khiến nó không khỏi
mỉm cười. Nhưng lần này nó không gặp sự lỗ mãng. Nó bắt được cảm xúc của anh
con trai. Nó nghĩ đến cánh tay gầy yếu của anh ta. Và tất cả khiến nó thấy lòng
xôn xao dịu dàng.
Mắt người con gái mờ đi, thiết tha, hướng về một đối tượng vô
hình, trong lúc nó vẫn đăm đăm nhìn như ngây dại về phía hàng nước mưa sáng
lóng lánh giăng từ mái nhà xuống giọt. Tiếng nước đổ đều đều ào ào làm cho Bạch
chìm vào cảm giác đê mê triền miên. Nó đuổi theo những mơ tưởng táo bạo: nó
trông thấy mình sát bên Ðang, theo chân người con trai, đi theo mãi, xa hết cửa
nhà làng xóm, gần bên nhau riêng một nơi, sát bên nhau trong yên lặng đằm thắm
không lời. Nó không mơ tưởng nói năng gì với nhau cả. Chỉ có yên lặng bên cạnh
nhau, và xa hết mọi người.
Trận mưa chấm dứt lúc nào không hay. Sự vắng vẻ thình lình
làm Bạch sực tỉnh. Tiếng nồi cháo sôi bên giường nổi lên ạch ạch. Nồi cháo nấu
cho heo ăn bốc lên từng luồng hơi nóng. Luồng hơi phất ngang qua đầu và mặt
Bạch rồi bay thoát ra sân, lảng vào đêm tối.
Người con gái rời khỏi giấc mơ, nghe tiếng bò húc nhau tông
vào những cây róng trong chuồng, tiếng móng chân con chó đi lại quẹt trên mặt đất
ngoài hè... Bạch như đang từ xa vụt quay về khung cảnh sinh hoạt của mọi ngày.
Bạch cựa mình, khép hai cánh tay trước ngực, nhắm mắt lại,
nghe chạy khắp mình một cảm giác vừa đau mỏi vừa khoái trá tê mê. Những xôn xao
vừa rồi bắt đầu tan xóa đi như không có duyên cớ gì quan trọng.
Ngoài đồng, từ khắp nơi dâng lên tiếng ếch nhái kêu vang. Mặt
đất mát mẻ thở ra sự khoan khoái nhẹ nhõm.
Trời
đã mưa một đêm, đêm sau lại mưa. Cứ thế luôn một tuần.
Ban ngày, trong khi làm lụng với mọi người Bạch vẫn lặng lẽ,
chịu đựng, gần thản nhiên như chẳng có việc gì xảy ra. Ánh sáng ban ngày và sự
có mặt của kẻ khác làm tiêu tan những mộng tưởng hão huyền. Trước mọi người,
Bạch thấy sự mơ ước của mình là lố bịch, nó không có gan tiếp tục nghĩ đến Ðang
trước kẻ khác.
Nhưng đêm đến, những đêm mưa mùa hè làm cho trời đất mát mẻ
và vây kín Bạch trong những giờ lẻ loi cô tịch, Bạch lại triền miên sống với
các ao ước viễn vông. Những trận mưa đối với nó gần như bao giờ cũng đem lại
cảm tưởng sung sướng: những khi nó chặt cây giữa núi, gặp mưa, nước rơi lộp bộp
trên nón lá, xối xuống hai vai, nó co rúm lại nhìn ra núi rừng mịt mù, vừa lo
hãi vừa cảm thấy một sự thích thú kỳ lạ được biệt tịch giữa cảnh rầm rộ dữ dội.
Nước thấm vào quần áo, chảy từng dòng len lách trên da thịt, hòa với mồ hôi và
hơi nóng trong người, bốc ra cái mùi thân mật của thân thể mình. Nó thu người
lại trong bụi, nghe tiếng mưa đổ, ngửi mùi nước lạnh, mùi hơi mình kín đáo
phảng phất, nhìn nước bắn trên đất trên lá, nhìn vớ vẩn, cảm thấy mình lẻ loi hơn
bao giờ hết. Nó mong cho những phút ấy kéo dài mãi.
Và chỉ trong yên lặng cô độc như thế người con gái mới tự
thấy mình nở ra như hoa lan nở trong đêm khuya.
Trong các đêm mưa nó dám bạo dạn nghĩ đến chuyện bỏ nhà theo
Ðang. Cha mẹ cửa nhà thì đối với nó có là gì đâu? Nó có quyến luyến cái gì đâu?
