Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2014
Trần Yên Hòa - TÔ HOÀI “SÁM HỐI” QUA TIỂU THUYẾT “BA NGƯỜI KHÁC”
![]() |
Nhà văn Tô Hoài (Ảnh: NÐT) |
“Ba Người Khác” ấy là ba
cán bộ cộng sản trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất đó. Tác giả đã viết lại, khai
thật, tường trình thật, một bức tranh linh động về một nơi chốn, một địa phương
(thôn Am, thôn Chuôm), một thời điểm, một công việc, mà khi đọc xong ta thấy
bàng hoàng, kinh hãi.
Qua cuốn truyện, Tô Hoài đã nêu lên cái sai, cái ác, cái tội lỗi đã xảy ra ở
một nơi, mà ta có thể hiểu là ở khắp nơi, trên miền bắc ngày ấy. Đọc qua
"Ba Người Khác" của nhà văn Tô Hoài, tôi thấy rùng mình, qua từng
trang, từng đoạn, từng con chữ theo sự diễn đạt của tác giả. Cũng có thể, đến
những giờ phút cuối đời, Tô Hoài muốn phát biểu lên cái sự thật đó, để mọi
người cùng biết, cùng ghê tởm, cùng kinh sợ cái chế độ đó, không phải là tác
giả đã “sám hối” sao?
“Ba Người Khác” là tác phẩm của Tô Hoài, do nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản đầu
năm 2007, đã gây một tiếng vang lớn trên diễn đàn văn học trong nước và hải
ngoại. Tâp sách ghi trên đầu sách là tiểu thuyết, như muốn nói đây mà một cuốn
sách hư cấu, nhưng thật ra, theo Lời Giới Thiệu nhà Xuất Bản Đà Nẵng thì: “Câu
chuyện này có thể được coi là một mảng ký ức trong cuộc đời nhà văn Tô Hoài. Và
ký ức, có thể tương ứng, trùng với điều đã diễn ra.” Vì chúng ta đã biết,
Tô Hoài đã từng là một cán bộ cải cách ruộng đất của cộng sản. Như vậy là Tô
Hoài viết truyện này như là một bút ký, nhưng tác giả đã khôn khéo bằng bút
pháp của một nhà văn, ông đã lột tả hết mọi nỗi đau thương, nghiệt ngã, của
những thân phận con người, từ bần, cố nông, đến trung nông hay địa chủ, đều bị
cái guồng máy cộng sản dày xéo đến tận cùng.

Bây giờ, khi về già, có
lẽ ông đủ thời gian để nhìn lại những ngày đã qua và ông viết “Chiều Chiều, Cát
Bụi Chân Ai…” rất thật… Và đầu năm 2007 này, thật hơn trên cả thảy các tác phẩm
của Tô Hoài, là tiểu thuyết “Ba Người Khác”.
“Ba Người Khác” được sự giới thiệu của nhà xuất bản Đà Nẵng như sau:
“Một câu chuyện đã
lùi xa hơn nửa thế kỷ, từ một đội công tác cải cách ruộng đất xuống các vùng,
miền. Mỗi người một hoàn cảnh, một xuất thân, nhưng nhìn chung hiểu biết còn
nhiều hạn chế… Kết quả, đội công tác ấy đã không hoàn thành nhiệm vụ, mắc những
thiếu sót, khuyết điểm, thậm chí sau này có người còn mắc tội lớn, đi cải cách
mọi nhà nhưng không cải cách chính mình. Chính vì vậy , các cấp đã phải cử
những đội khác tiếp tục sửa sai. Và ba – con – người trong đội ấy trở nên
Ba Người Khác. Sự phân hóa, tha hóa cũng đã thực sự diễn ra theo hướng ‘bi
kịch’ cho chính những người trong đội công tác ấy và cả những nạn nhân của họ.”
“Ba Người Khác” mà Tô Hoài viết lên, thứ nhất là nhân vật xưng tôi tên Bối (có
phải là tác giả không?), thứ hai là đội trưởng Cự, thứ ba là đội viên Đình. Cả
ba thể hiện, cũng có thể nói, là đại diện cho cán bộ cốt cán cộng sản, bên
ngoài lúc nào cũng nói đến cách mạng, đến nhân dân, xoá bỏ bóc lột, bất công,
nhưng bên trong là tham quyền cố vị, ngu dốt, đểu cán, hủ hóa (từ này là từ của
cộng sản, chỉ sự thông dâm của các cán bộ với đàn bà con gái tại nơi công tác).
HỦ HÓA.
Qua đây, tôi muốn đề cập sâu đến chuyện hủ hóa của các cán bộ trên.
Khi Bối đến công tác tại thôn Am, Bối đã “dê” ngay với đứa con gái của một gia
đình cố nông, là bác Diệc. Nhà này nghèo kiết xác mà phải nuôi ăn cho cán bộ.
Cô gái tên Đơm, cô gái cũng nghèo, dĩ nhiên, quần áo rách nát. Cán bộ Bối đã
dùng ba tấc lưởi để chiếm đoạt lấy thân thể Đơm, rồi sau lại tòm tem thêm với
cô đội trưởng dân quân tên Duyên nữa. Chúng ta hãy đọc đoạn văn ngắn sau
đây của Tô Hoài, tả về cảnh ấy:
“Về đến nhà bác Diệc.
Cũng như chiều hôm trước Đơm đương lúi húi trong bếp. Ở góc buồng ngoài, hai
con mắt trắng rợn của người tàn tật nhìn lên, đó là mẹ Đơm. Đơm ra rút rạ.
- Anh đã về.
- Trưa nay Đơm đi đâu?
- Em xuống chợ mua cái này.
- Chợ Huyện à?
Đơm không trả lời mà lấy trong yếm ngực ra dơ lên một gói lá chuối cong cong,
thò hai chiếc bánh đúc ngô vàng hây, cả miếng cháy ở giữa đen giòn. Đơm đưa
bánh cho tôi.
- Ô hay, sao thế này?
- Em thấy anh thích ăn bánh ngô.
- Sao em biết?
- Em nhặt cái lá ở gầm giường, còn dính bánh…
Chết tôi rồi. Đơm cười, nét mặt cô gái dậy thì xanh xao bỗng đỏ hồng, xinh hẳn.
Có lẽ cô cười cái mặt nhăn nhó, méo mó khó hiểu của tôi. Nhưng tôi cầm ngay cái
bánh, cơn đói đã bồn chồn lên rồi. Tôi chẳng ngại. Năm ngoái ở Quảng Xương, ở
Thiệu Hóa, ở Nông Cống, không ở đâu tôi chịu đói. Tôi vẫn ăn vụng. Một hôm đi
họp đội, tôi lại tạt vào chợ, vào quán mua kẹo, bánh đa ướt, có khi lùa vội bát
bánh đúc chan canh cua. Chỉ cốt trông trước trông sau, không để ai nhìn thấy.
Mà biết đâu, suy bụng ta ra bụng người, có lẽ cả đội ai cũng thế, cũng ăn vụng.
Tôi bỏ gói bánh vào túi đeo vải. Nhưng tôi vẫn nắm tay Đơm. Trong mảnh áo rách
vai, cái chân vú nân nẩn. “Em ngoan quá”. Tôi lấy trong khe quyển sổ ghi chép
ra hai tờ giấy bạc một đồng kẹp trong đấy.
- Cầm lấy, thỉnh thoảng mua bánh đức cho anh. Đừng để ai trông thấy nhá. Anh
đương phải “ba cùng”.
- Em biết rồi.
Đơm cầm tiền đút vào mép yếm.
- Em có cái túi hay nhỉ?
Tôi thò tay lách vào ngực Đơm.
Đơm đẩy tay tôi ra.
- Rõ cái anh!
- Anh xem cái chỗ để tiền.
-Ngoài này cơ mà, ai lại sờ vào trong.
- Anh nhầm.
Tôi lại thọc vào ngực Đơm như vừa rồi. Lần này Đơm đứng tây ngây, mặt đỏ
lịm, để yên cho tay tôi vân vê.”
Thế là Bối dụ dỗ “ngủ”
được với Đơm, nhưng sau đó lại tìm cách “ngủ” thêm với Duyên, cô đội trưởng dân
quân, Đơm biết, ghen, nhưng cam chịu. Tô Hoài viết:
“Đơm đứng yên như mọi
khi, mặt đỏ rần. Nhưng những giọt nước mắt rơi xuống. Đơm nói nho nhỏ:
- Anh bỏ em rồi.
- Đội đổi công tác anh sang Chuôm.
- Không phải. Anh sang bên ấy ngủ với con Duyên.
- Tuyên truyền của địch, láo nào!
- Ai cũng biết hết rồi.
Tôi giải thích:
- Bọn phản động đương hoành hành dữ lắm. Vừa có người thắt cổ dưới xóm Đìa. Lúc
hạ dây thừng xuống không thấy hơi trong bụng ứ ra. Đúng là bị treo cổ. Phải đề
cao cảnh giác.