Sao nó lại không bỏ ra đi được? Nó trông đợi một dịp, trông được quyến rũ, được
gọi là sẵn sàng đi ngay. Ðêm này qua đêm kia Bạch nằm mơ ước đón nhận một dấu
hiệu, một lời nhắn để chạy theo. Ðang là cô gái thực thà lạnh lạt, nó vụt biến đổi,
hóa ra thiết tha sôi nổi, ăm ắp một thứ tình cảm nồng nàn mãnh liệt.
Nhưng bảy đêm đã qua, những cảnh mơ ước tưởng tượng vẽ ra trong
trí thành những cảnh quen thuộc. Dấu hiệu đợi chờ không bao giờ đến. Bạch thất
vọng. Bỗng nhiên nó nghe mẹ nó nói đến chuyện đổi lúa giống ở nhà học Thạch.
Khi chiều, trong lúc ngồi rửa chén ở ngoài giếng, nó nghe mẹ nói chuyện với người
bạn về chuyện ấy.
Nếu thực ngày mai đi đổi lúa giống, thế nào nó cũng gặp Ðang.
Nó sẽ nói gì? làm thế nào? bày tỏ những gì với anh ta? Nó không dự tính gì hết,
nhưng nó cảm thấy chắc chắn nếu nó gặp được người con trai lần này thì thế nào
anh ta cũng hiểu được ý nó. Cử chỉ, dáng bộ của một kẻ muốn hiến dâng tự nó sẽ
nói ra. Sẽ tìm ra cách thức bộc lộ riêng.
Tuy
ở cùng một làng nhưng đã lâu lắm Bạch chưa đến nhà học Thạch. Hồi còn nhỏ nó đã
theo Ðang và lũ trẻ nhỏ kéo nhau vào nhà ông học chơi. Nhưng từ khi lớn lên, và
nhất là từ hồi bà học mất đi, cô con gái ông học đi lấy chồng, nhà ông chỉ còn
một người đàn ông với cậu con trai thì Bạch không có dịp lui tới. Ngày nay Bạch
vẫn thường gặp ông học Thạch chăn bò trên gò hay treo chim cườm trên núi, nhưng
khi bước chân vào cổng nhà ông học Bạch vẫn ngại ngùng, có cảm tưởng tiếp xúc
với một gia đình hoàn toàn khác gia đình mình, ở một tầng lớp cao hơn.
Thực vậy, tất cả những gì còn lại thuộc về tiếng tăm dòng dõi
của ông học Thạch đều ở trong ngôi nhà. Bước ra khỏi nhà, ông học không mang
theo trên dáng dấp phong thái mình vẻ gì nho nhã sang trọng cả. Ông chỉ thường
mang theo một cây sào dài, một cái lồng chim và rất nhiều ghét với mồ hôi. Ít
khi bắt gặp một ông học Thạch sạch sẽ. Cơ hội ấy chỉ gặp hoặc một năm, hoặc hai
năm, hoặc ba năm một lần. Ðịnh kỳ ấy dù dài dù ngắn cũng không đáng quan tâm, điều
quan trọng cần chọn lựa là phải tắm vào ngày tý và tránh ngày mẹo, để được
nhiều người thương yêu và tóc khỏi bạc trắng. Thuật giữ gìn sắc đẹp và đắc nhân
tâm của ông học căn cứ theo sách vở:
“Tý nhật dục
linh đa ái
Mẹo nhật dục
linh bạch phát.”
Dầu ba năm tắm một lần thân thể cũng không hư hỏng. Nhưng
quần áo lại khác. Bởi vậy có nhiều khi ông mặc một bộ quần áo mới may, lúc ông
sực nhớ, thay ra cho giặt cơm lần đầu thì quần áo đã nát rã.
Sự nhớp nhúa ngoại hình chưa đủ làm mất hết cốt cách của một
người nho học. Nhưng về tinh thần thì ông học Thạch lại cũng thích xem vật lộn
hơn là thơ phú. Xưa ông ta có đi thi, nhưng không đậu nổi tú tài. “Học sanh”
không phải là một bằng cấp, một học vị, nhưng cũng là một vinh dự ở thôn quê.
Thế mà nhắc đến hồi còn trẻ ông không màng nhắc tới chuyện học hành. Ông thích
nhất là được nhắc lại cái thành tích quăng nổi hòn đá lên cao bằng ngọn dừa cao
nhất trong làng. Tất cả sáu mươi lăm người trong đám bạn học của ông hồi đó
không có một ai tranh nổi ông về sức mạnh của hai cánh tay. Mỗi lần nhắc đền
chuyện ấy, học Thạch chúm chím cười. Ông giải thích: cánh tay ông có nhiều gân
và gân tốt thượng hạng.