Đơm đẩy tay tôi ra:
- Con Duyên mặc áo ba lỗ của anh có mùi nước hoa thơm, cả cánh đồng ngửi thấy…
Nhìn vào đầu làng chẳng thấy ai, tôi lôi Đơm vào bụi duối rậm rạp. Đú đởn, nhấm
nhẳng, vẫn quanh quẩn…
Đơm lại sa nước mắt, lả chả. Hai con mắt ướt tình quá. Đơm nhấm đầu ngón tay
tôi, nói nhỏ:
- Tối nay đấy.
Về phần hủ hóa với Duyên như sau:
“Bỗng Duyên táo tợn ôm
chầm lấy tôi, lúc lắc cái mũi súng ra sau lưng, cười hinh hích. Thân hình nóng
ran ưởn lên, tôi gồng người dằn xuống. Chẳng biết ra thế nào. Duyên cởi khẩu
súng dựng vào chân cột trụ sau lưng. Hai đứa lăn xuống bãi cỏ, chẳng còn biết
trời đất ở đâu nữa. Tôi thở dốc, ngoi lên hớp từng hơi. Nhưng đến lúc thằng đàn
ông sắp nghẹn cổ chết thì con đàn bà rên ư ử, nhũn ra.
- Em cho anh…
- Bận sau, bận sau. Em đương có tháng.
- Đâu nào? Để anh sờ xem.
Cuộc quần thảo không biết còn lồng lộn bao nhiêu đi nữa. đến lúc tôi chỉ còn
như con chó què, bước xiêu vẹo, lử khử. Lần được về nhà nằm ụych xuống chõng,
thiếp đi.
Và lần sau:
“Tôi đặt cái túi đầu
giường, rồi cẩn thận cởi quần áo, chống hai tay như con ếch bò vào chỗ Duyên.
- Ấy…
- Lại có tháng à, xem nào.
- Không.
Duyên lăn xả vào, cưởi lên tôi. Đến lúc tôi lử cò bợ. Duyên vẫn quắp không cho
giẫy ra.
Duyên thì thào vào tai tôi:
- Tháng sau, em về nhà chồng.
- Sao bảo rồi đi Hà Nội với anh?
- Chỉ được cái thăng thiên. Ra đấy rồi anh bỏ em bơ vơ.
- Anh thề.
- Chẳng phải thề cá trê chui ống, cứ chui vào đây này.
- Thật tháng sau em lấy chồng hả?
- Có thật thì người ta mới cho tha hồ, chứ không để mà chửa hoang với ai. Mai
kia thằng con đầu em đặt nó là thằng Bối.
- Tên nó là thằng Đình.
Duyên ngoạm vào mặt tôi, lại đè tôi ra, hùng hục: “Xem con ai nào! Xem con ai
nào!”
Có hôm cả nhà đi vắng, chúng tôi lại ngủ với nhau cả ban ngày. Duyên thật ra
dáng con gái, lại có bộ mồi cái quần thâm, chiếc áo cánh phin, không man dại
như Đơm. Hai đứa nằm đất mát lạnh trong khuya.
Như vậy, suốt cuốn sách,
Tô Hoài đã đưa cho ta thấy đội công tác, từ người đội trưởng tên Cự, đến tay
Đình, tay Bối, đều có chung một công việc, tìm mọi cách để tố khổ địa chủ, gán
ép những người trung nông lên phú nông, địa chủ, để dở trò tố khổ tiếp, rồi
chiếm đoạt tài sản của địa chủ khi họ bị tố khổ. Còn hủ hoá, thì cán bộ Đình
cũng ngủ với Duyên, Cự cũng ngủ với Duyên và Đơm, rồi cùng với một lô nữ dân
quân nữa.
Đọc tiếp đoạn văn Tô Hoài tả cảnh tố khổ phó Thìn, bị ghép vào tội địa chủ bóc
lột nhân dân lao động, ác ôn, có nợ máu, khiến ta rùng mình. Ngày trước, xem
phim “Chúng Tôi Muốn Sống” tôi cũng có ý nghĩ là một phim tuyên truyền chống
cộng, nhưng bây giờ, đọc Tô Hoài tả cảnh đấu tố, thật còn kinh hoàng hơn thế
nữa.
“Bãi mít tinh đông
nghit người. Giữa đám, có những túm lá móc điều. Những tàu dừa kết thành một
hàng rào xanh trắng trang trí sau bàn tòa án.
Cuộc đấu nổ lên liên tiếp, khi địa chủ Thìn, một lão già tám mươi tuổi héo hắt
như cái cây khoai, mắt thong manh mù dở, khoeo chân không duổi ra được, chẳng
có án thì cũng chỉ dăm hôm nữa lão ngoẻo thôi, vừa được đặt xuống tựa vào cái
cọc. Người chạy lên, chạy xuống tới tấp.