Do chỗ sùng thượng gân, ông học Thạch có nhiều cảm tình với
môn chơi vật. Theo ông, vật lộn là cách hay nhất để thử thách sức mạnh gân cốt,
tức sức mạnh nói chung của con người. Hồi còn trai, học Thạch là vô địch trong
vùng về môn vật tay. Mãi tới già ông học vẫn còn thích xem và cổ võ người khác vật
nhau. Trẻ chăn bò thường mời ông làm trọng tài các đám vật.
Cũng vì cái cảm tình với thứ gân tốt thượng hạng mà học Thạch
nuôi bò để chọi nhau. Ðó là một lối chơi kỳ quặc, tốn kém, tai hại. Những cuộc
chơi chọi bò do ông tổ chức đã làm cho nhiều đứa trẻ chăn bò bị chủ đánh đuổi:
một con bò chọi nhau bị gãy sừng, tét đầu, bị trật bả vai, có khi chạy chữa tốn
bạc nghìn.
Chọi bò là say mê lớn nhất, ngoài ra còn độ năm bảy thú vui
nhỏ: nuôi chim mồi, rập đa đa, xem hát bộ, câu cá, câu ếch, đánh ủ v.v... Thỏa
mãn bấy nhiêu sở thích mất đi rất nhiều thì giờ, nhưng trọn đời học Thạch có
cái may là không có sự bận rộn nào ngoài sự bận rộn giải trí. Hồi sinh thời bà
học coi hết việc nhà, từ việc cấy hái cày bừa cho đến việc cơm nước vá may. Ông
học hiểu nỗi khó nhọc của vợ lắm, và khi nào có cơ hội ông liền tỏ thái độ biết
ơn. Ðang thơ thẩn ngoài vườn rình tìm một con sóc để bắn, ông học bước vào gọi
vợ:
– Bà!
Bà học đang xay lúa ngừng lại nhìn lên:
– Gì vậy?
– Tôi lo quá!
Bà sắp sửa tiếp tục xay, hỏi thêm:
– Ông mà lo cái gì, trời ơi!
Ông học điềm nhiên trả lời:
– “Một lo con bò trắng răng,
Hai lo kẻ thấp không bằng người cao.”
Bà học quặt một tay ra sau, đánh bạch bạch vào chân ông mấy
cái, kêu lên:
– Quỷ! Quỷ! Trời ơi, có đi chỗ khác mà chơi không? Ðể cho người
ta làm việc.
Ông học cười chúm chím, bước đi. Gia đình học Thạch cứ như
thế sống trong hạnh phúc đầm ấm. Một người đàn ông tinh quái mà lêu lổng như
thế tại sao lại là cha của Ðang, một gã con trai thực thà, ngơ ngác, vụng về và
ham học? Nhiều lần chính ông học Thạch cũng ngắm nghía vẻ mặt thật thà, nhìn
vành tai mỏng và nổi lên những đường gân máu đỏ của Ðang, và ông ta cười chúm
chím như thấy trong đó một cái gì ngộ nghĩnh. Ðến khi vợ chết và đứa con gái đi
lấy chồng thì tuy bề ngoài ông học vẫn điềm nhiên, nhưng bên trong lắm lúc có
những lo khổ chơi vơi. Cho tới năm mươi tuổi ông mới cảm thấy lần đầu tiên cái
cảm giác bơ vơ giữa cuộc đời, miếng cơm manh áo không người săn sóc. Ðiếu thuốc
ông hút khi lớn khi nhỏ, khi đậm khi lạt thất thường, khi nhồi vào ống điếu đất,
khi quấn bằng nửa lá thuốc áo, khi được rút từ trong bao giấy có dán tem nhà đoan.
Hũ mắm nhà ông khi đầy khi vơi, có khi hết sạch. Lu muối nhiều lúc không còn
một hột. Ông rập được con chim cườm đem về mổ ruột, Ðang phải chạy sang nhà bên
cạnh xin một nhúm muối sống đem về giã với ớt, hai cha con ướp nướng, và ngồi
xổm bên bếp xé đôi con chim chia nhau mỗi người một nửa.
Sau này, tuy Ðang được cấp học bổng, học hành, đậu đạt, ông
học Thạch vẫn cứ xuềnh xoàng, nhớp nhúa, tin chắc là sự hôi hám nhớp nhúa của
ông với tiếng thơm của gia đình chẳng can hệ gì tới nhau. Ông học không có cái
dáng điệu oai phong khiến cho ai đến phải ngần ngại rụt rè. Nhưng vẻ nhà của
ông ta khiến Bạch bỡ ngỡ.
Ngôi nhà chữ môn thật lớn lại đứng giữa đám ruộng, lúa tràn
sát đến chân hè sau. Nhà bên tả xiêu chồm tới đến nỗi mái tranh trước sa thấp
xuống, người vào phải cúi đầu. Nhà giữa có một hàng cổng chận ở trước, mỗi cây
cổng vuông độ một tấc rưỡi mỗi bề. Nhìn vào nhà tối om om, sâu rộng mênh mông.
Hè nhà và bờ lề sân trước dựng toàn đá ong, những tảng đá ong
cũ kỹ đen thui. Lúa non mọc lơ thơ ở mép sân và mọc cả trên mái nhà. Ðầu sân có
ba cây mì kỳ quặc, trồng đã mấy mươi năm, gốc cây to bằng bắp vế. Và sát hè nhà
có một cây thuốc rất xanh tốt, cao gần đến ngang mái.
Cái gì uy hiếp tinh thần của Bạch, làm nó xúc động? Sự suy đổ
của một cảnh nhà bề thế trông bi thảm và lố bịch như con đại bàng gãy cánh?
Cảnh tịch mịch, cảnh sân hè to rộng mà vắng vẻ?
Tự nhiên Bạch chơi vơi. Hình ảnh của Ðang mất đi vẻ thực thà,
mà lại thấp thoáng một khía cạnh bí mật xa xôi đối với nó. Mỗi bước tiến đến
gần chỗ ở của người con trai đột nhiên mỗi thêm hồi hộp khó khăn.
Ông học Thạch đang ngồi lúi húi trước hiên với cái lồng chim.
Nghe bước chân người lạ, ông quay mặt ra rồi lại quay vào. Nhưng Bạch vừa bước
lên hè, đặt gánh lúa xuống, thì ông học liền lên tiếng nói, không nhìn nó:
– Con Năm đó hả? Chạy ra bếp múc cho bác gáo nước đi. Lẹ đi
con.
Bất giác Bạch liếc mắt ngó vào phía trong hàng cổng, nhìn tận
vào trong nhà; nhưng cửa đóng, nó không thấy được gì. Nó bước vào bếp, ngó
quanh quất: không có ai cả. Trên một chiếc chõng tre có cái mũ trắng đã cũ vất
ngửa. Bạch hồi hộp, đi quanh về phía cửa hông, nhìn lên nhà trên: trong khoảng
tối om, một lỗ trống trên vách đất bằng miệng chén để lọt ánh sáng vào làm nó
hoa mắt. Nền nhà dưới của ông học lại sạch sẽ khác thường và rất mát chân. Vò nước
để ở sân sau, nhưng Bạch tìm mãi không trông thấy cái gáo. Chợt ông học lên
tiếng kêu:
– Năm! Không tìm được vò nước à?
– Cái gáo bác để ở đâu?
– Hả?
– Cháu không tìm ra cái gáo.
– Gáo thì ở vò nước, chứ còn ở đâu?
– Không có trong vò.
– Thế thì đừng tìm trong vò! Hì hì... Mau lên cô!
Học Thạch cười hì hì trước hiên. Bạch vừa bắt gặp cái gáo
trong bát nước, bên cạnh bếp lửa. Lúc nó cầm gáo nước ra thì học Thạch đã bỏ
chiếc lồng chim, ngồi khoanh tay gác trên đầu gối, chờ nó.
Ông ta vừa cầm gáo nước đổ vào cái chén sứ buộc trong lồng
chim vừa hỏi Bạch:
– Ðổi lúa giống phải không?
– Dạ.
– Ai bảo đi đổi?
– Mẹ cháu.
Ông trao gáo nước lại cho Bạch, mắt không rời lồng chim,
miệng cười ranh mãnh nhẹ nhàng. Có thể như là cười vu vơ không cớ, lại có thể
như là cười về cái nghĩa riêng mà ông ta thấy trong hai tiếng “mẹ cháu”.