- Mầy có biết tao là ai không?
Thế nào mà tiếng lão già sắp chết này vẫn nói sang sảng:
- Thưa bà nông dân…tôi không biết.
- Tao đi ở cho cháu mày.
- Thế thì tôi không biết thật ạ.
- Mày lấy roi cặc bò đánh tao. Đả đảo địa chủ! Rồi hớt hải chạy xuống giữa
tiếng đả đảo cuồn cuộn trong đám người.
Cái bãi lau chen chúc loi choi, đầm nước trắng đằng cuối. Những con chim
hét đen tuyền, những đàn cò trắng không dám đậu xuống, lượn quanh bên trời với
mấy con diều hâu…
Lát nữa, lão Thìn sẽ chết ở cái bãi mà mới năm trước, lão thuê cả lính bốt
hương dũng đốt có lác cày vở hoang.
Lão Thìn lả người, lăn quay ra giữa bãi. Đống văn tự, giầy tờ, sổ sách chữ Tây,
chữ ta trong nhà lão khuân ra đốt, khói um lên, Tàn than lả tả bay như đàn bướm
đen. Nhưng tiếng quát xô lên: Không cho nó nằm! Nó nằm sập gụ cả đời rồi. Bắt
nó đứng! Bắt nó…
Địa chủ Thìn bị xốc lên
trói hẳn vào cái cọc đã chôn sẳn. Đầu lão ngật đi. Chốc chốc lại ỉa tháo ra cái
quần đã tụt vòng hẳn xuống hai ông chân bằng cái ống nứa.
Tôi ở ghế chủ toạ, đứng lên đọc một cáo trạng tội ác lão Thìn. Nhà nó đã mấy
đời bóc lột, càng ngày càng giàu, càng ác. Nó thu thóc tạ cho Pháp, cho Nhật,
khi kháng chiến đội lốt làm chủ tịch xã, đến hồi Tây về nó làm tổng ủy, nó là
con chó săn của hai, ba đế quốc. Con gái nó đui que câm điếc, nó bắt nông
dân phải lấy, rồi lại phải cày giẽ giả nợ. Đả đảo địa chủ, cường hào ác bá.
Giữa những tiếng lao nhao hô đả đảo, bác Diệc (con rễ của Thìn) run run
bước lên. Mặt tái ngoét như con gà cắt tiết. Tổ dân quân mấy xóm dàn hàng
ngang. Đơm khoác súng đứng hàng đầu. Duyên mặt đỏ hây, cúp mắt xuống nhìn hai
đầu vú đương cường cong tớn. Đơm thì nước mắt ròng ròng nhìn lên tôi. Có phải
những giọt nước mắt nói: ông em ngày trước đấy.
Bác Diệc, chỉ tay vào địa chủ Thìn:
- Tao thù mầy! Tao thù…
Rồi khóc rống lên, chạy xuống. Đội trưởng Cự xô ngay ra trước loa, quát to:
- Hôm nay là ngày thắng lợi của giai cấp nông dân chúng ta, cấm không ai được
khóc..
Cả nghìn con người lại im như tờ.
Khi một loạt tiếng súng tỏa khói xanh um lên, đám đông ở dưới đẩy nhau chạy. Ai
cũng khiếp tiếng nổ. Người hải máu, bịt mắt lại. Người nhốn nháo vỡ ra các ngã.
Tiếng trống cà rùng của đội thiếu nhi nổi lên khua rầm rầm vang vang. Thế là
địa chủ Thìn chết.
Đọc suốt cả truyện “Ba
Người Khác“ của Tô Hoài, còn nhiều nữa, nhiều nữa…những cảnh hãi hùng như trên.
Tôi thấy nhà văn rất can đảm, là đã viết lên được cái dã man, vô nhân tính của
các cán bộ cộng sản. Có người hỏi một nhà văn khác, “một chế độ kinh hoàng
đến thế kia mà sao ông sống được suốt mấy mươi năm”.
Nhà văn trả lời: Vì
tôi biết sợ. Biết sợ nên phải uốn mình, không dám lên tiếng."
Bây giờ Tô Hòai đã tám
mươi sáu tuổi rồi. Ông không còn sợ nữa. Nên ông viết truyện này nói lên sự
thật, như một lời sám hối.
Có thể, đó là cái
nhân cách cuối cùng của nhà văn, như một đoạn thơ trong Lời Mẹ Dặn của
Phùng Quán:
Tôi muốn làm nhà văn
chân thật trọn đời
Sét nổ trên người không xô tôi ngã.
Giấy bút tôi ai cướp giật đi.
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
Phùng Quán
Trần Yên Hòa