Ông học Thạch treo lồng chim xong, quay lại nhìn Bạch. Lần
này Bạch có cảm tưởng ông mới vừa thực sự trông thấy mình. Và nó bối rối vì
hình như ông ta ngừng mắt hơi lâu, để ý đến cách ăn mặc của nó với một vẻ ngờ
vực và giễu cợt. Cái nhìn của ông ta nửa như muốn nói: “Sửa soạn một tí thế
này, con bé coi ngộ đấy chứ”, nửa như tự bảo: “Hừ! Phải có cái gì đây cô mới
làm đỏm. Rồi ta cũng biết, không giấu nổi đâu.” Bạch mặc cái áo cụt trắng vải
tám mới giặt và quần săn đầm đen. Ánh mắt giễu cợt của học Thạch chiếu vào nó
gay gắt như lục soát. Mặt nó lần lần đỏ nhừ lên. Nó thấy lâu quá cái nhìn của
ông học. Hình như ông ta muốn kéo dài những phút ấy, theo dõi sự thẹn thùng cuả
nó; nhưng không phải nó thẹn nữa, nó sắp phát khùng. Nó quay ngoắt lại, đi
xuống bếp, thả mạnh cái gáo vào trong vò, vùng vằng, vừa giận sự thô lỗ của ông
già, vừa giận bộ đồ mình đang mặc. Ðồng thời nó hoàn toàn thất vọng: Ðang đi đâu?
Anh ta đi đâu? Vô ích hết những sự chuẩn bị, ăn mặc, suy tính của nó rồi! Qua
khuôn cửa sau bếp, nó trông thấy một khoảng ruộng lúa xanh mơn mởn dưới nắng
sáng, trông thấy lúa xanh gợn xao động dưới gió. Nó đứng lại, mím môi, nhìn ra
ngoài đồng trống, nhè nhẹ thở ra một hơi dài.
Ông học Thạch lại kêu lên:
– Năm!
Bạch giật mình, mừng rỡ, hy vọng một sự bất ngờ may mắn. Nó
trở ra hè thì học Thạch đang bốc trong gánh của nó một nắm lúa, bỏ vài hột vào
miệng ăn trắc và hỏi:
– Ba trăng hồng, phải không?
– Dạ phải.
Ông học vãi nắm lúa vào gánh, đứng lên, vừa đi vào nhà vừa
nói:
– Rồi mày về nói lại với mẹ đem lúa trắng qua đây tao mới đổi.
Tao không ăn gạo đỏ đâu, nghe chưa?
Ông học đi chậm chạp,
mỗi bước chân cất lên thì ở chỗ mắt cá phát ra một tiếng “cắc” nho nhỏ. Bạch
nghe tiếng chân ông học bước vào phía nhà lẫm, rồi dừng lại. Nó phân vân, không
biết có nên bước theo để nài ông học đổi lúa cho không. Nhưng ông ta lại kêu:
– Năm!
– Dạ!
– A! Cái con nhỏ! Vô đây!
Ông học Thạch cười hì hì trong nhà lẫm. Bạch bước vào. Ông ta
chỉ cái cà tăng lúa:
– Trèo lên xúc lúa ra. Cô chờ tôi xúc cho cô à! Hà hà!
Cà tăng cao quá. Bạch nhắc một cái ghế đẩu đem tới đặt một
bên để làm bực thang trèo lên. Lúc nó gác được một chân lên miệng cà tăng còn
một chân lơ lửng, hai tay bấu vào lúa cố trườn lên thì học Thạch đưa tay đỡ
mông Bạch xô lên. Khi thả tay ra, ông ta úp bàn tay vỗ vào mông nó một cái, cười
hì hì. Bạch vùng vằng quay lại thì ông học đã cúi xuống lượm cái thúng vứt lên,
không hề chú ý đến nó.
Bạch xúc lúa đưa xuống, ông học đứng dưới, bợ thúng đổ lúa ra
nong. Hai người vừa làm vừa trò chuyện:
– Ðổi mấy vuông lúa?
– Ba vuông.
– Ba vuông! Mẹ mày thích lúa ba trăng lắm à! Gieo ở đâu nhiều
vậy?
– Gieo... không biết đâu!
– Bên mày sắp mua con bò Pháo của Hai Thông phải không?
– Phải.
– Bao nhiêu?
– Bốn nghìn ba.
– Hì hì... Ba nghìn rưởi tao không thèm. Bò Phú Yên, cổ chân
to tổ mẹ, chậm như rùa. Lông to nữa. Mẹ mày thì biết gì... Nầy! hôm nay rằm, mẹ
mày có đi chùa không?
– Có.
– Mẹ mày khéo tu lắm, rồi sau thế nào cũng được lên nát
bàn... Nhưng mà Năm! Tao hỏi cái này!
Bạch ngẩng lên nhìn ông học, nhưng ông ta đang cúi xuống đất
lượm cái thúng. Lúc đưa thúng lên, chợt thấy vẻ mặt chờ đợi của nó, ông học
nhoẻn cười hỏi:
– Xã Bá nó làm nhiều chuyện ác đức, tao chắc kiếp sau nó sẽ
bị đầu thai làm con trâu đen, không theo lên nát bàn được đâu.
Xã Bá tức là lão lý trưởng làng An Quý. Bạch đã hiểu ông học định
đi tới đâu, nó vừa cúi xuống xúc lúa vừa mỉm cười như xí xóa câu chuyện. Nhưng
ông học tiếp tục:
– Ðố mày đoán ra rồi mẹ mày sẽ làm cách nào?
– Thôi đi ông!
– Rồi chỉ có ông Phật là khổ, ngày nào cũng bị mẹ mày níu áo đòi
cho xuống trần trở lại. Hề hề.
– Thôi ông!
– Hừ! mà mẹ mày đã đòi thì phải được. Nếu không mẹ mày dám
xỉa vào trán ông Phật ấy chứ lại. Hề hề...
– Ủa, cái ông này!
– Chứ không à? Nửa tháng không gặp xã Bá thì dù Phật có trụt
xuống nhường tòa sen cho, mẹ mày cũng không thèm ngồi nữa là. Hề hề! Về hỏi lại
mẹ mày coi... Này! (ông ta vứt lên thêm một cái thúng nữa) Xúc luôn hai thúng
rồi đưa xuống luôn một thể.
Lúc Bạch bưng hai thúng lúa đầy chồng lên nhau, khom xuống đưa
cho ông học thì ông ta đưa tay ra mà không chịu đỡ lấy. Ông ta vừa cười vừa
nhìn lên mặt Bạch để xem mặt nó đỏ dần lên như gấc.
– Mày mạnh lắm. Thử chịu coi được bao lâu.
Bạch run run hai tay, cố gắng gượng người lên, thu hai thúng
lúa trở lại. Nó bật cười nói:
– Bác đừng giỡn.
Rồi nó bưng trao cho ông học từng thúng một.
Ông học bảo:
– Thôi. Ðủ rồi. Ra đi, cô.
Bạch quay lưng lại, tay níu vào miệng cà tăng, đưa chân xuống
tìm cái ghế. Ông học một tay cầm lấy chân nó đặt lên ghế, một tay lại phát vào
mông nó, rồi mạnh dạn đưa tay vào xa hơn. Nó rùng mình, thả tay rớt mạnh xuống.
Miệng cà tăng bị đè gãy răng rắc. Ông học cười hì hì đưa tay đỡ Bạch đang loạng
choạng muốn ngã.
Lúc Bạch đứng vững ông vẫn cười vui vẻ, và toan quay lưng bước
đi. Bạch nhìn thẳng vào mặt ông ta, vẻ sừng sộ.
Ông học chợt thấy nộ khí trên vẻ mặt nó, dừng lại một chút,
ngạc nhiên, rồi tiếp tục cuời hì hì, vẻ nhẫn nại khoan thứ. Trông như muốn bảo:
“Ơ! Giận đấy à! Con bé mới dở người, khờ khạo chứ!”
Vừa bước tới chỗ nong lúa ông ta vừa gọi Bạch:
– Thôi thôi, mau lên một chút cô Năm. Khiêng ra, khiêng ra,
nóng nực lắm.
Hai người khiêng nong lúa ra ngoài, vào bao vào gánh. Xong
xuôi, ông học mau mắn hỏi Bạch:
– Mày biết làm thịt ếch không?
– Chịu thôi. Chặt đứt đầu nó còn chấp tay lạy, cháu không dám
đâu.
– Mẹ kiếp mày. Thôi thì đi nấu cơm. Lo đổi lúa cho mẹ mày từ
sáng tới giờ tao còn nhịn đói, thấy không? Thạp gạo ở nhà lẫm, mày vào lấy hai
lon đem vo, bắc lên bếp đi.
Bạch lại giật mình. Lòng nó rộn lên, khấp khởi. Tại sao lại
hai lon gạo, hai phần ăn? Ðang đi đâu sắp về chăng? Ði câu hay đi núi? Nó tưởng
như ông học đã nhìn suốt ruột gan nó, trông thấy sự mừng rỡ của nó, nên nó vội đi
ngay vào bếp không dám dò hỏi thêm một câu nào.
Ông học làm thịt ếch xong, đem vào bếp nấu. Có một lúc ông ta
bảo Bạch đi lên nhà trên, bới đống cát vun dưới bàn thờ thổ công, lượm lấy vài
củ hành. Một mình đứng giữa gian nhà tối mờ mờ, mát lạnh, rộng mênh mông, giữa
những cây cột to tướng và đen bóng, những tấm liễn cẩn xà cừ cũ kỹ, những tấm
liễn đã rách mướp, giữa mùi tàn hương và ẩm mốc lạnh lẽo, Bạch lo sợ chơi vơi,
thấy mình bé nhỏ hèn mọn, đối với Ðang thật xa cách vô cùng! Lòng nó thắt lại.
Nó nhìn quanh quất. Ánh nắng dọi qua cái lỗ trống bằng miệng chén trên vách đất
chiếu thẳng xuống một tấm phản gõ, trên đó bỏ bừa bãi vài ba quyển vở, một
chiếc mền màu đỏ đã cũ không được xếp. Bạch đứng lặng lẽ nhìn những thứ đó,
lòng nôn nao cảm động.
Nó đứng sững sờ, chợt nghe tiếng ho của học Thạch, vội vã
chạy lại bàn thờ lấy củ hành. Trước khi rời căn phòng tối, nó còn quay lại tấm
phản, nhìn một lần chót như từ biệt một người đang nằm ngủ.
Bữa cơm nấu xong, Bạch phập phồng chờ đợi, để ý thái độ của
ông học Thạch. Ông học ngồi vào mâm và gọi ngay Bạch lại. Nó thất vọng và hoảng
hốt. Té ra người ăn thứ hai được dự định là nó chứ không phải Ðang. Nó vội vã
từ chối, vì sự thực nó đã ăn sáng rồi. Lần này nó buột miệng nói:
– Cháu tưởng nấu hai chén gạo là để bác với anh Ðang...
Học Thạch cười hì hì:
– Thằng Ðang hả? Nó đi rồi, Tết mới về. À. Hôm nọ mày ngã
trên khe Ðá Mài phải không? Hì hì... Năm, ngồi đây ăn cơm thêm với bác.
Giọng ông bỗng thân mật như giọng nói với con cháu. Rồi vừa ăn
ông vừa nói chuyện về Ðang, khoe anh ta học giỏi thế nào, một ông tham tá công
chánh thương anh ta ra sao, hứa nuôi anh ta học thành tài ra sao... Vì câu
chuyện đó Bạch không cáo từ ra về được, phải ngồi ăn với ông học. Bạch nghe ông
nói, vừa xôn xao, vừa lo ngại, không hiểu ông nói vậy là dụng ý thế nào.
Sau nửa bữa ăn, hết những chuyện về Ðang, ông học lại bắt đầu
có những câu nói và cái nhìn giễu cợt, tinh quái, khiến Bạch vội và nhanh hết
chén cơm rồi xin đứng dậy trước.
Thôi, thế là hết. Nửa năm nữa người con trai mới về làng mấy
ngày. Nửa năm nữa, sau mấy phút gần gũi ngẫu nhiên! Lòng nó thoang thoảng một
thứ buồn rất nhẹ nhàng. Không ngờ khi sự thực đã phơi bày rõ ràng nó lại ít đau
khổ như thế! Hình như là không có sự gì quan trọng vừa xảy ra cả. Nó đứng dựa
cửa, nhìn ra đồng, chờ ông học ăn xong.
Trong
khi ông học ngồi uống nước, xỉa răng trong nhà, Bạch bưng chén dĩa ra giếng
ngồi rửa. Trước mặt nó, mấy con gà chạy tới chạy lui, tranh nhau những hột cơm đổ
trôi theo nước; một con gà mái vàng mổ lên lưng con con gà choai và rượt nhau
chạy la oác oác giữa đám môn bạc hà. Bạch vừa rửa chén vừa lơ đãng nhìn theo đàn
gà, có cảm tưởng mọi sự vẫn yên lành, và sự có mặt của nó ở nhà học Thạch lúc
này chẳng có gì quan trọng, cả những ước mơ lo lắng bồn chồn ngày hôm trước như
cũng chẳng hề có bao giờ. Lòng nó dịu hết mọi xôn xao. Nó làm việc, gần thản
nhiên như mình có thể là một phần tử trong gia đình, từ trước đến nay vẫn sống
như dâu con trong nhà ông học.
Gió đồng thổi mát. Làm những động tác dễ dàng quen thuộc, tai
nghe tiếng chén dĩa va lách cách – những tiếng cũng quen thuộc – Bạch thấy người
thư thái. Nó cất tiếng hát nho nhỏ những câu hát hò, hát hết câu này đến câu
kia. Bỗng tai nó chú ý đến giọng mình hát:
“... Tóc mai sợi
vắn sợi dài
Kết duyên chẳng đặng
thương hoài ngàn năm...”
Giọng nó trầm trầm, bùi ngùi, đầy tình cảm, khiến tự nhiên nó
mủi lòng. Nó hát lại lần nữa, chú ý lắng nghe giọng mình và thấy ngực bỗng nóng
lên, hồi hộp. Cái gì gợi nên xúc động ấy? Nhịp hát buồn bã? Hai chữ “thương
hoài”? Cái gì? Có lẽ tại cái giọng, chỉ tại cái giọng. Nó thương giọng hát cuả
mình và cảm động tới muốn khóc. Giọng hát bùi ngùi ấy khiến người nghe hình
dung một cái cổ tròn đầy đặn, một nét mặt bình tĩnh và xa xôi. Nó hát lại lần
nữa: “Tóc mai sợi vắn sợi dài...” Giọng hát càng thấm thía tình cảm.
Và nước mắt nó tuôn ra. Càng hát nước mắt càng tuôn rơi từng
giọt từng giọt, khiến nó tối tăm mặt mũi. Nó thương cảm tiếng hát của mình. Nó
tự nhiên bắt gặp mối cảm xúc ngay trong giọng hát như một sự tình cờ. Nó ngạc
nhiên đối diện cảm xúc của chính mình và cảm động theo, như thể một người đàn
bà dự đám tang thấy tang quyến khóc thảm thiết quá không cầm lòng được. Ðàng
này tất cả tâm hồn nó là người dưng thản nhiên dự đám rồi bị lôi cuốn theo, chỉ
có giọng hát của nó cất tiếng than khóc mà thôi.
Ban đầu trong ngực nó cuồn cuộn nóng, dồn tức, khó thở. Nó
thổn thức. Rồi dần dần sự khó chịu dịu xuống và tiếng hát đem lại một xúc động
êm đềm...
Một lát sau, chén rửa xong, nó giật mình, ngắt tiếng hát,
chùi nước mắt, nhìn lên khoảng đồng ruộng xanh trước mặt. Nó đứng dậy, bưng mâm
chén vào nhà. Học Thạch ngồi trước hiên, nhìn theo với cái nhìn cợt nhả, nhưng
tự do, tò mò, sỗ sàng như của kẻ lớn không cần e dè trước trẻ con. Miệng không
hé mở, nhưng trong hai mắt ông học ánh lên một nụ cười ranh mãnh, chọc ghẹo, như
muốn bảo: “Con bé trông ngộ đấy chứ. Ngực nó thế, hình vóc nó, tay chân và đùi
nó như thế, nó khỏe là phải. Gân cốt nó là thứ gân cốt hảo hạng! Ừ, trông con
bé xinh quá.” Cái nhìn ấy đuổi theo nó, chiếu thẳng vào nó suốt từ ngoài giếng
vào đến trong nhà. Nó thấy hơi nóng bốc lên mặt. Nó vừa tức giận vừa bối rối.
Trên đường về, Bạch ngạc nhiên nhớ lại ba giờ vừa qua ở nhà
ông Thạch. Sinh hoạt ở đấy như thực như giỡn, không khí cợt nhả và cảm động, nước
mắt, nụ cười, giận, ghét và cảm thương xen lẫn nhau, khiến cho cuối cùng nó
hoang mang.
Nó đã yêu sao? Nó đã có một mối tình sao? Nó vừa đến nhà ấy để
tìm người thương, để liều mình lao đầu dấn thân vào “đường tình” đó sao? Chuyện
đó như thực như hư. Sau buổi sáng nó ở nhà ông học ra về, chuyện đó như không
hề có được, như có nghĩa mỉa mai, như lạ hẳn đi. Bạch có cảm tưởng trong một
giấc mơ nó thấy mua bán, thu được tiền rất nhiều, về sau ngửa tay coi lại thì
hoàn toàn là tiền giấy cả.
Ba người chị của nó từng thực sự có yêu đương, chứ như nó mà
cũng gọi là yêu đương sao? Nó buồn thoang thoảng: như nó thì chỉ có thể bắt được
tiền giấy để đốt ra tro, không tiêu được ở dương gian.
1959